=> Nguyên nghĩa của từ nầy là một "yết thị", hoặc một '' án lệ" được đề ra, hoặc phải giải quyết nơi một cơ quan hành chính của Trung Hoa thời xưa. Được vay mượn thành thuật ngữ của Thiền tông Trung Hoa. được dùng để nói đến một phương tiện mới của Thiền Phật giáo, khác hẳn với cặp Thiền Chỉ/Quán (s: śamatha/vipaśyanā) trong truyền thống Ấn Độ. Thiền Công án (c: Gongan; được biết rộng rãi với nhiều cách phát âm khác nhau (trong tiếng Nhật là kōan) gồm một vấn đề được rút ra trong kinh điển hay trong ghi chép tiểu sử của các Tổ sư vào đời Đường. Sau khi đề tài được trình bày, một câu hỏi được đưa ra như một thoại đầu (c: huatou 話頭) trong câu chuyện. Sự liên hệ giữa câu hỏi và trả lời được hiểu qua cách nghịch lý, thế nên câu trả lời của hành giả không cần phải phát huy từ sự thẩm định duy lý, mà phải trải qua thực chứng bất nhị trong tiến trình thiền quán tham cứu công án. Sau khi công án được phát triển ở Trung Hoa, pháp tu nầy truyền sang Cao Ly gọi là kong'an, ở đó đã duy trì được hình thái ban đầu của Thiền tông Cao Ly (chủ yếu là Tào Khê tông– k: Chogye 曹溪宗) cho đến ngày nay. Ở Nhật Bản, Thiền công án được hành trì chủ yếu trong tông Lâm Tế (j: Rinzai), mặc dù những Thiền sư của tông Tào Động (j: Sōtō ) như Đạo Nguyên (j: Dōgen) cũng công nhận pháp tu nầy. Công án đã được thu thập và chọn lọc, nổi tiếng nhất là các tác phẩm Vô Môn Quan (c: Wumenguan ) Và Bích Nham Lục (c: Biyan lu ). Trang tra cứu Thuật ngữ Phật học từ các nguồn từ điển tổng hợp hiện có, bao gồm từ điển Phật Quang, từ điển Đạo Uyển... do Liên Phật Hội thực hiện."> => Nguyên nghĩa của từ nầy là một "yết thị", hoặc một '' án lệ" được đề ra, hoặc phải giải quyết nơi một cơ quan hành chính của Trung Hoa thời xưa. Được vay mượn thành thuật ngữ của Thiền tông Trung Hoa. được dùng để nói đến một phương tiện mới của Thiền Phật giáo, khác hẳn với cặp Thiền Chỉ/Quán (s: śamatha/vipaśyanā) trong truyền thống Ấn Độ. Thiền Công án (c: Gongan; được biết rộng rãi với nhiều cách phát âm khác nhau (trong tiếng Nhật là kōan) gồm một vấn đề được rút ra trong kinh điển hay trong ghi chép tiểu sử của các Tổ sư vào đời Đường. Sau khi đề tài được trình bày, một câu hỏi được đưa ra như một thoại đầu (c: huatou 話頭) trong câu chuyện. Sự liên hệ giữa câu hỏi và trả lời được hiểu qua cách nghịch lý, thế nên câu trả lời của hành giả không cần phải phát huy từ sự thẩm định duy lý, mà phải trải qua thực chứng bất nhị trong tiến trình thiền quán tham cứu công án. Sau khi công án được phát triển ở Trung Hoa, pháp tu nầy truyền sang Cao Ly gọi là kong'an, ở đó đã duy trì được hình thái ban đầu của Thiền tông Cao Ly (chủ yếu là Tào Khê tông– k: Chogye 曹溪宗) cho đến ngày nay. Ở Nhật Bản, Thiền công án được hành trì chủ yếu trong tông Lâm Tế (j: Rinzai), mặc dù những Thiền sư của tông Tào Động (j: Sōtō ) như Đạo Nguyên (j: Dōgen) cũng công nhận pháp tu nầy. Công án đã được thu thập và chọn lọc, nổi tiếng nhất là các tác phẩm Vô Môn Quan (c: Wumenguan ) Và Bích Nham Lục (c: Biyan lu ). Trang tra cứu Thuật ngữ Phật học từ các nguồn từ điển tổng hợp hiện có, bao gồm từ điển Phật Quang, từ điển Đạo Uyển... do Liên Phật Hội thực hiện." /> => Nguyên nghĩa của từ nầy là một "yết thị", hoặc một '' án lệ" được đề ra, hoặc phải giải quyết nơi một cơ quan hành chính của Trung Hoa thời xưa. Được vay mượn thành thuật ngữ của Thiền tông Trung Hoa. được dùng để nói đến một phương tiện mới của Thiền Phật giáo, khác hẳn với cặp Thiền Chỉ/Quán (s: śamatha/vipaśyanā) trong truyền thống Ấn Độ. Thiền Công án (c: Gongan; được biết rộng rãi với nhiều cách phát âm khác nhau (trong tiếng Nhật là kōan) gồm một vấn đề được rút ra trong kinh điển hay trong ghi chép tiểu sử của các Tổ sư vào đời Đường. Sau khi đề tài được trình bày, một câu hỏi được đưa ra như một thoại đầu (c: huatou 話頭) trong câu chuyện. Sự liên hệ giữa câu hỏi và trả lời được hiểu qua cách nghịch lý, thế nên câu trả lời của hành giả không cần phải phát huy từ sự thẩm định duy lý, mà phải trải qua thực chứng bất nhị trong tiến trình thiền quán tham cứu công án. Sau khi công án được phát triển ở Trung Hoa, pháp tu nầy truyền sang Cao Ly gọi là kong'an, ở đó đã duy trì được hình thái ban đầu của Thiền tông Cao Ly (chủ yếu là Tào Khê tông– k: Chogye 曹溪宗) cho đến ngày nay. Ở Nhật Bản, Thiền công án được hành trì chủ yếu trong tông Lâm Tế (j: Rinzai), mặc dù những Thiền sư của tông Tào Động (j: Sōtō ) như Đạo Nguyên (j: Dōgen) cũng công nhận pháp tu nầy. Công án đã được thu thập và chọn lọc, nổi tiếng nhất là các tác phẩm Vô Môn Quan (c: Wumenguan ) Và Bích Nham Lục (c: Biyan lu ). Trang tra cứu Thuật ngữ Phật học từ các nguồn từ điển tổng hợp hiện có, bao gồm từ điển Phật Quang, từ điển Đạo Uyển... do Liên Phật Hội thực hiện."/>
Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Bạn có thể lừa dối mọi người trong một lúc nào đó, hoặc có thể lừa dối một số người mãi mãi, nhưng bạn không thể lừa dối tất cả mọi người mãi mãi. (You can fool all the people some of the time, and some of the people all the time, but you cannot fool all the people all the time.)Abraham Lincoln
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Chúng ta không có quyền tận hưởng hạnh phúc mà không tạo ra nó, cũng giống như không thể tiêu pha mà không làm ra tiền bạc. (We have no more right to consume happiness without producing it than to consume wealth without producing it. )George Bernard Shaw
Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển thuật ngữ Phật học »» Đang xem mục từ: Công án 公案 »»
Hướng dẫn: Quý vị có thể nhập nguyên một từ để tìm xem tất cả những từ ngữ bắt đầu bằng từ đó. Ví dụ, nhập quyết để xem Quyết định tâm, Quyết định tạng luận, Quyết định tín v.v...
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.19 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập