=> Là một tông phái Phật giáo Ấn Độ. Những vị sáng lập tông nầy là Di-lặc (Maitreyanātha 彌勒), Vô Trước (Asaṅga 無著) và Thế Thân (Vasubandhu 世親), giảng giải pháp tu tập trong đó các chướng ngại được chuyển hoá theo từng giai vị, từ đó, tông nầy được mang tên như vậy. Du-già hành phái trở nên nổi tiếng không phải do phương pháp thực hành mà do lý thuyết về siêu hình học và tâm lý học phát triển của nó. Các nhà tư tưởng thuộc Du-già hành phái nhận giáo lý về hợp thể thân tâm của con người đã được phát triển ảt thơid cổ đại Ấn Độ như Hữu bộ (s: Sarvāstivāda 有部) và khai thác chúng thành một hệ thống hoàn chỉnh của tám thức (八識), quan trọng nhất là thức thứ 8, hay A-lại-da thức. Thức được giải thích như là nơi chứa đựng các hạt giống nghiệp (gọi là chủng tử種子), được thụ nhận và tạo tác bởi chúng sinh trong quá trình hiện hữu của họ. Những hạt giồng nầy, chín nuồi trong quá trình biễn biến tương lai, biểu hiện có nhiều điểm tương đồng với nhânh thức về 'gen' trong thời hiện đại. Như vậy, các nhà tư tưởng thuộc Du-già hành phái đã cố gắng giải thích chi tiết làm thế nào mà nghiệp vận hành thực tế bằng cách rất cụ thể và trực tiếp. Bao gồm theo sự phát triển giáo lý về các thức nầy, là ý niệm về cấu trúc của thức–các hiện tượng được coi là bên ngoài chúng ta không thực sự hiện hữu, mà chỉ là sự liên tưởng từ chính cơ cấu của thức. Ý niệm nầy thường được gọi là Duy thức 唯識. Du-già hành phái còn được biết nhờ sự phát triển từ những ý niệm then chốt khác vốn đã giữ ảnh hưởng quan trọng không chỉ riêng trong hệ thống Duy thức, mà trong mọi hệ thống Đại thừa sau nầy. Gồm giáo lý Tam tính 三性, Viên thành thật, Y tha khởi, và biến kế sở chấp, được hiểu đó là sự đáp lại của Du-già hành phái đối với Nhị đế của Trung quán phái. Du-già hành phái cũng là nguồn gốc xuất phát của giáo lý Tam thân Phật, dựa vào tiền đề trong văn học A-tỳ-đạt-ma, và còn được sự hỗ trợ lớn từ sự phát triển các ý niệm về Bách pháp, Ngũ vị và Nhị chướng. Những kinh văn sớm nhất giải thích giáo lý Du-già hành phái là kinh Thắng Man(s: Śrīmālā-sūtra 勝鬘經), kinh Giải thâm mật (k: Saṃdhinirmocana-sūtra 解深密經), Nhiếp Đại thừa luận (s: Mahāyāna-saṃgraha 攝大乘論) và Hiển dương luận (s: Prakaranāryavāca-śāstra 顯揚論). Du-già hành phái được truyền sang Á Đông, nơi đó, nó nhận được danh xưng có chút miệt thị là Pháp tướng tông. Trang tra cứu Thuật ngữ Phật học từ các nguồn từ điển tổng hợp hiện có, bao gồm từ điển Phật Quang, từ điển Đạo Uyển... do Liên Phật Hội thực hiện."> => Là một tông phái Phật giáo Ấn Độ. Những vị sáng lập tông nầy là Di-lặc (Maitreyanātha 彌勒), Vô Trước (Asaṅga 無著) và Thế Thân (Vasubandhu 世親), giảng giải pháp tu tập trong đó các chướng ngại được chuyển hoá theo từng giai vị, từ đó, tông nầy được mang tên như vậy. Du-già hành phái trở nên nổi tiếng không phải do phương pháp thực hành mà do lý thuyết về siêu hình học và tâm lý học phát triển của nó. Các nhà tư tưởng thuộc Du-già hành phái nhận giáo lý về hợp thể thân tâm của con người đã được phát triển ảt thơid cổ đại Ấn Độ như Hữu bộ (s: Sarvāstivāda 有部) và khai thác chúng thành một hệ thống hoàn chỉnh của tám thức (八識), quan trọng nhất là thức thứ 8, hay A-lại-da thức. Thức được giải thích như là nơi chứa đựng các hạt giống nghiệp (gọi là chủng tử種子), được thụ nhận và tạo tác bởi chúng sinh trong quá trình hiện hữu của họ. Những hạt giồng nầy, chín nuồi trong quá trình biễn biến tương lai, biểu hiện có nhiều điểm tương đồng với nhânh thức về 'gen' trong thời hiện đại. Như vậy, các nhà tư tưởng thuộc Du-già hành phái đã cố gắng giải thích chi tiết làm thế nào mà nghiệp vận hành thực tế bằng cách rất cụ thể và trực tiếp. Bao gồm theo sự phát triển giáo lý về các thức nầy, là ý niệm về cấu trúc của thức–các hiện tượng được coi là bên ngoài chúng ta không thực sự hiện hữu, mà chỉ là sự liên tưởng từ chính cơ cấu của thức. Ý niệm nầy thường được gọi là Duy thức 唯識. Du-già hành phái còn được biết nhờ sự phát triển từ những ý niệm then chốt khác vốn đã giữ ảnh hưởng quan trọng không chỉ riêng trong hệ thống Duy thức, mà trong mọi hệ thống Đại thừa sau nầy. Gồm giáo lý Tam tính 三性, Viên thành thật, Y tha khởi, và biến kế sở chấp, được hiểu đó là sự đáp lại của Du-già hành