Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)

Trang chủ »» Kinh Nam truyền »» Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 97. Kinh Dhānañjāni - 97. To Dhānañjāni »»

Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikāya) »» 97. Kinh Dhānañjāni - 97. To Dhānañjāni


Dhānanjāni sutta

Quay lại bản Việt dịch || Tải về bảng song ngữ

Xem đối chiếu:

Font chữ:
Nghe đọc phần này hoặc tải về.
Listen to this chapter or download.

97. Kinh Dhānañjāni

97. To Dhānañjāni

Dịch từ Pāli sang Việt: Thích Minh Châu
Translated from Pāli to English: Bhikkhu Ñāṇamoli & Bhikkhu Bodhi
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Rājagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại Kalandakanivapa (chỗ nuôi dưỡng sóc).
1. THUS HAVE I HEARD. On one occasion the Blessed One was living at Rājagaha in the Bamboo Grove, the Squirrels’ Sanctuary.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Sāriputta đang du hành tại Dakkhinagiri (Nam Sơn) cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Một vị Tỷ-kheo sau khi an cư mùa mưa ở Rajagaha (Vương Xá) đi đến Dakkhinagiri và đi đến Tôn giả Sāriputta, sau khi đến nói lên với Tôn giả Sāriputta, những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Rồi Tôn giả Sāriputta nói với vị Tỷ-kheo ấy đang ngồi một bên:
2. Now on that occasion the venerable Sāriputta was wandering in the Southern Hills with a large Sangha of bhikkhus. Then a certain [185] bhikkhu who had spent the Rains at Rājagaha went to the venerable Sāriputta in the Southern Hills and exchanged greetings with him. When this courteous and amiable talk was finished, he sat down at one side and the venerable Sāriputta asked him:
-- Này Hiền giả, Thế Tôn có được không bệnh, mạnh khỏe không?
“Is the Blessed One well and strong, friend?”
-- Thưa Hiền giả, Thế Tôn không bệnh và được mạnh khỏe.
“The Blessed One is well and strong, friend.”
-- Thưa Hiền giả, còn chúng Tỷ-kheo có được không bệnh và mạnh khỏe không?
“Is the Sangha of bhikkhus well and strong, friend?”
-- Thưa Hiền giả, chúng Tỷ-kheo cũng không bệnh và được mạnh khỏe.
“The Sangha of bhikkhus too is well and strong, friend.”
-- Ở đây, này Hiền giả, có Bà-la-môn tên là Dhānañjāni ở tại Tandulapala. Này Hiền giả, Bà-la-môn Dhānañjāni có được không bệnh và mạnh khỏe không?
“Friend, there is a brahmin named Dhānañjāni living at the Taṇḍulapāla Gate. Is that brahmin Dhānañjāni well and strong?”
-- Thưa Hiền giả, Bà-la-môn Dhānañjāni cũng không bệnh và được mạnh khỏe.
“That brahmin Dhānañjāni too is well and strong, friend.”
-- Này Hiền giả, Bà-la-môn Dhanajani có được không phóng dật không?
“Is he diligent, friend?”
-- Thưa Hiền giả, làm sao Bà-la-môn Dhannajani có thể không phóng dật được! Thưa Hiền giả, Bà-la-môn Dhānañjāni ỷ thế vua, bóc lột các Bà-la-môn gia chủ, ỷ thế các Bà-la-môn gia chủ, bóc lột vua. Người vợ trước của Bà-la-môn có thành tín, cưới từ một gia đình có thành tín đã từ trần. Người vợ sau không có thành tín và cưới từ một gia đình không có thành tín.
“How could he be diligent, friend? He plunders brahmin householders in the name of the king, and he plunders the king in the name of the brahmin householders. His wife, who had faith and came from a clan with faith, has died and he has taken another wife, a woman without faith who comes from a clan without faith.”
-- Này Hiền giả, thật là một tin không tốt lành! Này Hiền giả, thật là một tin không tốt lành khi chúng ta được nghe Bà-la-môn Dhānañjāni phóng dật. Rất có thể chúng ta có dịp gặp Bà-la-môn Dhānañjāni, rất có thể sẽ có một cuộc đàm thoại.
“This is bad news that we hear, friend. It is bad news indeed to hear that the brahmin Dhānañjāni has become negligent. Perhaps sometime or other we might meet the brahmin Dhānañjāni and have some conversation with him.”
Rồi Tôn giả Sāriputta sau khi ở tại Dakkhinagiri cho đến khi vừa ý, liền khởi hành đi Rajagaha (Vương Xá), tuần tự du hành và đến tại Vương Xá. Ở đây, Tôn giả Sāriputta trú ở Rajagaha, Veluvana, tại Kalandakanivapa.
3. Then, having stayed in the Southern Hills as long as he chose, the venerable Sāriputta set out to wander towards Rājagaha. Wandering by stages he eventually arrived at Rājagaha, and there he lived in the Bamboo Grove, the Squirrels’ Sanctuary.
Rồi Tôn giả Sāriputta đắp y vào buổi sáng, cầm y bát, đi vào Vương Xá để khất thực. Lúc bấy giờ Bà-la-môn Dhānañjāni đang cho vắt sữa bò ở ngoài thành. Tôn giả Sāriputta sau khi khất thực ở Vương Xá xong, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, đi đến Bà-la-môn Dhānañjāni. Bà-la-môn Dhānañjāni thấy Tôn giả Sāriputta từ xa đi tới, sau khi thấy, liền đi đến Tôn giả Sāriputta, sau khi đến liền thưa với Tôn giả Sāriputta:
4. Then, when it was morning, the venerable Sāriputta dressed, and taking his bowl and outer robe, went into Rājagaha for alms. [186] Now at that time the brahmin Dhānañjāni was having his cows milked in a cowshed outside the city. So when the venerable Sāriputta had wandered for alms in Rājagaha and had returned from his almsround, after his meal he went to the brahmin Dhānañjāni. The brahmin Dhānañjāni saw the venerable Sāriputta coming in the distance, and he went to him and said:
