BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Sống Thiền
Ðạo Lý Tỉnh Giác Trong Ðời Sống Thường Ngày

Từ Thám dịch
Sydney, Australia
2001


Nguyên tác: "Living Meditation: Living Insight", Dr Thynn Thynn
stw2@sonic.net  - thynnthynn@aol.com
Sae Taw Win I Dhamma Center
Sebastopol, California, USA
1998


Xin hiến dâng quyển sách nầy cho các sư phụ và gia đình tôi
(Bác sĩ San Lin với hai con là Win và Tet)

-ooOoo-

Mục Lục

[01]

Lời Mở Đầu
Vài Lời Giới Thiệu
Cảm Tạ
Lời Mở Đầu Cho Ấn Bản 2

Tự Do Ðể Bắt Ðầu

[02] SINH HOẠT THIỀN

Thiền Trong Sinh Hoạt
Sống Với Giây Phút Hiện Tại
Sống Với Nhiều Giây Phút Khác
Thiền Trong Hành Ðộng
Buông Xả và Nhặt Lên
Tâm Bình An
Tâm Bất An
Quán Chiếu Về Tâm Bình An
Tâm Im Lặng
Tứ Diệu Ðế Trong Ðời Sống Thường Ngày
Tính Hợp Nhất Của Bát Thánh Ðạo
Năng Ðộng Tính Của Thiền
An Trú Nội Tâm

[03] PHẢN ÁNH VỀ THIỀN

Tập Trung và Thiền Ðịnh
Tỉnh Giác và Nhận Thức
Trong Giây Phút Hiện Tại
Thiền Vô Thiền

[04] LỐI SỐNG SÁNG TẠO

Lối Sống Sáng Tạo
Thương và Ghét
Hạnh Phúc
Tình Thương và Lòng Bi Mẫn
Tâm Bình Thản và Tâm Lãnh Ðạm
Lạc Thú Giác Quan
Hình Thức Bên Ngoài
Nhận Thức Bình Thường

[05]

Giải Thích Bát Thánh Ðạo
Từ Vựng Tiếng Pàli

Lời Nói Ðầu

Tôi rất cảm phục Bs Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày. Trước đây, điểm nầy chưa được nhấn mạnh đúng mức trong giáo lý Phật-đà tại các thiền viện và tu viện ở Tây phương. Trong thực tế, phần lớn các phương pháp tu hành ở Á châu đều theo khuôn mẫu chuyên biệt. Nhưng lối tu hành nầy không thích hợp cho Phật tử tại gia ở phương Tây. Những kinh nghiệm tuyệt vời khi sống tại thiền viện thường không đủ để chuyển hóa toàn diện cuộc sống như chúng ta mong ước, và khi bị trả về với nếp sống thực tế xô bồ, chúng ta thường tự hỏi làm cách nào có thể đem Phật pháp vào sinh hoạt thường ngày của mình. Tôi rất vui mừng thấy quyển sách của Bs Thynn Thynn đã đáp ứng được yêu cầu nầy.

Tôi xin tán thưởng Bs Thynn Thynn ở tính cách trong sáng và lòng can đảm của bà trong lối giảng dạy thẳng tắt.

Jack Kornfield
Spirit Rock Center
Woodacre, California
Tháng 7, năm 1992

Vài Lời Giới Thiệu

Cách đây nhiều năm, khi đến với nhóm học Phật của Bs Thynn Thynn ở Bangkok, tôi còn là người sơ cơ mới đến với Phật giáo. Bs Thynn Thynn đã mở cửa đón chào tôi với tia nhìn ấm áp và giọng cười truyền cảm. Chúng tôi cùng với vài người bạn của bà bắt đầu hỏi về Phật pháp. Bà đã mĩm cười trả lời, rất phóng khoáng, và thường dùng những mẫu chuyện riêng lý thú.

Năm tháng trôi qua, nhóm học Phật lớn dần. Bạn bè mời các bạn hiếu kỳ đến nghe. Bs Thynn Thynn đáp ứng bằng cách tổ chức các buổi giảng dạy có hệ thống. Chúng tôi thường ngồi bên cạnh, nghe bà giảng thuyết, vẽ đồ hình và định nghĩa các từ Pàli. Sau buổi cơm trưa vui nhộn, chúng tôi tụ họp lại để luận đàm sôi nổi. Vài người bạn muốn làm sáng tỏ một điểm nào đó. Các buổi bàn luận thường xoay quanh câu hỏi: Làm thế nào để áp dụng điều nầy vào cuộc sống của tôi? Làm thế nào tôi có thể tỉnh giác được giữa đám con nhỏ quấy phá? Làm thế nào tôi có thể áp dụng tâm bình thản với đám con cái nổi loạn trong lứa tuổi thanh niên? Làm thế nào tôi có thể chia xẻ điều nầy với người phối ngẫu luôn luôn khép kín? Làm sao tôi có thể lân mẫn hơn đối với một người bạn đang cần giúp đỡ?

Bs Thynn Thynn dùng giọng nói nhẹ nhàng của bà để diễn tả kinh nghiệm nội tâm. Thay vì đưa ra một giải pháp cho câu hỏi, bà đề nghị chúng tôi nhìn vào vấn đề theo đường hướng Phật giáo. Người hỏi được yêu cầu trở về nhà, 'dừng lại để nhìn' và 'buông xả tất cả'. Ðây là cách thực hành của chúng tôi: hãy về nhà và thử cách đó xem.

Nhiều năm nữa trôi qua, chúng tôi trở thành một nhóm yểm trợ Phật pháp, nhưng là một nhóm khác biệt. Phật pháp đã thăng hoa đời sống và gắn bó chúng tôi thành một nhóm. Không phải lúc nào cũng dễ dàng đâu. Chúng tôi rất khác biệt với nhau, ít ra là lúc ban đầu. Chúng tôi là người đến từ nhiều xứ: Miến-điện, Thái-lan, Tích-lan, Mễ-tây-cơ, Thụy-sĩ, Nga và Mỹ. Chúng tôi là một hỗn hợp gồm nhiều thành phần tôn giáo: Phật giáo, Công giáo, Tin-lành, Do-thái giáo, Hồi giáo, và cả vô thần nữa. Và tánh tình của chúng tôi cũng rất khác biệt: có người sùng mộ, có người trí thức, có người nghệ sĩ, có người sống thực tế, có người sống nội tâm, vv...Trên ý nghĩa nào đó, coi như chúng tôi nói nhiều loại ngôn ngữ khác nhau, bởi vì lý luận của người trí thức không thể lay chuyển được người mộ đạo, kinh nghiệm mạnh mẽ về nội tâm có khi làm sững sờ người sống dè dặt... Ðôi khi có va chạm nảy lửa tại các buổi họp mặt. Bs Thynn Thynn an bài các tình huống tế nhị nầy với tính hài hước có sẳn và tuệ giác thấu suốt của bà. Sự giao hảo giữa các thành phần khác nhau trong nhóm đã trở thành một phần trong cách tu tập của chúng tôi.

Bs Thynn Thynn tiến thêm một bước bằng cách giảng dạy cách tu tập riêng biệt cho từng người trong nhóm. Ðối với người trí thức hay cải lẫy, bà đáp ứng từng vấn nạn một. Bà khuyên người nghệ sĩ nên trân quí cái đẹp của giây phút hiện tại. Nuôi dưỡng bẩm tính của mỗi người, bà khuyến khích chúng tôi cởi mở và thăng hoa. Rất nhạy cảm với nhu cầu của mỗi cá nhân, bà tìm cách hài hòa các tâm trạng cứng ngắc trong chúng tôi. Bà thúc đẩy kẻ lười biếng, làm sửng sốt kẻ kiêu mạn, và xoa dịu kẻ nóng nảy. Nhờ đó, bà cho chúng tôi thấy có nhiều con đường khác nhau để đi đến giác ngộ.

Dần dần, chúng tôi êm ả thâm nhập vào Phật giáo. Chúng tôi tự thấy mình mĩm cười và cười nhiều hơn, yêu thương nhiều hơn. Nếp sống chậm lại và chúng tôi có những lúc thoáng nhìn sự vật đúng như thực tế.

Gần đây, Bs Thynn Thynn đã dời sang Hoa-kỳ; bà đã có những bạn mới tụ họp chung quanh, nóng lòng muốn học Phật pháp và cách áp dụng nó vào đời sống thường ngày. Nhóm yểm trợ Phật pháp ở Bangkok vẫn tiếp tục. Những người bạn trong nhóm cũ vẫn còn là bạn với nhau, vẫn tiếp tục tu tập mặc dù tháng năm và xa cách. Tuy rất khác nhau, chúng tôi vẫn duy trì được quyết tâm chung là sống theo Chánh pháp, và lòng kính ngưỡng người đàn bà đã chứng minh cho chúng tôi là điều đó có thể làm được.

Pam Taylor

Lời Mở Ðầu Cho Ấn Bản 2

Mười năm trước đây, khi nhóm học Phật của chúng tôi bắt đầu gặp nhau ở Bangkok, Thái Lan, tôi có cảm hứng muốn viết về nhiều câu hỏi được đặt ra. Những đề mục trong quyển sách nầy là rút từ những buổi luận đàm về các vấn đề đó. Trong khi viết sách, tôi đã đưa các đề mục viết xong cho các bạn học Phật để giúp họ có thể tiêu hóa được các quan điểm Phật giáo và khích lệ họ trên đường tìm chân lý.

Tôi viết các đề mục nầy nhằm khuyến khích các hành giả học tập cách thiền định trong sinh hoạt thường ngày. Do đó, các đề mục được trình bày như là một quyển sách thực tập luyện tâm tại chỗ. Mặc dù tôi bàn về thiền định một cách tổng quát, trọng tâm của tôi là làm thế nào để Chánh pháp có thể đem chúng ta đến lối sống tức thời hoàn mỹ và đầy sáng tạo.

Quyển sách nầy chánh yếu là dành cho những thiền giả sơ cơ. Tôi ít dùng lý thuyết và từ Pàli. Tôi muốn nhấn mạnh tiến trình quán chiếu vào bản thể của tâm thức. Các đề mục của tôi nhằm mục đích giúp hành-giả tạo được cho mình một nền tảng vững chắc về tỉnh giác như là một lối sống thực tế, chớ không phải là một lối tu tập xa rời nếp sống thường ngày. Ðối với những hành giả đang chánh thức thực tập thiền định thì đường lối nầy có thể giúp họ đem sự thực tập tỉnh giác vào các kinh nghiệm thường ngày. Tiến trình thực tập tỉnh giác cũng như nhau, chỉ trừ một điểm quan trọng: thay vì ngồi yên nhắm mắt và quán tâm thì lối thực tập nầy được áp dụng trong khi chúng ta đang sinh hoạt thường ngày.

Sau khi ấn bản 1 được phát hành vào năm 1992, tôi nhận được nhiều lời phê bình cho rằng lối giảng dạy của tôi giống như Krishnamurti và Thiền tông. Khi có người nói với bạn đạo của tôi, Sư Cô Phật giáo Nguyên thủy tên là Shinna Dhammadina, về điểm nầy thì Sư Cô trả lời: 'Ðó là bởi vì sư phụ của Thynn Thynn dạy giáo pháp rất giống như Krishnamurti và Thiền tông'

Hai sư phụ của tôi là người Miến-điện, viện chủ Sayadaw U Eindasara ở Rangoon và viện chủ Sayadaw U Awthada ở Henzada. Hai ngài là sư Phật giáo Nguyên thủy, nhưng giảng dạy Phật pháp theo lối không chính thống và rất năng động. Hai ngài tách rời khỏi lề lối cổ truyền là nhấn mạnh phương pháp ngồi thiền, thay vào đó hai ngài đặt trọng tâm vào cách 'nhìn thẳng vào bên trong và thực tập tỉnh giác trong mọi sinh hoạt thường ngày'.

Ðối với tôi phương pháp nầy rất hấp dẫn vì nó giản dị, thẳng tắt và rất thực tế cho đời sống thường ngày. Trước khi gặp hai sư phụ vào năm 1973, tôi đã có dịp thực tập thiền định theo lối cổ truyền trong thời gian không lâu với cố Hoà thượng Sayadaw U Zawana ở thiền viện Mahasi. Sau vài buổi thực tập với ngài, tôi bắt đầu thấy mình tự nhiên có nhận thức về cảm thọ của mình trong sinh hoạt thường ngày, và được an lạc hơn nhiều mà không cần phải chính thức ngồi thiền. Tôi khám phá ra là ngay khi tôi tập trung nhìn vào cảm xúc của mình thì chúng biến mất đi rất nhanh. Thế rồi nhờ vài bạn đạo tốt bụng giới thiệu, tôi đã gặp được hai vị sư phụ cuả tôi. Các ngài dạy phương pháp tìm bình an trong tâm bằng cách 'dừng lại và nhìn vào tâm, ở từng giây phút trong sinh hoạt thường ngày, như là một lối thực tập thiền định'. Tôi bị phương pháp nầy thâu hút tức khắc, bởi vì tôi đã trải qua kinh nghiệm đúng y như lời dạy của hai ngài.

Khi gặp hai sư phụ Sayadaw, tôi rất cảm kích về trí tuệ thâm sâu và phương pháp mới mẻ của hai ngài. Lối giảng dạy Phật giáo Nguyên thủy rất cải tiến của hai ngài rất hiếm thấy trong Phật giáo cổ truyền Miến-điện. Nó có vẻ tương tợ như Krishnamurti khi nhằm phá vỡ mọi điều-kiện-hóa cứng ngắc để đạt tới tự do tối hậu cho tâm thức, nhưng điểm kỳ đặc của hai ngài là dạy cách tái hội-nhập tương-đối-tính với một quan điểm quán chiếu mới mẻ. Hai vị cũng đặc biệt tài tình trong lối dạy tu tập tại chỗ, giống như cách trực tiếp lấy-tâm-truyền-tâm trong Thiền tông. Ðây có lẽ là lý do vì sao một số người cho quyển sách của tôi là một tổng hợp của Phật giáo Nguyên thủy, Krishnamurti và Thiền tông.

Hai vị sư phụ của tôi không phải là nguời có học thức Tây phương. Hai ngài chỉ biết về giáo lý Krishnamurti và Thiền tông qua sự giới thiệu của chúng tôi là học trò của hai ngài. Thật là kỳ thú khi ta thấy có sự gặp nhau giữa hai đường lối tìm chân lý có nhiều vẻ khác biệt như vậy, đúng là điều rất khó xảy ra.

Nhiều người thường hỏi tôi về hai vị sư phụ của tôi là người như thế nào? Thật ra hai ngài rất khác tánh nhau. Ngài Sayadaw U Eindasa là một nhà huyền học thâm sâu kiêm nhà thơ, ngài là người im lặng hơn. Chúng tôi thường thích thú gọi ngài là 'vị Phật tươi cười' Ngài ít khi xuất hiện hay giảng pháp cho công chúng, nhưng dành năng lực đặc biệt của ngài để dạy dỗ học trò. Còn ngài Sayadaw U Awthada thì sáng chói và nhạy bén, chúng tôi gọi ngài là 'vị Thiền sư Miến-điện' bởi vì ngài có khả năng giống như các Thiền sư là thắt gút tâm học viên và đẩy họ ra khỏi phạm trù trí thức.

Hai sư phụ nầy giống Krishnamurti ở điểm hai ngài sống cuộc đời bình dị, không cầu tìm tín đồ, không cầu thành lập tự viện hay giáo đoàn riêng, và xa lìa danh lợi. Hai ngài vẫn sống và giảng dạy trong khuôn khổ của giáo hội, nhưng vẫn giữ được đạo phong và sự cởi mở hiếm thấy trong Phật giáo Á đông.

Tôi có diễm phúc được thân cận học hỏi với hai vị thầy đặc biệt nầy, và tôi nhớ lại thời gian qua tôi đã học tập nơi hai ngài, với sự thích thú và lòng biết ơn. Hai ngài nghĩ là tôi hơi tinh nghịch khi tôi tiếp tục đem nhiều người thuộc mọi thành phần trong xã hội đến với hai ngài để học bài học đầu tiên. Nhờ sự thân cận nầy, ngày nay tôi được may mắn chia xẻ kinh nghiệm bản thân với các thành viên trong các nhóm học Phật, và với nhiều người khác qua quyển sách nầy. Ðối với hai vị sư phụ, tôi xin cúi đầu thành kính; tôi cũng xin cung kính cúi đầu trước bậc đại đạo sư của tôi là ngài Shwe Baw Gyun Sayadaw bởi vì ngài đã yểm trợ quyển sách nầy và công tác hoằng đạo của tôi ở Tây phương.