phái đối với Nhị đế của Trung quán phái. Du-già hành phái cũng là nguồn gốc xuất phát của giáo lý Tam thân Phật, dựa vào tiền đề trong văn học A-tỳ-đạt-ma, và còn được sự hỗ trợ lớn từ sự phát triển các ý niệm về Bách pháp, Ngũ vị và Nhị chướng. Những kinh văn sớm nhất giải thích giáo lý Du-già hành phái là kinh Thắng Man(s: Śrīmālā-sūtra 勝鬘經), kinh Giải thâm mật (k: Saṃdhinirmocana-sūtra 解深密經), Nhiếp Đại thừa luận (s: Mahāyāna-saṃgraha 攝大乘論) và Hiển dương luận (s: Prakaranāryavāca-śāstra 顯揚論). Du-già hành phái được truyền sang Á Đông, nơi đó, nó nhận được danh xưng có chút miệt thị là Pháp tướng tông. Trang tra cứu Thuật ngữ Phật học từ các nguồn từ điển tổng hợp hiện có, bao gồm từ điển Phật Quang, từ điển Đạo Uyển... do Liên Phật Hội thực hiện." /> => Là một tông phái Phật giáo Ấn Độ. Những vị sáng lập tông nầy là Di-lặc (Maitreyanātha 彌勒), Vô Trước (Asaṅga 無著) và Thế Thân (Vasubandhu 世親), giảng giải pháp tu tập trong đó các chướng ngại được chuyển hoá theo từng giai vị, từ đó, tông nầy được mang tên như vậy. Du-già hành phái trở nên nổi tiếng không phải do phương pháp thực hành mà do lý thuyết về siêu hình học và tâm lý học phát triển của nó. Các nhà tư tưởng thuộc Du-già hành phái nhận giáo lý về hợp thể thân tâm của con người đã được phát triển ảt thơid cổ đại Ấn Độ như Hữu bộ (s: Sarvāstivāda 有部) và khai thác chúng thành một hệ thống hoàn chỉnh của tám thức (八識), quan trọng nhất là thức thứ 8, hay A-lại-da thức. Thức được giải thích như là nơi chứa đựng các hạt giống nghiệp (gọi là chủng tử種子), được thụ nhận và tạo tác bởi chúng sinh trong quá trình hiện hữu của họ. Những hạt giồng nầy, chín nuồi trong quá trình biễn biến tương lai, biểu hiện có nhiều điểm tương đồng với nhânh thức về 'gen' trong thời hiện đại. Như vậy, các nhà tư tưởng thuộc Du-già hành phái đã cố gắng giải thích chi tiết làm thế nào mà nghiệp vận hành thực tế bằng cách rất cụ thể và trực tiếp. Bao gồm theo sự phát triển giáo lý về các thức nầy, là ý niệm về cấu trúc của thức–các hiện tượng được coi là bên ngoài chúng ta không thực sự hiện hữu, mà chỉ là sự liên tưởng từ chính cơ cấu của thức. Ý niệm nầy thường được gọi là Duy thức 唯識. Du-già hành phái còn được biết nhờ sự phát triển từ những ý niệm then chốt khác vốn đã giữ ảnh hưởng quan trọng không chỉ riêng trong hệ thống Duy thức, mà trong mọi hệ thống Đại thừa sau nầy. Gồm giáo lý Tam tính 三性, Viên thành thật, Y tha khởi, và biến kế sở chấp, được hiểu đó là sự đáp lại của Du-già hành phái đối với Nhị đế của Trung quán phái. Du-già hành phái cũng là nguồn gốc xuất phát của giáo lý Tam thân Phật, dựa vào tiền đề trong văn học A-tỳ-đạt-ma, và còn được sự hỗ trợ lớn từ sự phát triển các ý niệm về Bách pháp, Ngũ vị và Nhị chướng. Những kinh văn sớm nhất giải thích giáo lý Du-già hành phái là kinh Thắng Man(s: Śrīmālā-sūtra 勝鬘經), kinh Giải thâm mật (k: Saṃdhinirmocana-sūtra 解深密經), Nhiếp Đại thừa luận (s: Mahāyāna-saṃgraha 攝大乘論) và Hiển dương luận (s: Prakaranāryavāca-śāstra 顯揚論). Du-già hành phái được truyền sang Á Đông, nơi đó, nó nhận được danh xưng có chút miệt thị là Pháp tướng tông. Trang tra cứu Thuật ngữ Phật học từ các nguồn từ điển tổng hợp hiện có, bao gồm từ điển Phật Quang, từ điển Đạo Uyển... do Liên Phật Hội thực hiện."/>
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Để đạt được thành công, trước hết chúng ta phải tin chắc là mình làm được. (In order to succeed, we must first believe that we can.)Nikos Kazantzakis
Nếu tiền bạc không được dùng để phục vụ cho bạn, nó sẽ trở thành ông chủ. Những kẻ tham lam không sở hữu tài sản, vì có thể nói là tài sản sở hữu họ. (If money be not thy servant, it will be thy master. The covetous man cannot so properly be said to possess wealth, as that may be said to possess him. )Francis Bacon
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển thuật ngữ Phật học »» Đang xem mục từ: Du-già hành phái 瑜伽行派 »»
Hướng dẫn: Quý vị có thể nhập nguyên một từ để tìm xem tất cả những từ ngữ bắt đầu bằng từ đó. Ví dụ, nhập quyết để xem Quyết định tâm, Quyết định tạng luận, Quyết định tín v.v...
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.119 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập