=> (s: Ratnamati) Dịch sang tiếng Hán nghĩa là Bảo Ý. Một vị Tăng học giả từ Trung Ấn đến Trung Hoa để thực hiện những công trình phiên dịch đáng kể. Sư đến Lạc Dương (c: Loyang) vào thời Bắc Ngụy năm 508, ở đó sư cộng tác cùng Bồ-đề Lưu-chi (s: Bodhiruci) trong việc dịch Thập Địa Kinh Luận (s: Daśabhūmika-śāstra). Dường như Sư có sự bất đồng quan điểm lớn với Bồ-đề Lưu-chi trong tiến trình công việc dịch thuật, nên sư tách ra thực hiện những chương trình riêng, trong một bản mục lục, sư được xem như một cộng tác viên trong việc dịch thuật chừng 12 bộ kinh hoặc còn hơn thế nữa. Đệ tử lớn của sư là Huệ Quang (慧光c: Huiguang), người sáng lập chi phái Địa Luận tông ở phía Nam. [1] Lời bình của Lusthaus: "Sự tương truyền không có gì rõ ràng như chúng ta muốn biết chính xác về quan điểm khác nhau gây nên sự bất hòa giữa Bồ-đề Lưu-chi (chính là học giả Du-già hành tông và Lặc-na-ma-đề, và cái gọi là cuộc tranh luận của Địa Luận tông vào thế kỷ thứ sáu tối nghĩa hơn là soi sáng sự bất đồng ấy. Vấn đề có lẽ–và cũng là–do khuynh hướng nghiên cứu tư tưởng Như Lai tạng của Lặc-na-ma-đề. Có lẽ không phải Bồ-đề Lưu-chi phản đối bản chất tư tưởng Như Lai tạng, nhưng Sư muốn trả lại cho kinh văn một cách trung thực ý nghĩa như sư đã được hiểu, trong ý nghĩa chính thống của Du-già hành tông (dù Địa luận tông hiển nhiên không chính xác là nguyên bản của Du-già hành tông), và sư đã không bằng lòng sự xâm phạm của Lặc-na-ma-đề. Trang tra cứu Thuật ngữ Phật học từ các nguồn từ điển tổng hợp hiện có, bao gồm từ điển Phật Quang, từ điển Đạo Uyển... do Liên Phật Hội thực hiện."> => (s: Ratnamati) Dịch sang tiếng Hán nghĩa là Bảo Ý. Một vị Tăng học giả từ Trung Ấn đến Trung Hoa để thực hiện những công trình phiên dịch đáng kể. Sư đến Lạc Dương (c: Loyang) vào thời Bắc Ngụy năm 508, ở đó sư cộng tác cùng Bồ-đề Lưu-chi (s: Bodhiruci) trong việc dịch Thập Địa Kinh Luận (s: Daśabhūmika-śāstra). Dường như Sư có sự bất đồng quan điểm lớn với Bồ-đề Lưu-chi trong tiến trình công việc dịch thuật, nên sư tách ra thực hiện những chương trình riêng, trong một bản mục lục, sư được xem như một cộng tác viên trong việc dịch thuật chừng 12 bộ kinh hoặc còn hơn thế nữa. Đệ tử lớn của sư là Huệ Quang (慧光c: Huiguang), người sáng lập chi phái Địa Luận tông ở phía Nam. [1] Lời bình của Lusthaus: "Sự tương truyền không có gì rõ ràng như chúng ta muốn biết chính xác về quan điểm khác nhau gây nên sự bất hòa giữa Bồ-đề Lưu-chi (chính là học giả Du-già hành tông và Lặc-na-ma-đề, và cái gọi là cuộc tranh luận của Địa Luận tông vào thế kỷ thứ sáu tối nghĩa hơn là soi sáng sự bất đồng ấy. Vấn đề có lẽ–và cũng là–do khuynh hướng nghiên cứu tư tưởng Như Lai tạng của Lặc-na-ma-đề. Có lẽ không phải Bồ-đề Lưu-chi phản đối bản chất tư tưởng Như Lai tạng, nhưng Sư muốn trả lại cho kinh văn một cách trung thực ý nghĩa như sư đã được hiểu, trong ý nghĩa chính thống của Du-già hành tông (dù Địa luận tông hiển nhiên không chính xác là nguyên bản của Du-già hành tông), và sư đã không bằng lòng sự xâm phạm của Lặc-na-ma-đề. Trang tra cứu Thuật ngữ Phật học từ các nguồn từ điển tổng hợp hiện có, bao gồm từ điển Phật Quang, từ điển Đạo Uyển... do Liên Phật Hội thực hiện." /> => (s: Ratnamati) Dịch sang tiếng Hán nghĩa là Bảo Ý. Một vị Tăng học giả từ Trung Ấn đến Trung Hoa để thực hiện những công trình phiên dịch đáng kể. Sư đến Lạc Dương (c: Loyang) vào thời Bắc Ngụy năm 508, ở đó sư cộng tác cùng Bồ-đề Lưu-chi (s: Bodhiruci) trong việc dịch Thập Địa Kinh Luận (s: Daśabhūmika-śāstra). Dường như Sư có sự bất đồng quan điểm lớn với Bồ-đề Lưu-chi trong tiến trình công việc dịch thuật, nên sư tách ra thực hiện những chương trình riêng, trong một bản mục lục, sư được xem như một cộng tác viên trong việc dịch thuật chừng 12 bộ kinh hoặc còn hơn thế nữa. Đệ tử lớn của sư là Huệ Quang (慧光c: Huiguang), người sáng lập chi phái Địa Luận tông ở phía Nam. [1] Lời bình của Lusthaus: "Sự tương truyền không có gì rõ ràng như chúng ta muốn biết chính xác về quan điểm khác nhau gây nên sự bất hòa giữa Bồ-đề Lưu-chi (chính là học giả Du-già hành tông và Lặc-na-ma-đề, và cái gọi là cuộc tranh luận của Địa Luận tông vào thế kỷ thứ sáu tối nghĩa hơn là soi sáng sự bất đồng ấy. Vấn đề có lẽ–và cũng là–do khuynh hướng nghiên cứu tư tưởng Như Lai tạng của Lặc-na-ma-đề. Có lẽ không phải Bồ-đề Lưu-chi phản đối bản chất tư tưởng Như Lai tạng, nhưng Sư muốn trả lại cho kinh văn một cách trung thực ý nghĩa như sư đã được hiểu, trong ý nghĩa chính thống của Du-già hành tông (dù Địa luận tông hiển nhiên không chính xác là nguyên bản của Du-già hành tông), và sư đã không bằng lòng sự xâm phạm của Lặc-na-ma-đề. Trang tra cứu Thuật ngữ Phật học từ các nguồn từ điển tổng hợp hiện có, bao gồm từ điển Phật Quang, từ điển Đạo Uyển... do Liên Phật Hội thực hiện."/>
Chúng ta có lỗi về những điều tốt mà ta đã không làm. (Every man is guilty of all the good he did not do.)Voltaire
Tôi chưa bao giờ học hỏi được gì từ một người luôn đồng ý với tôi. (I never learned from a man who agreed with me. )Dudley Field Malone
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)
Cuộc đời là một tiến trình học hỏi từ lúc ta sinh ra cho đến chết đi. (The whole of life, from the moment you are born to the moment you die, is a process of learning. )Jiddu Krishnamurti
Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus
Chỉ có cuộc sống vì người khác mới là đáng sống. (Only a life lived for others is a life worthwhile. )Albert Einstein
Cơ học lượng tử cho biết rằng không một đối tượng quan sát nào không chịu ảnh hưởng bởi người quan sát. Từ góc độ khoa học, điều này hàm chứa một tri kiến lớn lao và có tác động mạnh mẽ. Nó có nghĩa là mỗi người luôn nhận thức một chân lý khác biệt, bởi mỗi người tự tạo ra những gì họ nhận thức. (Quantum physics tells us that nothing that is observed is unaffected by the observer. That statement, from science, holds an enormous and powerful insight. It means that everyone sees a different truth, because everyone is creating what they see.)Neale Donald Walsch
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc nhưng không hương. Cũng vậy, lời khéo nói, không làm, không kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 51)
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển thuật ngữ Phật học »» Đang xem mục từ: Lạc trước 樂着 »»
Hướng dẫn: Quý vị có thể nhập nguyên một từ để tìm xem tất cả những từ ngữ bắt đầu bằng từ đó. Ví dụ, nhập quyết để xem Quyết định tâm, Quyết định tạng luận, Quyết định tín v.v...
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.119 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập