Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nhà lợp không kín ắt bị mưa dột. Tâm không thường tu tập ắt bị tham dục xâm chiếm.Kinh Pháp cú (Kệ số 13)
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn. Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí.Kinh Pháp cú (Kệ số 186)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)

Trang chủ »» Kinh Nam truyền »» Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 136. Ðại Kinh Nghiệp Phân Biệt - 136. The Greater Exposition of Action »»

Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 136. Ðại Kinh Nghiệp Phân Biệt - 136. The Greater Exposition of Action


Mahākammavibhanga

Quay lại bản Việt dịch || Tải về bảng song ngữ

Xem đối chiếu:

Font chữ:
Nghe đọc phần này hoặc tải về.
Listen to this chapter or download.

136. Ðại Kinh Nghiệp Phân Biệt

136. The Greater Exposition of Action

Dịch từ Pāli sang Việt: Thích Minh Châu
Translated from Pāli to English: Bhikkhu Ñāṇamoli & Bhikkhu Bodhi
Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn ở Rājagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi dưỡng sóc.
[207] 1. THUS HAVE I HEARD. On one occasion the Blessed One was living at Rājagaha, in the Bamboo Grove, the Squirrels’ Sanctuary.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Samiddhi trú tại một cái cốc trong rừng. Rồi du sĩ ngoại đạo Potaliputta tiêu dao tản bộ, tuần tự du hành, đi đến Tôn giả Samiddhi; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Samiddhi những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, du sĩ ngoại đạo Potaliputta thưa với Tôn giả Samiddhi:
2. Now on that occasion the venerable Samiddhi was living in a forest hut. Then the wanderer Potaliputta, while wandering and walking for exercise, went to the venerable Samiddhi and exchanged greetings with him. When this courteous and amiable talk was finished, he sat down at one side and said to the venerable Samiddhi:
-- Này Hiền giả Samiddhi, trước mặt Thế Tôn, tôi tự thân nghe, tự thân ghi nhận như sau: "Hư vọng là thân nghiệp, hư vọng là khẩu nghiệp, chỉ có ý nghiệp là chân thật. Và có một Thiền chứng (samapatti), do thành tựu Thiền chứng này, sẽ không có cảm giác gì".
“Friend Samiddhi, I heard and learned this from the recluse Gotama’s own lips: ‘Bodily action is vain, verbal action is vain, only mental action is real.’ And: ‘There is that attainment on entering which one does not feel anything at all.’”1226
-- Này Hiền giả Potaliputta, chớ có nói vậy. Này Hiền giả Potaliputta, chớ có nói vậy. Chớ có phỉ báng Thế Tôn; phỉ báng Thế Tôn là không tốt. Thế Tôn không có nói như vậy: "Hư vọng là thân nghiệp, hư vọng là khẩu nghiệp, chỉ có ý nghiệp là chân thật". Và Hiền giả, có một Thiền Chứng, do thành tựu thiền chứng này, sẽ không có cảm giác gì.
“Do not say so, friend Potaliputta, do not say so. Do not misrepresent the Blessed One; it is not good to misrepresent the Blessed One. The Blessed One would not speak thus: ‘Bodily action is vain, verbal action is vain, only mental action is real.’ But, friend, there is that attainment on entering which one does not feel anything at all.”
-- Ngài xuất gia đã bao lâu, thưa Hiền giả Samiddhi?
-- Không lâu, thưa Hiền giả. Có ba năm.
“How long is it since you went forth, friend Samiddhi?”
“Not long, friend: three years.”
-- Nay ở đây chúng tôi còn hỏi các Tỷ-kheo trưởng lão làm gì khi một tân Tỷ-kheo nghĩ rằng cần phải bảo vệ vị Ðạo sư như vậy. Thưa Hiền giả Samiddhi, khi một người có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp thời người ấy có cảm giác gì?
“There now, what shall we say to the elder bhikkhus when a young bhikkhu thinks the Teacher is to be defended thus? Friend Samiddhi, having done an intentional action by way of body, speech, or mind, what does one feel?”
-- Này Hiền giả Potaliputta, khi một người có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp thời người ấy cảm giác khổ đau.
“Having done an intentional action by way of body, speech, or mind, one feels suffering, friend Potaliputta.”
Rồi du sĩ ngoại đạo Potaliputta, không tán thán cũng không phản đối lời nói của Tôn giả Samiddhi. Không tán thán, không phản đối, du sĩ ngoại đạo Potaliputta từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi.
Then, neither approving nor disapproving of the venerable Samiddhi’s words, the wanderer Potaliputta rose from his seat and departed.
Rồi Tôn giả Samiddhi, sau khi du sĩ ngoại đạo Potaliputta ra đi không bao lâu, liền đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Ānanda những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Samiddhi kể lại cho Tôn giả Ānanda tất cả cuộc đàm thoại với du sĩ ngoại đạo Potaliputta. Sau khi nghe nói vậy, Tôn giả Ānanda nói với Tôn giả Samiddhi:
3. Soon after the wanderer Potaliputta had left, the venerable Samiddhi went to the venerable Ānanda [208] and exchanged greetings with him. When this courteous and amiable talk was finished, he sat down at one side and reported to the venerable Ānanda his entire conversation with the wanderer Potaliputta. After he had spoken, the venerable Ānanda told him:
-- Này Hiền giả Samiddhi, đây là đề tài một câu chuyện cần phải yết kiến Thế Tôn. Này Hiền giả Samiddhi, chúng ta hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến hãy trình bày lên Thế Tôn rõ ý nghĩa này. Thế Tôn trả lời chúng ta như thế nào, chúng ta hãy như vậy thọ trì.
“Friend Samiddhi, this conversation should be told to the Blessed One. Come, let us approach the Blessed One and tell him this. As the Blessed One explains to us, so we shall bear it in mind.”
-- Thưa vâng, Hiền giả.
— “Yes, friend,” the venerable Samiddhi replied.
Tôn giả Samiddhi vâng đáp Tôn giả Ānanda. Rồi Tôn giả Ānanda và Tôn giả Samiddhi đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda, trình lên Thế Tôn tất cả câu chuyện giữa Tôn giả Samiddhi với du sĩ ngoại đạo Potaliputta.
4. Then the venerable Ānanda and the venerable Samiddhi went together to the Blessed One, and after paying homage to him, they sat down at one side. The venerable Ānanda reported to the Blessed One the entire conversation between the venerable Samiddhi and the wanderer Potaliputta.
Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với Tôn giả Ānanda:
5. When he had finished, the Blessed One told the venerable Ānanda:
-- Này Ānanda, Ta chưa từng thấy du sĩ ngoại đạo Potaliputta, thời câu chuyện này từ đây xảy ra? Này Ānanda, câu hỏi đáng lý phải trả lời phân tích rõ ràng cho du sĩ ngoại đạo Potaliputta, lại được kẻ ngu si Samiddhi này trả lời theo một chiều.
“Ānanda, I do not even recall ever having seen the wanderer Potaliputta, so how could there have been this conversation? Though the wanderer Potaliputta’s question should have been analysed before being answered, this misguided man Samiddhi answered it one-sidedly.”
Khi nghe nói vậy, Tôn giả Udāyi bạch Thế Tôn:
6. When this was said, the venerable Udāyin said to the Blessed One:
-- Bạch Thế Tôn, nếu đây là ý nghĩa của Tôn giả Samiddhi nói lên, thời cảm giác gì người ấy cảm thọ là cảm giác khổ đau.
“Venerable sir, perhaps the venerable Samiddhi spoke thus referring to [the principle]: ‘Whatever is felt is included in suffering.’”1227
Rồi Thế Tôn nói với Tôn giả Ānanda:
Then the Blessed One addressed the venerable Ānanda:
-- Này Ānanda, hãy xem con đường sai lạc của kẻ ngu si Udāyi này. Này Ānanda, Ta biết rằng, nếu nay kẻ ngu si Udāyi này mở miệng ra (đề cập vấn đề gì), ông ấy sẽ mở miệng đề cập một cách không như lý (ayoniso). Này Ānanda, thật sự chỗ khởi thủy của du sĩ ngoại đạo Potaliputta hỏi là về ba cảm thọ. Này Ānanda, nếu kẻ ngu si Samiddhi này được du sĩ ngoại đạo Potaliputta hỏi như vậy và trả lời như sau: "Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp, có khả năng đưa đến lạc thọ, người ấy sẽ cảm giác lạc thọ.
“See, Ānanda, how this misguided man Udāyin interferes. I knew, Ānanda, that this misguided man Udāyin would unduly interfere right now. From the start the wanderer Potaliputta had asked about the three kinds of feeling. This misguided man Samiddhi [209] would have answered the wanderer Potaliputta rightly if, when asked thus, he would have explained: ‘Friend Potaliputta, having done an intentional action by way of body, speech, or mind [whose result is] to be felt as pleasant, one feels pleasure.
Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến khổ thọ, người ấy sẽ cảm giác khổ thọ. Này Hiền giả Potaliputta, nếu một ai có dụng ý làm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp có khả năng đưa đến bất khổ bất lạc thọ, người ấy sẽ cảm giác bất khổ bất lạc thọ"; nếu trả lời như vậy, này Ānanda, kẻ ngu si Samiddhi đã trả lời một cách chơn chánh cho du sĩ ngoại đạo Potaliputta.
Having done an intentional action by way of body, speech, or mind [whose result is] to be felt as painful, one feels pain. Having done an intentional action by way of body, speech, or mind [whose result is] to be felt as neither-pain-nor-pleasure, one feels neither-pain-nor-pleasure.’
Và lại nữa, này Ānanda, những kẻ du sĩ ngoại đạo ngu si, kém học, họ sẽ hiểu được đại phân biệt về nghiệp của Như Lai, này Ānanda, nếu Ông nghe Như Lai phân tích đại phân biệt về nghiệp".
But who are these foolish, thoughtless wanderers of other sects, that they could understand the Tathāgata’s great exposition of action? You should listen, Ānanda, to the Tathāgata as he expounds the great exposition of action.”
-- Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời; bạch Thiện Thệ nay đã đến thời, Thế Tôn hãy phân tích đại phân biệt về nghiệp! Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.
7. “This is the time, Blessed One, this is the time, Sublime One, for the Blessed One to expound the great exposition of action. Having heard it from the Blessed One, the bhikkhus will remember it.”
-- Vậy này Ānanda, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.
“Then listen, Ānanda, and attend closely to what I shall say.”
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ānanda vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
“Yes, venerable sir,” the venerable Ānanda replied. The Blessed One said this:
-- Này Ānanda, có bốn loại người này có mặt ở đời. Thế nào là bốn? Ở đây, này Ānanda, có người sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói lời ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
8. “Ānanda,1228 there are four kinds of persons to be found existing in the world. What four? Here some person kills living beings, takes what is not given, misconducts himself in sensual pleasures, speaks falsehood, speaks maliciously, speaks harshly, gossips; he is covetous, has a mind of ill will, and holds wrong view. On the dissolution of the body, after death, he reappears in a state of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, even in hell.
Nhưng ở đây, này Ānanda, có người sát sanh,... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
“But here some person kills living beings… and holds wrong view. On the dissolution of the body, after death, he reappears in a happy destination, even in the heavenly world.
Ở đây, này Ānanda, có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói ác khẩu, từ bỏ nói lời phù phiếm, từ bỏ tham dục, từ bỏ sân tâm, có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
“Here some person abstains from killing living beings, from taking what is not given, from misconduct in sensual pleasures, from false speech, from malicious speech, [210] from harsh speech, from gossip; he is not covetous, his mind is without ill will, and he holds right view. On the dissolution of the body, after death, he reappears in a happy destination, even in the heavenly world.
Nhưng ở đây, này Ānanda, có người từ bỏ sát sanh,... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
“But here some person abstains from killing living beings… and he holds right view. On the dissolution of the body, after death, he reappears in a state of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, even in hell.
Ở đây, này Ānanda, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn, nhờ cần mẫn, nhờ không phóng dật, nhờ chánh tác ý, nên tâm nhập định. Khi tâm nhập định, nhờ thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, vị ấy thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho, sống tà hạnh trong các dục, nói láo, nói hai lưỡi, nói ác khẩu, nói lời phù phiếm, có tham dục, có sân tâm, có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
9. “Here, Ānanda, by means of ardour, endeavour, devotion, diligence, and right attention, some recluse or brahmin attains such concentration of mind that, when his mind is concentrated, with the divine eye, which is purified and surpasses the human, he sees that person here who kills living beings… and holds wrong view, and he sees that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a state of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, even in hell.
Vị ấy nói như sau: "Thật sự có những ác nghiệp, có quả báo ác hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho... nói hai lưỡi... có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục". Vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả mọi người sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục".
He says thus: ‘Indeed, there are evil actions, there is result of misconduct; for I saw a person here who killed living beings… and held wrong view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a state of deprivation… even in hell.’ He says thus: ‘On the dissolution of the body, after death, everyone who kills living beings… and holds wrong view reappears in a state of deprivation… even in hell.
Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí. Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng".
Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken.’ Thus he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong.’
Ở đây, này Ānanda, có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn,... vị ấy thấy có người sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
10. “But here, Ānanda, [211] by means of ardour… some recluse or brahmin attains such a concentration of mind that, when his mind is concentrated, with the divine eye, which is purified and surpasses the human, he sees that person here who kills living beings… and holds wrong view, and he sees that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world.
Vị ấy nói như sau: "Thật sự không có những ác nghiệp, không có quả báo ác hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả mọi người sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến; "sau khi thân hoại mạng chung, họ đều được sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này".
He says thus: ‘Indeed, there are no evil actions, there is no result of misconduct; for I saw a person here who killed living beings… and held wrong view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world.’ He says thus: ‘On the dissolution of the body, after death, everyone who kills living beings… and holds wrong view reappears in a happy destination, even in the heavenly world.
Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí". Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: "Chỉ như vậy mới chân thực, ngoài ra đều là hư vọng".
Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken.’ Thus he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong.’
Ở đây, này Ānanda, có Sa-môn hay Bà-la-môn, nhờ nhiệt tâm, nhờ tinh tấn,... vị ấy thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
11. “Here, Ānanda, by means of ardour… some recluse or brahmin attains such a concentration of mind that, when his mind is concentrated, with the divine eye, which is purified and surpasses the human, he sees that person here who abstains from killing living beings… and holds right view, and he sees that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world.
Vị ấy nói như sau: "Thật sự có những thiện nghiệp, có quả báo thiện hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này". Vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả mọi người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh.
