=> Thuật ngữ do Thế Thân sử dụng trong luận giải về kinh Kim Cương, để vạch đề cương chương 2 trong kinh Kim Cương, ngài chia chương nầy thành 4 đoạn riêng. Tên của mỗi tâm được rút ra từ bài kệ tán thán kinh Kim Cương của Vô Trước mà Thế Thân chú giải. Luận giải có hệ thống do Thế Thân dùng nầy thường được tóm tắt vào kinh luận tiếng Hán. Tứ tâm và đoạn kinh văn mà các luận giải trên đề cập là: 1.'Quảng đại tâm' tương quan với : “chư Bồ-tát sinh như thị tâm, sở hữu nhất thiết chúng sinh chúng sinh sở nhiếp. . .” đến “.. .sở hữu chúng sinh giới chúng sinh sở nhiếp”. 2. 'Đệ nhất tâm' tương quan với : “Ngã giai linh nhập vô dư niết-bàn nhi diệt độ chi”. 3. 'Thường tâm' tương quan với : “ Như thị diệt độ vô lượng vô biên chúng sinh, thật vô chúng sinh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát hữu chúng sinh tướng, tức phi Bồ-tát”. Thế Thân luận giải rằng chúng sinh vốn chẳng khác gì Bồ-tát, thế nên nếu Bồ-tát nhận thấy chúng sinh là một sinh thể khác biệt vời mình, thì đó không phải là một vị Bồ-tát. “Cho đến biết rõ có vô số chúng sinh như thân thể chính mình, đời đời không rời bỏ. ” 4. 'Bất sân đảo tâm' tương quan với “Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát khởi chúng sinh tướng, nhân tướng, thọ giả tướng, tắc bất danh Bồ-tát”. Thế Thân luận giải: “Điều nầy rõ ràng tạo nên khoảng cách của hàng Bồ-tát, và tuỳ thuộc vào sự chấm dứt bản ngã với quan niệm chúng sinh tướng...” Xin lưu ý nên dùng một bản dịch kinh Kim Cương khác ngoài bản dịch của Cưu-ma-la-thập để theo dõi Tứ tâm, vì bản dịch của Cưu-ma-la-thập không có chương tổng kết nầy. Luận giải của Thế Thân đã được Bồ-đề Lưu-chi dịch sang Hán văn nhan đề Kim cang Bát-nhã ba-la-mật kinh luận, và bản dịch của Nghĩa Tịnh nhan đề Năng đoạn Kim cang Bát-nhã ba-la-mật kinh luận thích, và hai bản dịch kinh Kim Cương đã được sử dụng riêng biệt trong mỗi bản dịch nầy. Nghĩa Tịnh cũng trích dẫn bài kệ tán thán kinh Kim Cương của Vô Trước từ một bản văn riêng biệt. Tứ niệm trú 四念住 [ja] シネンジュウ shinenjū ||| The 'four stations (or bases) of mindfulness'; also; the fourfold contemplation to be practiced after one has completed the exercise of tranquilizing one's mind: (1) shennianzhu 身念住, contemplating one's body as defiled; (2) shounianzhu 受念住, contemplating one's feelings as painful: even though there are agreeable sensations, they are deceptive, and there is no true pleasure in the world; (3) xinnianzhu 心念住, contemplating one's mind as constantly changing and (4) fanianzhu 法念住, contemplating things in general as devoid of inherent existence. The four bases of mindfulness are included in the thirty-seven elements of enlightenment (三十七道品). Also written 四念處. Tứ tâm 四心 [ja] シシン shishin ||| The 'four thoughts' used by Vasubandhu in his commentary to the Diamond Sutra (T 1511.25.781c-782a) to outline Section Two of the Diamond Sutra,dividing it into four distinct passages (T 236.8.753a). The title of each of the Four Thoughts is extracted from a verse of Asaṅga's Ode to the Diamond Sutra (T1514), of which the Vasubandhu commentary is an annotation. This exegetical scheme used by Vasubandhu is usually found summarized in the Chinese exegetical texts. The Four Thoughts, and the passages they refer to are [using Bodhiruci's translation, T236/T1511]: 1) The 'Broadly Extensive Thought' (廣大心). Corresponds to: "諸菩薩生如是心。所有一切衆生衆生所攝 ..." to .".. 所有衆生界衆生所攝。" (T236.8.753a1-4) 2) The 'Supreme Thought' (第一心). Corresponds to: "我皆令入無餘涅槃而滅度之。" (T236.8.753a4-5) 3) The 'Eternal Thought' (常心). Corresponds to: "如是滅度無量無邊衆生實無衆生得滅度者。何以故。 須菩提。若菩薩有衆生相即非菩薩。" (T236.8.753a1-7) Vasubandhu comments that the living beings are not different from the bodhisattva's own self, and so if a bodhisattva conceives of the living beings as being separate from himself then he is not a bodhisattva. "Thusly apprehending the myriad beings as his own body, the eternal is not abandoned." (T1511.25.782a) 4) The 'Undeluded Thought' (不顛倒). Corresponds to: "何以故非。須菩提。若菩薩起衆生相人相壽者相。 則不名菩薩。" (T236.8.753a7-8) Vasubandhu comments: "This makes plain the distant separation [of the bodhisattva] from, and accordingly the cessation of, a self which views the images of myriad beings, etc." (T 1511.25.782a) It should be noted that one must use a translation of the Diamond Sutra other than Kumārajīva's to follow the fourfold division, as Kumārajīva does not include the final conclusion to this section of the sutra. The commentary by Vasubandhu was translated into Chinese by Bodhiruci 菩提流支 (T1511-金剛般若波羅蜜經論) and Yijing 義淨 (T1513-能斷金剛般若波羅蜜多經論釋), and those two versions of the Diamond Sutra are used in each respectively. Yijing also extracted Asaṅga's Ode from a separate text (T1514).
=> Thuật ngữ do Thế Thân sử dụng trong luận giải về kinh Kim Cương, để vạch đề cương chương 2 trong kinh Kim Cương, sư chia chương nầy thành 4 đoạn riêng. Tên của mỗi tâm được rút ra từ bài kệ tán thán kinh Kim Cương của Vô Trước mà Thế Thân chú giải. Luận giải có hệ thống do Thế Thân dùng nầy thường được tóm tắt vào kinh luận tiếng Hán. Tứ tâm và đoạn kinh văn mà các luận giải trên đề cập là: 1.'Quảng đại tâm' tương quan với : “ chư Bồ-tát sinh như thị tâm, sở hữu nhất thiết chúng sinh chúng sinh sở nhiếp. . .” đến “.. .sở hữu chúng sinh giới chúng sinh sở nhiếp”. 2. 'Đệ nhất tâm' tương quan với : “Ngã giai linh nhập vô dư niết-bàn nhi diệt độ chi”. 3. 'Thường tâm' tương quan với : “ Như thị diệt độ vô lượng vô biên chúng sinh, thật vô chúng sinh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát hữu chúng sinh tướng, tức phi Bồ-tát”. Thế Thân luận giải rằng chúng sinh vốn chẳng khác gì Bồ-tát, thế nên nếu Bồ-tát nhận thấy chúng sinh là một sinh thể khác biệt vời mình, thì đó không phải là một vị Bồ-tát. “Cho đến biết rõ có vô số chúng sinh như thân thể chính mình, đời đời không rời bỏ. ” 4. 'Bất sân đảo tâm' tương quan với “Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát khởi chúng sinh tướng, nhân tướng, thọ giả tướng, tắc bất danh Bồ-tát”. Thế Thân luận giải: “Điều nầy rõ ràng tạo nên khoảng cách của hàng Bồ-tát, và tuỳ thuộc vào sự chấm dứt bản ngã với quan niệm chúng sinh tướng...” Xin lưu ý nên dùng một bản dịch kinh Kim Cương khác ngoài bản dịch của Cưu-ma-la-thập để theo dõi Tứ tâm, vì bản dịch của Cưu-ma-la-thập không có chương tổng kết nầy. Luận giải của Thế Thân đã được Bồ-đề Lưu-chi dịch sang Hán văn nhan đề Kim cang Bát-nhã ba-la-mật kinh luận, và bản dịch của Nghĩa Tịnh nhan đề Năng đoạn Kim cang Bát-nhã ba-la-mật kinh luận thích, và hai bản dịch kinh Kim Cương đã được sử dụng riêng biệt trong mỗi bản dịch nầy. Nghĩa Tịnh cũng trích dẫn bài kệ tán thán kinh Kim Cương của Vô Trước từ một bản văn riêng biệt. Trang tra cứu Thuật ngữ Phật học từ các nguồn từ điển tổng hợp hiện có, bao gồm từ điển Phật Quang, từ điển Đạo Uyển... do Liên Phật Hội thực hiện."> => Thuật ngữ do Thế Thân sử dụng trong luận giải về kinh Kim Cương, để vạch đề cương chương 2 trong kinh Kim Cương, ngài chia chương nầy thành 4 đoạn riêng. Tên của mỗi tâm được rút ra từ bài kệ tán thán kinh Kim Cương của Vô Trước mà Thế Thân chú giải. Luận giải có hệ thống do Thế Thân dùng nầy thường được tóm tắt vào kinh luận tiếng Hán. Tứ tâm và đoạn kinh văn mà các luận giải trên đề cập là: 1.'Quảng đại tâm' tương quan với : “chư Bồ-tát sinh như thị tâm, sở hữu nhất thiết chúng sinh chúng sinh sở nhiếp. . .” đến “.. .sở hữu chúng sinh giới chúng sinh sở nhiếp”. 2. 'Đệ nhất tâm' tương quan với : “Ngã giai linh nhập vô dư niết-bàn nhi diệt độ chi”. 3. 'Thường tâm' tương quan với : “ Như thị diệt độ vô lượng vô biên chúng sinh, thật vô chúng sinh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát hữu chúng sinh tướng, tức phi Bồ-tát”. Thế Thân luận giải rằng chúng sinh vốn chẳng khác gì Bồ-tát, thế nên nếu Bồ-tát nhận thấy chúng sinh là một sinh thể khác biệt vời mình, thì đó không phải là một vị Bồ-tát. “Cho đến biết rõ có vô số chúng sinh như thân thể chính mình, đời đời không rời bỏ. ” 4. 'Bất sân đảo tâm' tương quan với “Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát khởi chúng sinh tướng, nhân tướng, thọ giả tướng, tắc bất danh Bồ-tát”. Thế Thân luận giải: “Điều nầy rõ ràng tạo nên khoảng cách của hàng Bồ-tát, và tuỳ thuộc vào sự chấm dứt bản ngã với quan niệm chúng sinh tướng...” Xin lưu ý nên dùng một bản dịch kinh Kim Cương khác ngoài bản dịch của Cưu-ma-la-thập để theo dõi Tứ tâm, vì bản dịch của Cưu-ma-la-thập không có chương tổng kết nầy. Luận giải của Thế Thân đã được Bồ-đề Lưu-chi dịch sang Hán văn nhan đề Kim cang Bát-nhã ba-la-mật kinh luận, và bản dịch của Nghĩa Tịnh nhan đề Năng đoạn Kim cang Bát-nhã ba-la-mật kinh luận thích, và hai bản dịch kinh Kim Cương đã được sử dụng riêng biệt trong mỗi bản dịch nầy. Nghĩa Tịnh cũng trích dẫn bài kệ tán thán kinh Kim Cương của Vô Trước từ một bản văn riêng biệt. Tứ niệm trú 四念住 [ja] シネンジュウ shinenjū ||| The 'four stations (or bases) of mindfulness'; also; the fourfold contemplation to be practiced after one has completed the exercise of tranquilizing one's mind: (1) shennianzhu 身念住, contemplating one's body as defiled; (2) shounianzhu 受念住, contemplating one's feelings as painful: even though there are agreeable sensations, they are deceptive, and there is no true pleasure in the world; (3) xinnianzhu 心念住, contemplating one's mind as constantly changing and (4) fanianzhu 法念住, contemplating things in general as devoid of inherent existence. The four bases of mindfulness are included in the thirty-seven elements of enlightenment (三十七道品). Also written 四念處. Tứ tâm 四心 [ja] シシン shishin ||| The 'four thoughts' used by Vasubandhu in his commentary to the Diamond Sutra (T 1511.25.781c-782a) to outline Section Two of the Diamond Sutra,dividing it into four distinct passages (T 236.8.753a). The title of each of the Four Thoughts is extracted from a verse of Asaṅga's Ode to the Diamond Sutra (T1514), of which the Vasubandhu commentary is an annotation. This exegetical scheme used by Vasubandhu is usually found summarized in the Chinese exegetical texts. The Four Thoughts, and the passages they refer to are [using Bodhiruci's translation, T236/T1511]: 1) The 'Broadly Extensive Thought' (廣大心). Corresponds to: "諸菩薩生如是心。所有一切衆生衆生所攝 ..." to .".. 所有衆生界衆生所攝。" (T236.8.753a1-4) 2) The 'Supreme Thought' (第一心). Corresponds to: "我皆令入無餘涅槃而滅度之。" (T236.8.753a4-5) 3) The 'Eternal Thought' (常心). Corresponds to: "如是滅度無量無邊衆生實無衆生得滅度者。何以故。 須菩提。若菩薩有衆生相即非菩薩。" (T236.8.753a1-7) Vasubandhu comments that the living beings are not different from the bodhisattva's own self, and so if a bodhisattva conceives of the living beings as being separate from himself then he is not a bodhisattva. "Thusly apprehending the myriad beings as his own body, the eternal is not abandoned." (T1511.25.782a) 4) The 'Undeluded Thought' (不顛倒). Corresponds to: "何以故非。須菩提。若菩薩起衆生相人相壽者相。 則不名菩薩。" (T236.8.753a7-8) Vasubandhu comments: "This makes plain the distant separation [of the bodhisattva] from, and accordingly the cessation of, a self which views the images of myriad beings, etc." (T 1511.25.782a) It should be noted that one must use a translation of the Diamond Sutra other than Kumārajīva's to follow the fourfold division, as Kumārajīva does not include the final conclusion to this section of the sutra. The commentary by Vasubandhu was translated into Chinese by Bodhiruci 菩提流支 (T1511-金剛般若波羅蜜經論) and Yijing 義淨 (T1513-能斷金剛般若波羅蜜多經論釋), and those two versions of the Diamond Sutra are used in each respectively. Yijing also extracted Asaṅga's Ode from a separate text (T1514).
=> Thuật ngữ do Thế Thân sử dụng trong luận giải về kinh Kim Cương, để vạch đề cương chương 2 trong kinh Kim Cương, sư chia chương nầy thành 4 đoạn riêng. Tên của mỗi tâm được rút ra từ bài kệ tán thán kinh Kim Cương của Vô Trước mà Thế Thân chú giải. Luận giải có hệ thống do Thế Thân dùng nầy thường được tóm tắt vào kinh luận tiếng Hán. Tứ tâm và đoạn kinh văn mà các luận giải trên đề cập là: 1.'Quảng đại tâm' tương quan với : “ chư Bồ-tát sinh như thị tâm, sở hữu nhất thiết chúng sinh chúng sinh sở nhiếp. . .” đến “.. .sở hữu chúng sinh giới chúng sinh sở nhiếp”. 2. 'Đệ nhất tâm' tương quan với : “Ngã giai linh nhập vô dư niết-bàn nhi diệt độ chi”. 3. 'Thường tâm' tương quan với : “ Như thị diệt độ vô lượng vô biên chúng sinh, thật vô chúng sinh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát hữu chúng sinh tướng, tức phi Bồ-tát”. Thế Thân luận giải rằng chúng sinh vốn chẳng khác gì Bồ-tát, thế nên nếu Bồ-tát nhận thấy chúng sinh là một sinh thể khác biệt vời mình, thì đó không phải là một vị Bồ-tát. “Cho đến biết rõ có vô số chúng sinh như thân thể chính mình, đời đời không rời bỏ. ” 4. 'Bất sân đảo tâm' tương quan với “Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát khởi chúng sinh tướng, nhân tướng, thọ giả tướng, tắc bất danh Bồ-tát”. Thế Thân luận giải: “Điều nầy rõ ràng tạo nên khoảng cách của hàng Bồ-tát, và tuỳ thuộc vào sự chấm dứt bản ngã với quan niệm chúng sinh tướng...” Xin lưu ý nên dùng một bản dịch kinh Kim Cương khác ngoài bản dịch của Cưu-ma-la-thập để theo dõi Tứ tâm, vì bản dịch của Cưu-ma-la-thập không có chương tổng kết nầy. Luận giải của Thế Thân đã được Bồ-đề Lưu-chi dịch sang Hán văn nhan đề Kim cang Bát-nhã ba-la-mật kinh luận, và bản dịch của Nghĩa Tịnh nhan đề Năng đoạn Kim cang Bát-nhã ba-la-mật kinh luận thích, và hai bản dịch kinh Kim Cương đã được sử dụng riêng biệt trong mỗi bản dịch nầy. Nghĩa Tịnh cũng trích dẫn bài kệ tán thán kinh Kim Cương của Vô Trước từ một bản văn riêng biệt. Trang tra cứu Thuật ngữ Phật học từ các nguồn từ điển tổng hợp hiện có, bao gồm từ điển Phật Quang, từ điển Đạo Uyển... do Liên Phật Hội thực hiện." /> => Thuật ngữ do Thế Thân sử dụng trong luận giải về kinh Kim Cương, để vạch đề cương chương 2 trong kinh Kim Cương, ngài chia chương nầy thành 4 đoạn riêng. Tên của mỗi tâm được rút ra từ bài kệ tán thán kinh Kim Cương của Vô Trước mà Thế Thân chú giải. Luận giải có hệ thống do Thế Thân dùng nầy thường được tóm tắt vào kinh luận tiếng Hán. Tứ tâm và đoạn kinh văn mà các luận giải trên đề cập là: 1.'Quảng đại tâm' tương quan với : “chư Bồ-tát sinh như thị tâm, sở hữu nhất thiết chúng sinh chúng sinh sở nhiếp. . .” đến “.. .sở hữu chúng sinh giới chúng sinh sở nhiếp”. 2. 'Đệ nhất tâm' tương quan với : “Ngã giai linh nhập vô dư niết-bàn nhi diệt độ chi”. 3. 'Thường tâm' tương quan với : “ Như thị diệt độ vô lượng vô biên chúng sinh, thật vô chúng sinh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát hữu chúng sinh tướng, tức phi Bồ-tát”. Thế Thân luận giải rằng chúng sinh vốn chẳng khác gì Bồ-tát, thế nên nếu Bồ-tát nhận thấy chúng sinh là một sinh thể khác biệt vời mình, thì đó không phải là một vị Bồ-tát. “Cho đến biết rõ có vô số chúng sinh như thân thể chính mình, đời đời không rời bỏ. ” 4. 'Bất sân đảo tâm' tương quan với “Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát khởi chúng sinh tướng, nhân tướng, thọ giả tướng, tắc bất danh Bồ-tát”. Thế Thân luận giải: “Điều nầy rõ ràng tạo nên khoảng cách của hàng Bồ-tát, và tuỳ thuộc vào sự chấm dứt bản ngã với quan niệm chúng sinh tướng...” Xin lưu ý nên dùng một bản dịch kinh Kim Cương khác ngoài bản dịch của Cưu-ma-la-thập để theo dõi Tứ tâm, vì bản dịch của Cưu-ma-la-thập không có chương tổng kết nầy. Luận giải của Thế Thân đã được Bồ-đề