-- Hãy uống sữa này và chờ cho đến giờ ăn cơm.
“Drink some of this fresh milk, Master Sāriputta, until it is time for the meal.”
-- Thôi vừa rồi, Bà-la-môn. Hôm nay ta đã ăn xong. Ta sẽ ngồi nghỉ trưa ở một góc cây. Ông có thể đến đó.
“Enough, brahmin, I have finished my meal for today. I shall be at the root of that tree for the day’s abiding. You may come there.”
-- Thưa vâng, Tôn giả.
“Yes, sir,” he replied.
Bà-la-môn Dhānañjāni vâng đáp Tôn giả Sāriputta. Rồi Bà-la-môn Dhānañjāni sau khi ăn sáng xong, liền đi đến Tôn giả Sāriputta, sau khi đến nói lên với Tôn giả Sāriputta những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Tôn giả Sāriputta nói với Bà-la-môn Dhānañjāni đang ngồi một bên:
5. And then, after he had eaten his morning meal, the brahmin Dhānañjāni went to the venerable Sāriputta and exchanged greetings with him. When this courteous and amiable talk was finished, he sat down at one side and the venerable Sāriputta asked him:
-- Này Dhānañjāni, ông có không phóng dật không?
“Are you diligent, Dhānañjāni?”
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, làm sao chúng tôi có thể không phóng dật được, khi chúng tôi còn cha mẹ phải phụng dưỡng, còn vợ con phải nuôi dưỡng, còn đầy tớ, lao công phải nuôi dưỡng, còn có những trách nhiệm bạn bè thân hữu phải làm đối với bạn bè thân hữu, còn có những trách nhiệm bà con huyết thống phải làm đối với bà con huyết thống, còn có những trách nhiệm tân khách phải làm đối với tân khách, còn có những trách nhiệm tổ tiên phải làm đối với tổ tiên, còn có những trách nhiệm chư Thiên phải làm đối với chư Thiên, còn có những trách nhiệm vua chúa phải làm đối với vua chúa, lại còn thân này cần phải làm cho thỏa mãn và trưởng dưỡng!
“How can we be diligent, Master Sāriputta, when we have to support our parents, our wife and children, and our slaves, servants, and workers; when we have to do our duty towards our friends and companions, towards our kinsmen and relatives, towards our guests, towards our departed ancestors, towards the deities, and towards the king; and when this body must also be refreshed and nourished?”
-- Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì cha mẹ làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh. Do nhân duyên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, các địa ngục quân kéo người ấy đến địa ngục. Người ấy làm được gì khi nói: "Tôi vì cha mẹ đã làm các điều phi pháp, đã làm các điều bất chánh. Chớ có để các địa ngục quân kéo tôi đến địa ngục"?
6. “What do you think, Dhānañjāni? Suppose someone here were to behave contrary to the Dhamma, to behave unrighteously for the sake of his parents, and then because of such behaviour the wardens of hell were to drag him off to hell. Would he be able [to free himself by pleading thus]: ‘It was for the sake of my parents that I behaved contrary to the Dhamma, that I behaved unrighteously, so let not the wardens of hell [drag me off] to hell’? [187]
Hay cha mẹ của người ấy làm được gì khi nói: "Con chúng tôi vì cha mẹ đã làm các điều phi pháp, đã làm các điều bất chánh. Chớ có để các địa ngục quân kéo nó đến địa ngục"?
Or would his parents be able [to free him by pleading thus]: ‘It was for our sake that he behaved contrary to the Dhamma, that he behaved unrighteously, so let not the wardens of hell [drag him off] to hell’?”
-- Thưa không được, Tôn giả Sāriputta. Các địa ngục quân vẫn quăng người ấy xuống địa ngục, dầu người ấy có khóc than.
“No, Master Sāriputta. Even while he was crying out, the wardens of hell would fling him into hell.”
-- Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì vợ con làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh. Do nhân duyên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, các địa ngục quân kéo người ấy đến địa ngục. Người ấy làm được gì khi nói: "Tôi vì vợ con đã làm các điều phi pháp, đã làm điều bất chánh. Chớ có để các địa ngục quân kéo tôi đến địa ngục"?
7–15. “What do you think, Dhānañjāni? Suppose someone here were to behave contrary to the Dhamma, to behave unrighteously for the sake of his wife and children…
Hay vợ con người ấy có làm được gì khi nói: "Chồng, cha tôi vì chúng tôi đã làm các điều phi pháp, đã làm các điều bất chánh. Chớ có để các địa ngục quân kéo chồng, cha tôi đến địa ngục"?
-- Thưa không được, Tôn giả Sāriputta. Các địa ngục quân vẫn quăng người ấy xuống địa ngục, dầu người ấy có khóc than.
-- Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì đầy tớ lao công làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh. Do nhân duyên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, các địa ngục quân kéo người ấy đến địa ngục. Người ấy làm được gì khi nói: "Tôi vì các đầy tớ lao công đã làm các điều phi pháp, đã làm các điều bất chánh. Chớ có để các địa ngục quân kéo tôi đến địa ngục"? Hay các đầy tớ lao công có làm được gì khi nói: "Chủ chúng tôi vì chúng tôi đã làm các điều phi pháp, đã làm các điều bất chánh. Chớ có để các địa ngục quân kéo chủ chúng tôi đến địa ngục"?
for the sake of his slaves, servants, and workers…
-- Thưa không được, Tôn giả Sāriputta. Các địa ngục quân vẫn quăng người ấy xuống địa ngục, dầu người ấy có khóc than.
-- Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì bạn bè thân hữu... dầu người ấy có khóc than.
for the sake of his friends and companions…
for the sake of his kinsmen and relatives…
Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì các tân khách... dầu người ấy có khóc than.
for the sake of his guests… [188]
Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì tổ tiên... dầu người ấy có khóc than.
for the sake of his departed ancestors…
Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì chư Thiên ... dầu người ấy có khóc than.
for the sake of the deities…
Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì vua chúa... dầu người ấy có khóc than.
for the sake of the king…
Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người vì làm cho thỏa mãn, vì trưởng dưỡng cái thân làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh. Do nhân duyên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh này, các địa ngục quân kéo người ấy đến địa ngục. Người ấy làm được gì khi người ấy nói: "Vì làm cho thỏa mãn, vì trưởng dưỡng cái thân, tôi đã làm các điều phi pháp, đã làm các điều bất chánh này. Chớ có để các địa ngục quân kéo tôi đến địa ngục"?
for the sake of refreshing and nourishing this body, and because of such behaviour the wardens of hell were to drag him off to hell. Would he be able [to free himself by pleading thus]: ‘It was for the sake of refreshing and nourishing this body that I behaved contrary to the Dhamma, that I behaved unrighteously, so let not the wardens of hell [drag me off] to hell’?
Hay các người khác có làm được gì khi họ nói: "Vì làm cho thỏa mãn, vì trưởng dưỡng cái thân, người này làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh này. Chớ có để các địa ngục quân kéo nó đến địa ngục"?
Or would others be able [to free him by pleading thus]: ‘It was for the sake of refreshing and nourishing this body that he behaved contrary to the Dhamma, that he behaved unrighteously, so let not the wardens of hell [drag him off] to hell’?”
-- Thưa không được, Tôn giả Sāriputta. Các địa ngục quân vẫn quăng người ấy xuống địa ngục, dầu người ấy có khóc than.
“No, Master Sāriputta. Even while he was crying out, the wardens of hell would fling him into hell.”
-- Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Một người vì cha mẹ làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay một người vì cha mẹ làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn?
16. “What do you think, Dhānañjāni? Who is the better, one who for the sake of his parents behaves contrary to the Dhamma, behaves unrighteously, or one who for the sake of his parents behaves according to the Dhamma, behaves righteously?”
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, người vì cha mẹ làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sāriputta, người vì cha mẹ làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sāriputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh.
“Master Sāriputta, the one who for the sake of his parents behaves contrary to the Dhamma, behaves unrighteously, is not the better; the one who for the sake of his parents behaves according to the Dhamma, behaves righteously, is the better. Behavior in accordance with the Dhamma, righteous behavior, is better than behavior contrary to the Dhamma, unrighteous behavior.”
-- Này Dhānañjāni, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể phụng dưỡng cha mẹ, không làm các điều ác, làm được các thiện hành.
“Dhānañjāni, there are other kinds of work, profitable and in accordance with the Dhamma, by means of which one can support one’s parents and at the same time both avoid doing evil and practise merit. 17–25.
Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Một người vì vợ con làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay một người vì vợ con, làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn?
“What do you think, Dhānañjāni? Who is the better, one who for the sake of his wife and children… [189]…
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, một người vì vợ con làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sāriputta, một người vì vợ con làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sāriputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh.
-- Này Dhānañjāni, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể nuôi dưỡng vợ con, không làm các điều ác, làm được các thiện hành.
Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Một người vì đầy tớ lao công làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay một người vì đầy tớ lao công làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn?
for the sake of his slaves, servants, and workers…
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, người vì đầy tớ lao công làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sāriputta, người vì đầy tớ lao công làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sāriputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh.
-- Này Dhānañjāni, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể nuôi dưỡng đầy tớ lao công, không làm các điều ác, làm được các thiện hành.
Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Một người vì bạn bè thân hữu làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay là người vì bạn bè thân hữu làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn?
for the sake of his friends and companions… [190]…
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, người vị bạn bè thân hữu làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sāriputta, người vì bạn bè thân hữu làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sāriputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh.
-- Này Dhānañjāni, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể nuôi dưỡng bạn bè thân hữu, không làm các điều ác, làm được các thiện hành.
Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Một người vì bà con huyết thống làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay một người vì bà con huyết thống làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn?
for the sake of his kinsmen and relatives…
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, người vì bà con huyết thống làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sāriputta, người vì bà con huyết thống làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sāriputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh.
-- Này Dhānañjāni, có những hành động khác, có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể nuôi dưỡng bà con huyết thống, không làm các điều ác, làm được các thiện hành.
Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Một người vì tân khách làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay một người vì tân khách làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn?
for the sake of his guests…
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, người vì tân khách làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sāriputta, người vì tân khách làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sāriputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh.
-- Này Dhānañjāni, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể làm các bổn phận tân khách đối với tân khách, không làm các điều ác, làm được các thiện hành.
Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Một người vì tổ tiên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay người vì tổ tiên làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn?
for the sake of his departed ancestors…
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, người vì tổ tiên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sāriputta, người vì tổ tiên làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sāriputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh.
-- Này Dhānañjāni, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể làm được những trách nhiệm tổ tiên phải làm đối với các tổ tiên, không làm các điều ác, làm được các thiện hành.
Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Một người vì chư Thiên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay người vì chư Thiên làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn?
for the sake of the deities…
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, người vì chư Thiên làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sāriputta, người vì chư Thiên làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sāriputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh.
-- Này Dhānañjāni, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể làm được các trách nhiệm chư Thiên, phải làm đối với chư Thiên, không làm các điều ác, làm được các thiện hành.
Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Người vì vua chúa làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay người vì vua chúa làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn?
[191]… for the sake of the king…
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, người vì vua chúa làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sāriputta, người vì vua chúa làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sāriputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh.
-- Này Dhānañjāni, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, có thể làm các trách nhiệm vua chúa phải làm đối với vua chúa, không làm các điều ác, làm được các thiện hành.
Này Dhānañjāni, Ông nghĩ thế nào? Người vì làm thỏa mãn, vì trưởng dưỡng cái thân làm điều phi pháp, làm các điều bất chánh, hay là người vì làm thỏa mãn, vì trưởng dưỡng cái thân, làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, ai tốt đẹp hơn?
for the sake of refreshing and nourishing this body behaves contrary to the Dhamma, behaves unrighteously, or one who for the sake of refreshing and nourishing this body behaves according to the Dhamma, behaves righteously?”
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, người vì làm thỏa mãn, vì trưởng dưỡng cái thân làm các điều phi pháp, làm các điều bất chánh, người ấy không tốt đẹp hơn. Và thưa Tôn giả Sāriputta, người vì làm thỏa mãn, vì trưởng dưỡng cái thân làm các điều đúng pháp, làm các điều chơn chánh, người ấy tốt đẹp hơn. Thưa Tôn giả Sāriputta, hành trì đúng pháp, hành trì chơn chánh tốt đẹp hơn hành trì phi pháp, hành trì bất chánh.
“Master Sāriputta, the one who for the sake of refreshing and nourishing this body behaves contrary to the Dhamma, behaves unrighteously, is not the better; the one who for the sake of refreshing and nourishing this body behaves according to the Dhamma, behaves righteously, is the better. Behavior in accordance with the Dhamma, righteous behavior, is better than behavior contrary to the Dhamma, unrighteous behavior.”
-- Này Dhānañjāni, có những hành động khác có nhân, đúng pháp, với những hành động này có thể làm thỏa mãn, trưởng dưỡng cái thân, không làm các điều ác, làm được các thiện hành.
“Dhānañjāni, there are other kinds of work, profitable and in accordance with the Dhamma, by means of which one can refresh and nourish this body and at the same time both avoid doing evil and practise merit.”
Bà-la-môn Dhānañjāni hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Sāriputta dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
26. Then the brahmin Dhānañjāni, having delighted and rejoiced in the venerable Sāriputta’s words, rose from his seat and departed.
Bà-la-môn Dhānañjāni sau một thời gian bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh. Rồi Bà-la-môn Dhānañjāni cho gọi một người khác:
27. On a later occasion the brahmin Dhānañjāni became afflicted, suffering, and gravely ill. Then he told a man:
-- Ông hãy đi đến Thế Tôn, sau khi đến, hãy nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ chân thế Tôn và thưa: "Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Dhānañjāni bị bệnh, khổ đau, bị bạo bệnh, xin cúi đầu đảnh lễ Thế Tôn".
“Come, good man, [192] go to the Blessed One, pay homage in my name with your head at his feet, and say: ‘Venerable sir, the brahmin Dhānañjāni is afflicted, suffering, and gravely ill; he pays homage with his head at the Blessed One’s feet.’
Rồi Ông đi đến Tôn giả Sāriputta, sau khi đến, hãy nhân danh ta cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sāriputta, và thưa: "Thưa Tôn giả Sāriputta, Bà-la-môn Dhānañjāni bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sāriputta và thưa: "Tôn giả, lành thay nếu Tôn giả Sāriputta vì lòng từ bi thương xót, đi đến trú xá của Bà-la-môn Dhānañjāni".
Then go to the venerable Sāriputta, pay homage in my name with your head at his feet, and say: ‘Venerable sir, the brahmin Dhānañjāni is afflicted, suffering, and gravely ill; he pays homage with his head at the venerable Sāriputta’s feet.’ Then say thus: ‘It would be good, venerable sir, if the venerable Sāriputta would come to the house of the brahmin Dhānañjāni, out of compassion.’”
-- Thưa vâng, Tôn giả.
Người ấy vâng theo lời Bà-la-môn Dhānañjāni, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ chân Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, người ấy bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Dhānañjāni bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn.
“Yes, venerable sir,” the man replied, and he went to the Blessed One, and after paying homage to the Blessed One, he sat down at one side and delivered his message.
Rồi đi đến Tôn giả Sāriputta, sau khi đến đảnh lễ Tôn giả Sāriputta rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, người ấy thưa với Tôn giả Sāriputta:
Then he went to the venerable Sāriputta and after paying homage to the venerable Sāriputta, he delivered his message, saying:
-- Thưa Tôn giả, Bà-la-môn Dhānañjāni bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cúi đầu đảnh lễ Tôn giả Sāriputta và thưa: "Thưa tôn giả, lành thay nếu Tôn giả Sāriputta vì lòng từ bi thương xót, đi đến trú xá của Bà-la-môn Dhānañjāni".
Tôn giả Sāriputta im lặng nhận lời.
“It would be good, venerable sir, if the venerable Sāriputta would come to the residence of the brahmin Dhānañjāni, out of compassion.” The venerable Sāriputta consented in silence.
Rồi Tôn giả Sāriputta đắp y, cầm y bát đi đến trú xá Bà-la-môn Dhānañjāni, sau khi đến, liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Tôn giả Sāriputta hỏi Bà-la-môn Dhānañjāni:
28. Then the venerable Sāriputta dressed, and taking his bowl and outer robe, he went to the residence of the brahmin Dhānañjāni, sat down on a seat made ready, and said to the brahmin Dhānañjāni:
-- Ta mong, này Dhānañjāni, Ông có thể kham nhẫn; ta mong Ông có thể chịu đựng; ta mong khổ thọ được giảm thiểu, không có gia tăng, và sự giảm thiểu được rõ rệt, không có gia tăng!
“I hope you are getting well, brahmin, I hope you are comfortable. I hope your painful feelings are subsiding and not increasing, and that their subsiding, not their increase, is apparent.”
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Sự khổ thống của tôi gia tăng, không có giảm thiểu. Và sự gia tăng được rõ rệt, không có giảm thiểu.
29. “Master Sāriputta, I am not getting well, I am not comfortable. My painful feelings are increasing, not subsiding; their increase and not their subsiding is apparent.
Thưa Tôn giả Sāriputta, ví như một người lực sĩ chém đầu một người khác với một thanh kiếm sắc bén; cũng vậy, thưa Tôn giả Sāriputta, những ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu tôi. Thưa Tôn giả Sāriputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Những khổ thống của tôi gia tăng, không có giảm thiểu, sự gia tăng được rõ rệt, không có giảm thiểu.
Just as if [193] a strong man were splitting my head open with a sharp sword, so too, violent winds cut through my head. I am not getting well…
Thưa Tôn giả Sāriputta, như một người lực sĩ lấy một dây nịt bằng da cứng quấn tròn quanh đầu rồi siết chặt; cũng vậy, thưa Tôn giả Sāriputta, tôi bị cảm đau đầu một cách kinh khủng. Thưa Tôn giả Sāriputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Những khổ thống của tôi gia tăng, không có giảm thiểu, sự gia tăng được rõ rệt, không có giảm thiểu.
Just as if a strong man were tightening a tough leather strap around my head as a headband, so too, there are violent pains in my head. I am not getting well…
Thưa Tôn giả Sāriputta, như một người đồ tể thiện xảo hay đệ tử người đồ tể cắt ngang bụng với con dao cắt thịt bò sắc bén; cũng vậy, thưa Tôn giả Sāriputta, một ngọn gió kinh khủng cắt ngang bụng của tôi. Thưa Tôn giả Sāriputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Những thống khổ của tôi gia tăng, không có giảm thiểu, sự gia tăng được rõ rệt, không có giảm thiểu.
Just as if a skilled butcher or his apprentice were to carve up an ox’s belly with a sharp butcher’s knife, so too, violent winds are carving up my belly. I am not getting well…
Thưa Tôn giả Sāriputta, ví như hai người lực sĩ, sau khi nắm cánh tay của một người yếu hơn, nướng người ấy, đốt người ấy trên một hố than hừng; cũng vậy, thưa Tôn giả Sāriputta, một sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân tôi. Thưa Tôn giả Sāriputta, tôi không có thể kham nhẫn, tôi không có thể chịu đựng. Những khổ thống của tôi gia tăng, không có giảm thiểu, sự gia tăng được rõ rệt, không có giảm thiểu.
Just as if two strong men were to seize a weaker man by both arms and roast him over a pit of hot coals, so too, there is a violent burning in my body. I am not getting well, I am not comfortable. My painful feelings are increasing, not subsiding; their increase and not their subsiding is apparent.”
-- Này Dhānañjāni, địa ngục hay bàng sanh, chỗ nào tốt hơn?
30. “What do you think, Dhānañjāni? Which is better — hell or the animal realm?”
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, bàng sanh tốt hơn địa ngục.
— “The animal realm, Master Sāriputta.”
-- Này Dhānañjāni, bàng sanh hay cảnh ngạ quỷ, chỗ nào tốt hơn?
— “Which is better — the animal realm or the realm of ghosts?”
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, cảnh ngạ quỷ tốt hơn bàng sanh.
— “The realm of ghosts, Master Sāriputta.”
-- Này Dhānañjāni, cảnh giới ngạ quỷ hay loài Người, chỗ nào tốt hơn?
— “Which is better — the realm of ghosts or the realm of human beings?”
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, loài Người tốt hơn cảnh giới ngạ quỷ.
— “Human beings, Master Sāriputta.” [194] “Which is better .
-- Này Dhānañjāni, loài Người hay Tứ thiên vương thiên, chỗ nào tốt hơn?
— Human beings or the gods of the heaven of the Four Great Kings?”
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, Tứ thiên vương thiên tốt hơn loài Người.
— “The gods of the heaven of the Four Great Kings, Master Sāriputta.”
-- Này Dhānañjāni, Tứ thiên vương thiên hay Tam thập tam thiên, chỗ nào tốt hơn?
— “Which is better — the gods of the heaven of the Four Great Kings or the gods of the heaven of the Thirty-three?”
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, Tam thập tam thiên tốt hơn Tứ thiên vương thiên.
— “The gods of the heaven of the Thirty-three, Master Sāriputta.”
-- Này Dhānañjāni, Tam thập tam thiên hay Dạ-ma Thiên, chỗ nào tốt hơn?
— “Which is better — the gods of the heaven of the Thirty-three or the Yāma gods?”
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, Dạ-ma thiên tốt hơn Tam thập tam thiên.
— “The Yāma gods, Master Sāriputta.”
-- Này Dhānañjāni, Dạ-ma thiên hay Ðâu-suất-đà thiên (Tusita), chỗ nào tốt hơn?
— “Which is better — the Yāma gods or the gods of the Tusita heaven?”
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, Ðâu-Suất-đà thiên tốt hơn Dạ-ma thiên.
— “The gods of the Tusita heaven, Master Sāriputta.”
-- Này Dhānañjāni, Ðâu-suất-đà thiên hay Hóa lạc thiên (Nimmanarati), chỗ nào tốt hơn?
— “Which is better — the gods of the Tusita heaven or the gods who delight in creating?”
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, Hóa lạc thiên tốt hơn Ðâu-suất-đà thiên.
— “The gods who delight in creating, Master Sāriputta.”
-- Này Dhānañjāni, Hóa lạc thiên hay Tha hóa tự tại thiên, chỗ nào tốt hơn?
— “Which is better — the gods who delight in creating or the gods who wield power over others’ creations?”
-- Thưa Tôn giả Sāriputta, Tha hóa tự tại thiên tốt hơn Hóa lạc thiên.
— “The gods who wield power over others’ creations, Master Sāriputta.”
-- Này Dhānañjāni, Tha hóa tự tại thiên hay Phạm thiên giới, chỗ nào tốt hơn?
31. “What do you think, Dhānañjāni? Which is better — the gods who wield power over others’ creations or the Brahma-world?”
-- Tôn giả Sāriputta đã nói: "Phạm thiên giới". Tôn giả Sāriputta đã nói: "Phạm thiên giới".
— “Master Sāriputta said ‘the Brahma-world.’ Master Sāriputta said ‘the Brahma-world.’”
Rồi Tôn giả Sāriputta suy nghĩ: "Các vị Bà-la-môn này rất ái luyến Phạm thiên giới. Vậy ta hãy thuyết giảng con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên".
Then the venerable Sāriputta thought: “These brahmins are devoted to the Brahma-world. Suppose I teach the brahmin Dhānañjāni the path to the company of Brahmā?” [And he said:]
-- Này Dhānañjāni, ta sẽ thuyết giảng cho Ông con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên. Hãy nghe khéo tác ý, ta sẽ giảng.
“Dhānañjāni, I shall teach you the path to the company of Brahmā. Listen and attend closely to what I shall say.”
-- Thưa vâng.
Bà-la-môn Dhānañjāni vâng đáp Tôn giả Sāriputta. Tôn giả Sāriputta thuyết như sau:
— “Yes, sir,” he replied. [195] The venerable Sāriputta said this:
-- Này Dhānañjāni, thế nào là con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên? Ở đây, này Dhānañjāni, vị Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Này Dhānañjāni, như vậy là con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên.
32. “What is the path to the company of Brahmā? Here, Dhānañjāni, a bhikkhu abides pervading one quarter with a mind imbued with loving-kindness, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth; so above, below, around, and everywhere, and to all as to himself, he abides pervading the all-encompassing world with a mind imbued with loving-kindness, abundant, exalted, immeasurable, without hostility and without ill will. This is the path to the company of Brahmā.
Lại nữa, này Dhānañjāni, vị Tỷ-kheo an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi... an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với hỷ... an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả, cũng vậy phương thứ hai cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Này Dhānañjāni, như vậy là con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên.
33–35. “Again, Dhānañjāni, a bhikkhu abides pervading one quarter with a mind imbued with compassion… with a mind imbued with altruistic joy… with a mind imbued with equanimity, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth; so above, below, around, and everywhere, and to all as to himself, he abides pervading the all-encompassing world with a mind imbued with equanimity, abundant, exalted, immeasurable, without hostility and without ill will. This too is the path to the company of Brahmā.”
-- Vậy thưa Tôn giả Sāriputta, hãy nhân danh tôi cúi đầu đảnh lễ Thế Tôn và thưa: "Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Dhānañjāni bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn".
36. “Then, Master Sāriputta, pay homage in my name with your head at the Blessed One’s feet, and say: ‘Venerable sir, the brahmin Dhānañjāni is afflicted, suffering, and gravely ill; he pays homage with his head at the Blessed One’s feet.’”
Rồi Tôn giả Sāriputta, dầu cho có những cảnh giới cao thượng hơn cần phải chứng, sau khi an trú Bà-la-môn vào Phạm thiên giới thấp kém, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Và Bà-la-môn Dhānañjāni, sau khi Tôn giả Sāriputta ra đi không bao lâu, liền mệnh chung và được sanh lên Phạm thiên giới.
Then the venerable Sāriputta, having established the brahmin Dhānañjāni in the inferior Brahma-world, rose from his seat and departed while there was still more to be done.898 Soon after the venerable Sāriputta had left, the brahmin Dhānañjāni died and reappeared in the Brahma-world.
Rồi Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
37. Then the Blessed One addressed the bhikkhus thus:
-- Này các Tỷ-kheo, dầu cho có những cảnh giới cao thượng hơn cần phải chứng, Sāriputta sau khi an trú Bà-la-môn Dhānañjāni vào Phạm thiên giới thấp kém, đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
“Bhikkhus, Sāriputta, having established the brahmin Dhānañjāni in the inferior Brahma-world, rose from his seat and departed while there was still more to be done.”
Rồi Tôn giả Sāriputta đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sāriputta bạch Thế Tôn:
38. Then the venerable Sāriputta went to the Blessed One, and after paying homage to him, he sat down at one side and said:
-- Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Dhānañjāni bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn.
“Venerable sir, the brahmin Dhānañjāni is afflicted, suffering, and gravely ill; he pays homage with his head at the Blessed One’s feet.”
-- Này Sāriputta, vì sao, dầu cho có những cảnh giới cao thượng hơn cần phải chứng, Ông sau khi an trú Bà-la-môn Dhānañjāni vào Phạm thiên giới thấp kém, đã từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi?
“Sāriputta, having established the brahmin Dhānañjāni [196] in the inferior Brahma-world, why did you rise from your seat and leave while there was still more to be done?”
-- Bạch Thế Tôn, con nghĩ như sau: "Những vị Bà-la-môn này rất luyến ái Phạm thiên giới". Do vậy con mới thuyết giảng con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên.
“Venerable sir, I thought thus: ‘These brahmins are devoted to the Brahma-world. Suppose I teach the brahmin Dhānañjāni the path to the company of Brahmā.’”
-- Và này Sāriputta, Bà-la-môn Dhānañjāni đã mệnh chung và sanh lên Phạm thiên giới.
“Sāriputta, the brahmin Dhānañjāni has died and has reappeared in the Brahma-world.”899





_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 54.243.2.41 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Ngọc Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Thiện Diệu Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Văn Minh Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Thiền Khách Rộng Mở Tâm Hồn nước Rộng Mở Tâm Hồn Bui Tuyet Lan Rộng Mở Tâm Hồn Xuân Thôn Rộng Mở Tâm Hồn Nguyên Độ Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn Pháp Tâm Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Yduongvan Rộng Mở Tâm Hồn Trí Tuệ Từ Bi Rộng Mở Tâm Hồn Tiến Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Hoat Khong ... ...

Hoa Kỳ (400 lượt xem) - Việt Nam (119 lượt xem) - French Southern Territories (5 lượt xem) - Saudi Arabia (3 lượt xem) - Senegal (3 lượt xem) - Philippines (2 lượt xem) - Mauritius (1 lượt xem) - Nga (1 lượt xem) - Algeria (1 lượt xem) - Uzbekistan (1 lượt xem) - Kenya (1 lượt xem) - Anh quốc (1 lượt xem) - Hà Lan (1 lượt xem) - ... ...


Copyright © Liên Phật Hội 2020 - United Buddhist Foundation - Rộng Mở Tâm Hồn
Hoan nghênh mọi hình thức góp sức phổ biến rộng rãi thông tin trên trang này, nhưng vui lòng ghi rõ xuất xứ và không tùy tiện thêm bớt.

Sách được đăng tải trên trang này là do chúng tôi giữ bản quyền hoặc được sự ủy nhiệm hợp pháp của người giữ bản quyền.
We are the copyright holder of all books published here or have the rights to publish them on behalf of the authors / translators.

Website này có sử dụng cookie để hiển thị nội dung phù hợp với từng người xem. Quý độc giả nên bật cookie (enable) để có thể xem được những nội dung tốt nhất.
Phiên bản cập nhật năm 2016, đã thử nghiệm hoạt động tốt trên nhiều trình duyệt và hệ điều hành khác nhau.
Để tận dụng tốt nhất mọi ưu điểm của website, chúng tôi khuyến nghị sử dụng Google Chrome - phiên bản mới nhất.


Rộng Mở Tâm Hồn Liên hệ thỉnh Kinh sách Phật học