He says thus: ‘Indeed, there are good actions, there is result of good conduct; for I saw a person here who abstained from killing living beings… and held right view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world.’ He says thus: ‘On the dissolution of the body, after death, everyone who abstains from killing living beings… and holds right view reappears in a happy destination, even in the heavenly world.
Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí". Như vậy, điều này vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng".
Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken.’ Thus he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong.’
Ở đây, này Ānanda, có Sa-môn... vị ấy thấy có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
12. “But here, Ānanda, [212] by means of ardour… some recluse or brahmin attains such a concentration of mind that, when his mind is concentrated, with the divine eye, which is purified and surpasses the human, he sees that person here who abstains from killing living beings… and holds right view, and he sees that on the dissolution of the body, after death, he reappears in a state of deprivation, in an unhappy destination, in perdition, even in hell.
Vị ấy nói như sau: "Thật sự không có những thiện nghiệp, không có quả báo thiện hạnh. Và ta đã thấy có người ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục". Vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả mọi người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
He says thus: ‘Indeed, there are no good actions, there is no result of good conduct; for I saw a person here who abstained from killing living beings… and held right view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a state of deprivation… even in hell.’ He says thus: ‘On the dissolution of the body, after death, everyone who abstains from killing living beings… and holds right view reappears in a state of deprivation… even in hell.
Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí". Như vậy, điều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: "Chỉ như vậy mới chân thực, ngoài ra đều là hư vọng".
Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken.’ Thus he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong.’
Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Chắc chắn có ác nghiệp, có quả báo ác nghiệp". Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy.
13. “Therein, Ānanda,1229 when a recluse or brahmin says: ‘Indeed, there are evil actions, there is result of misconduct,’ I grant him this.
Vị ấy nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến, sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục". Như vậy, Ta cũng chấp nhận cho vị ấy.
When he says: ‘I saw a person here who killed living beings… and held wrong view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a state of deprivation… even in hell,’ I also grant him this.
Còn nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả những ai sát sanh, lấy của không cho... ; sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục", như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.
But when he says: ‘On the dissolution of the body, after death, everyone who kills living beings… and holds wrong view reappears in a state of deprivation… even in hell,’ I do not grant him this.
Và nếu vị ấy nói như sau: "Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí"; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.
And when he says: ‘Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken,’ I also do not grant him this.
Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng". Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ānanda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.
And when he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong,’ I also do not grant him this. Why is that? Because, Ānanda, the Tathāgata’s knowledge of the great exposition of action is otherwise.
Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Chắc chắn không có ác nghiệp, không có quả báo ác hạnh". Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.
14. “Therein, Ānanda, when a recluse or brahmin says: ‘Indeed, there are no evil actions, there is no result of misconduct,’ I do not grant him this.
Và vị ấy nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này". Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy.
When he says: ‘I saw a person here who killed living beings… and held wrong view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world,’ I grant him this.
Còn nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả những ai sát sanh, lấy của không cho... tất cả sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào thiện thú Thiên giới, cõi đời này"; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.
But when he says: “On the dissolution of the body, after death, everyone who kills living beings… and holds wrong view reappears in a happy destination, even in the heavenly world,’ [213] I do not grant him this.
Và nếu vị ấy nói như sau: "Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chơn chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí"; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.
And when he says: ‘Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken,’ I also do not grant him this.
Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng". Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ānanda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.
And when he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong,’ I also do not grant him this. Why is that? Because, Ānanda, the Tathāgata’s knowledge of the great exposition of action is otherwise.
Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Chắc chắn có thiện nghiệp, có quả báo thiện hạnh". Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy.
15. “Therein, Ānanda, when a recluse or brahmin says: ‘Indeed, there are good actions, there is result of good conduct,’ I grant him this.
Và vị ấy nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này". Như vậy, Ta cũng chấp nhận cho vị ấy.
And when he says: ‘I saw a person here who abstained from killing living beings… and held right view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world,’ I also grant him this.
Còn nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn tất cả những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... tất cả sau khi thân hoại mạng chung; họ đều sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này"; như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.
Và nếu vị ấy nói như sau: "Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí"; như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy.
But when he says: ‘On the dissolution of the body, after death, everyone who abstains from killing living beings… and holds right view reappears in a happy destination, even in the heavenly world,’ I do not grant him this.
And when he says: ‘Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken,’ I also do not grant him this.
Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng". Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ānanda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.
And when he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong,’ I also do not grant him this. Why is that? Because, Ānanda, the Tathāgata’s knowledge of the great exposition of action is otherwise.
Ở đây, này Ānanda, Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói như sau: "Chắc chắn không có thiện nghiệp, không có quả báo thiện hạnh". Như vậy, Ta không chấp nhận cho vị ấy.
16. “Therein, Ānanda, when a recluse or brahmin says: ‘Indeed, there are no good actions, there is no result of good conduct,’ I do not grant him this.
Và vị ấy nói như sau: "Tôi đã thấy ở đây có người từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, tôi thấy người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục". Như vậy, Ta chấp nhận cho vị ấy.
When he says: ‘I saw a person here who abstained from killing living beings… and held right view, and I see that on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a state of deprivation… even in hell,’ I grant him this.
Còn nếu vị ấy nói như sau: "Chắc chắn những ai từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, tất cả sau khi thân hoại mạng chung, họ đều sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục"; như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy.
But when he says: ‘On the dissolution of the body, after death, everyone who abstains from killing living beings… and holds right view reappears in a state of deprivation… even in hell,’ I do not grant him this.
Và nếu vị ấy nói như sau: "Những ai biết như vậy, những vị ấy biết một cách chân chánh. Những ai biết khác như vậy, trí của họ thuộc tà trí"; như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy.
And when he says: [214] ‘Those who know thus know rightly; those who think otherwise are mistaken,’ I also do not grant him this.
Ðiều vị ấy tự mình biết, tự mình thấy, tự mình hiểu rõ, ở đây, vị ấy nắm giữ, chấp trước và tuyên bố: "Chỉ như vậy mới chơn thực, ngoài ra đều là hư vọng". Như vậy, Ta cũng không chấp nhận cho vị ấy. Vì cớ sao? Khác như vậy, này Ānanda, là trí của Như Lai về Ðại phân biệt về nghiệp.
And when he obstinately adheres to what he himself has known, seen, and discovered, insisting: ‘Only this is true, anything else is wrong,’ I also do not grant him this. Why is that? Because, Ānanda, the Tathāgata’s knowledge of the great exposition of action is otherwise.
Ở đây, này Ānanda, người nào sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục... Hoặc là một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm lúc trước, hay một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một tà kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt.
17. “Therein, Ānanda,1230 as to the person here who kills living beings… and holds wrong view, and on the dissolution of the body, after death, reappears in a state of deprivation… even in hell: either earlier he did an evil action to be felt as painful, or later he did an evil action to be felt as painful, or at the time of death he acquired and undertook wrong view.1231
Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Và ai ở đây sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.
Because of that, on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a state of deprivation… even in hell. And since he has here killed living beings… and held wrong view, he will experience the result of that either here and now, or in his next rebirth, or in some subsequent existence.1232
Ở đây, này Ānanda, người nào sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này... Hoặc là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm lúc trước, hay một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt.
18. “Therein, Ānanda, as to the person here who kills living beings… and holds wrong view, and on the dissolution of the body, after death, reappears in a happy destination, even in the heavenly world: either earlier he did a good action to be felt as pleasant, or later he did a good action to be felt as pleasant, or at the time of death he acquired and undertook right view.1233
Do vậy sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Và ai ở đây sát sanh, lấy của không cho... có tà kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.
Because of that, on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world. But since he has here killed living beings… and held wrong view, he will experience the result of that either here and now, or in his next rebirth, or in some subsequent existence.
Ở đây, này Ānanda, người nào từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này... Hoặc là một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm từ trước, hay một thiện nghiệp đưa đến cảm giác lạc thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một chánh kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt.
19. “Therein, Ānanda, as to the person here who abstains from killing living beings… and holds right view, and on the dissolution of the body, after death, reappears in a happy destination, even in the heavenly world: either earlier he did a good action to be felt as pleasant, or later he did a good action to be felt as pleasant, or at the time of death he acquired and undertook right view.
Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Và ai ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại, hay trong một đời khác.
Because of that, on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a happy destination, even in the heavenly world. And since he has here abstained from killing living beings [215]… and held right view, he will experience the result of that either here and now, or in his next rebirth, or in some subsequent existence.
Ở đây, này Ānanda, người nào từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến; sau khi thân hoại mạng chung, người ấy bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục... Hoặc là một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm từ trước, hay một ác nghiệp đưa đến cảm giác khổ thọ do người ấy làm về sau, hay trong khi mệnh chung, một tà kiến được người ấy chấp nhận và chấp chặt.
20. “Therein, Ānanda, as to the person here who abstains from killing living beings… and holds right view, and on the dissolution of the body, after death, reappears in a state of deprivation… even in hell: either earlier he did an evil action to be felt as painful, or later he did an evil action to be felt as painful, or at the time of death he acquired and undertook wrong view.
Do vậy, sau khi thân hoại mạng chung, người ấy sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Và ai ở đây từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho... có chánh kiến, người ấy phải lãnh thọ quả báo được khởi lên ngay hiện tại hay trong một đời khác.
Because of that, on the dissolution of the body, after death, he has reappeared in a state of deprivation… even in hell. But since he has here abstained from killing living beings… and held right view, he will experience the result of that either here and now, or in his next rebirth, or in some subsequent existence.
Như vậy, này Ānanda, có nghiệp vô hữu tợ vô hữu, có nghiệp vô hữu tợ hữu, có nghiệp hữu tợ hữu, có nghiệp hữu tợ vô hữu.
21. “Thus, Ānanda, there is action that is incapable and appears incapable; there is action that is incapable and appears capable; there is action that is capable and appears capable; and there is action that is capable and appears incapable.”1234
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ānanda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.
That is what the Blessed One said. The venerable Ānanda was satisfied and delighted in the Blessed One’s words.





_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.144.17.45 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Ngọc Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Thiện Diệu Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Văn Minh Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Thiền Khách Rộng Mở Tâm Hồn nước Rộng Mở Tâm Hồn Bui Tuyet Lan Rộng Mở Tâm Hồn Xuân Thôn Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Độ Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn Pháp Tâm Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Yduongvan Rộng Mở Tâm Hồn Trí Tuệ Từ Bi Rộng Mở Tâm Hồn Tiến Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Hoat Khong ... ...

Việt Nam (71 lượt xem) - Hoa Kỳ (56 lượt xem) - French Southern Territories (5 lượt xem) - Philippines (2 lượt xem) - Saudi Arabia (2 lượt xem) - Algeria (1 lượt xem) - Kenya (1 lượt xem) - Uzbekistan (1 lượt xem) - Hà Lan (1 lượt xem) - Nga (1 lượt xem) - Anh quốc (1 lượt xem) - Mauritius (1 lượt xem) - ... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học