Lưu-chi dịch sang Hán văn nhan đề Kim cang Bát-nhã ba-la-mật kinh luận, và bản dịch của Nghĩa Tịnh nhan đề Năng đoạn Kim cang Bát-nhã ba-la-mật kinh luận thích, và hai bản dịch kinh Kim Cương đã được sử dụng riêng biệt trong mỗi bản dịch nầy. Nghĩa Tịnh cũng trích dẫn bài kệ tán thán kinh Kim Cương của Vô Trước từ một bản văn riêng biệt. Tứ niệm trú 四念住 [ja] シネンジュウ shinenjū ||| The 'four stations (or bases) of mindfulness'; also; the fourfold contemplation to be practiced after one has completed the exercise of tranquilizing one's mind: (1) shennianzhu 身念住, contemplating one's body as defiled; (2) shounianzhu 受念住, contemplating one's feelings as painful: even though there are agreeable sensations, they are deceptive, and there is no true pleasure in the world; (3) xinnianzhu 心念住, contemplating one's mind as constantly changing and (4) fanianzhu 法念住, contemplating things in general as devoid of inherent existence. The four bases of mindfulness are included in the thirty-seven elements of enlightenment (三十七道品). Also written 四念處. Tứ tâm 四心 [ja] シシン shishin ||| The 'four thoughts' used by Vasubandhu in his commentary to the Diamond Sutra (T 1511.25.781c-782a) to outline Section Two of the Diamond Sutra,dividing it into four distinct passages (T 236.8.753a). The title of each of the Four Thoughts is extracted from a verse of Asaṅga's Ode to the Diamond Sutra (T1514), of which the Vasubandhu commentary is an annotation. This exegetical scheme used by Vasubandhu is usually found summarized in the Chinese exegetical texts. The Four Thoughts, and the passages they refer to are [using Bodhiruci's translation, T236/T1511]: 1) The 'Broadly Extensive Thought' (廣大心). Corresponds to: "諸菩薩生如是心。所有一切衆生衆生所攝 ..." to .".. 所有衆生界衆生所攝。" (T236.8.753a1-4) 2) The 'Supreme Thought' (第一心). Corresponds to: "我皆令入無餘涅槃而滅度之。" (T236.8.753a4-5) 3) The 'Eternal Thought' (常心). Corresponds to: "如是滅度無量無邊衆生實無衆生得滅度者。何以故。 須菩提。若菩薩有衆生相即非菩薩。" (T236.8.753a1-7) Vasubandhu comments that the living beings are not different from the bodhisattva's own self, and so if a bodhisattva conceives of the living beings as being separate from himself then he is not a bodhisattva. "Thusly apprehending the myriad beings as his own body, the eternal is not abandoned." (T1511.25.782a) 4) The 'Undeluded Thought' (不顛倒). Corresponds to: "何以故非。須菩提。若菩薩起衆生相人相壽者相。 則不名菩薩。" (T236.8.753a7-8) Vasubandhu comments: "This makes plain the distant separation [of the bodhisattva] from, and accordingly the cessation of, a self which views the images of myriad beings, etc." (T 1511.25.782a) It should be noted that one must use a translation of the Diamond Sutra other than Kumārajīva's to follow the fourfold division, as Kumārajīva does not include the final conclusion to this section of the sutra. The commentary by Vasubandhu was translated into Chinese by Bodhiruci 菩提流支 (T1511-金剛般若波羅蜜經論) and Yijing 義淨 (T1513-能斷金剛般若波羅蜜多經論釋), and those two versions of the Diamond Sutra are used in each respectively. Yijing also extracted Asaṅga's Ode from a separate text (T1514).
=> Thuật ngữ do Thế Thân sử dụng trong luận giải về kinh Kim Cương, để vạch đề cương chương 2 trong kinh Kim Cương, sư chia chương nầy thành 4 đoạn riêng. Tên của mỗi tâm được rút ra từ bài kệ tán thán kinh Kim Cương của Vô Trước mà Thế Thân chú giải. Luận giải có hệ thống do Thế Thân dùng nầy thường được tóm tắt vào kinh luận tiếng Hán. Tứ tâm và đoạn kinh văn mà các luận giải trên đề cập là: 1.'Quảng đại tâm' tương quan với : “ chư Bồ-tát sinh như thị tâm, sở hữu nhất thiết chúng sinh chúng sinh sở nhiếp. . .” đến “.. .sở hữu chúng sinh giới chúng sinh sở nhiếp”. 2. 'Đệ nhất tâm' tương quan với : “Ngã giai linh nhập vô dư niết-bàn nhi diệt độ chi”. 3. 'Thường tâm' tương quan với : “ Như thị diệt độ vô lượng vô biên chúng sinh, thật vô chúng sinh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát hữu chúng sinh tướng, tức phi Bồ-tát”. Thế Thân luận giải rằng chúng sinh vốn chẳng khác gì Bồ-tát, thế nên nếu Bồ-tát nhận thấy chúng sinh là một sinh thể khác biệt vời mình, thì đó không phải là một vị Bồ-tát. “Cho đến biết rõ có vô số chúng sinh như thân thể chính mình, đời đời không rời bỏ. ” 4. 'Bất sân đảo tâm' tương quan với “Hà dĩ cố? Tu-bồ-đề! Nhược Bồ-tát khởi chúng sinh tướng, nhân tướng, thọ giả tướng, tắc bất danh Bồ-tát”. Thế Thân luận giải: “Điều nầy rõ ràng tạo nên khoảng cách của hàng Bồ-tát, và tuỳ thuộc vào sự chấm dứt bản ngã với quan niệm chúng sinh tướng...” Xin lưu ý nên dùng một bản dịch kinh Kim Cương khác ngoài bản dịch của Cưu-ma-la-thập để theo dõi Tứ tâm, vì bản dịch của Cưu-ma-la-thập không có chương tổng kết nầy. Luận giải của Thế Thân đã được Bồ-đề Lưu-chi dịch sang Hán văn nhan đề Kim cang Bát-nhã ba-la-mật kinh luận, và bản dịch của Nghĩa Tịnh nhan đề Năng đoạn Kim cang Bát-nhã ba-la-mật kinh luận thích, và hai bản dịch kinh Kim Cương đã được sử dụng riêng biệt trong mỗi bản dịch nầy. Nghĩa Tịnh cũng trích dẫn bài kệ tán thán kinh Kim Cương của Vô Trước từ một bản văn riêng biệt. Trang tra cứu Thuật ngữ Phật học từ các nguồn từ điển tổng hợp hiện có, bao gồm từ điển Phật Quang, từ điển Đạo Uyển... do Liên Phật Hội thực hiện."/>

Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Đừng bận tâm về những thất bại, hãy bận tâm đến những cơ hội bạn bỏ lỡ khi thậm chí còn chưa hề thử qua. (Don’t worry about failures, worry about the chances you miss when you don’t even try. )Jack Canfield
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Sự ngu ngốc có nghĩa là luôn lặp lại những việc làm như cũ nhưng lại chờ đợi những kết quả khác hơn. (Insanity: doing the same thing over and over again and expecting different results.)Albert Einstein
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers

Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển thuật ngữ Phật học »» Đang xem mục từ: Tứ tâm 四心 »»

Từ điển thuật ngữ Phật học »» Đang xem mục từ: Tứ tâm 四心




KẾT QUẢ TRA TỪ

Từ điển Phật học Anh-Hán-Việt

TRA THEO VẦN TRONG CÁC TỪ ĐIỂN

Chọn từ điển để xem theo vần A, B, C...


Hướng dẫn: Quý vị có thể nhập nguyên một từ để tìm xem tất cả những từ ngữ bắt đầu bằng từ đó. Ví dụ, nhập quyết để xem Quyết định tâm, Quyết định tạng luận, Quyết định tín v.v...



_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.163 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...