Thynn Thynn
Sebastopol, California, 1998

Cảm Tạ

Tôi rất cám ơn người bạn đạo thân nhất của tôi, Chị Pam Taylor, là người đầu tiên đề nghị xuất bản các bài viết của tôi, và cũng là người tình nguyện sắp xếp lại các bài viết không thứ tự và cô đọng thành một bản thảo. Nếu không có dũng chí và tài sắp xếp của Chị thì có lẽ bản thảo của tôi còn nằm yên trên kệ trong khu sàn nhà. Tôi cũng xin cảm ơn Chị Marcia Hamilton đã sửa chữa bản thảo đầu tiên, kế đó là Ashin U Tay Zaw Batha, hoàn chỉnh bài viết. Rồi kế đó là ông chồng tài danh của tôi, Bs San Lin đã thành công trong việc thúc đẩy tôi hoàn tất bản thảo và đã hết sức giúp đỡ tôi chuẩn bị bản thảo cuối cùng.

Không những là chồng tôi, mà còn các con tuyệt vời của tôi nữa, Win và Tet đã giúp tôi trong kinh nghiệm quán chiếu về bản thân, về nhân tính và đời sống gia đình. Nhiều bạn hỏi thiền đạo của tôi là gì, tôi luôn luôn trả lời: 'Gia đình là thiền đạo của tôi' Chính là phần lớn xuyên qua gia đình mà tôi học tập được những gì tôi đang giảng dạy. Chính là gia đình đã thúc đẩy tôi rèn luyện trí tuệ, thực tập và tái thực tập công phu giác quán của mình. Thật ra, gia đình chính là thử thách to lớn nhất và là bãi tập luyện của tôi.

Tôi xin cám ơn những người bạn cũ trong nhóm học Phật ở Bangkok, với những kỷ niệm vui chung, những câu hỏi thật thà và thách thức của họ đã dẫn tới sự hoàn thành quyển sách nầy.

Tôi rất cám ơn bà Dagmar Anabelle Zinser của Ðức quốc đã rộng lượng ủng hộ tài chánh cho lần tái bản nầy. Tôi cũng cám ơn cô thư ký của tôi là Joan Gloff, đã thực hiện những sửa đổi cho bản in.

Xin cám ơn các bạn John Hein và Charlotte Richardson đã cẩn thận đọc lại và sửa chữa, Nee Nee Myint đánh máy lại, và bạn David Babski đã định mẫu bản thảo.

Thynn Thynn

-ooOoo-

Ðạo Lý Sukkhavipassaka

Trong đạo lý Sukkhavipassaka (Hành Giả Thuần Quán), các phương pháp tu Chỉ như Quán Hơi Thở thì không cần thiết lắm. Song song với việc giữ ba giới (sila) [1], trí tuệ (panna) có thể phát triển. Khi hai yếu tố trí tuệ phát triển [2] thì ba yếu tố thiền định (samadhi) [3] cũng đồng thời phát triển. Ðây gọi là Pancangika Magga. Như vậy là Năm Ðạo Phần cùng phát triển chung, cộng với ba giới hợp thành Bát Thánh Ðạo.

Tu tập đạo lý nầy, tâm thức sẽ không còn bị nhiễm ô. Nhưng hành giả cần có một mức độ cao về trí thông minh, cố gắng và kiên nhẫn.

Ledi Sayadaw
(Magganga Dipani)

[1] Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng; [2] Chánh kiến, chánh tư duy; [3] Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định

-ooOoo-

Tự Do Ðể Bắt Ðầu

Thế nào là được tự do?

Theo ý nghĩa Phật giáo, 'tự do' có nghĩa là không còn đau khổ, là đạt được sự tự tại của nội tâm trong đó đau khổ đã chấm dứt. Dĩ nhiên đây là một điều kiện tâm thức lý tưởng - nhưng làm sao chúng ta đạt được đây? Muốn đạt được tự do nội tâm, chúng ta phải tìm nó với một 'tâm hồn tự do'. Cũng như câu nói: 'Muốn bắt được trộm, ta phải biết suy nghĩ như kẻ trộm'. Thứ tự do mà chúng ta đang tìm đây là một tình trạng tuyệt đối - đúng vậy - đó là thứ tự do vô biên, hoàn toàn giải thoát và vô giới hạn. Chúng ta bắt đầu cuộc tìm kiếm với một tâm thức hữu biên, bị trí thức cột trói và trong chính nó đã bị giới hạn rồi. Nếu chúng ta còn nhồi nhét thêm vào đó đủ thứ lý tưởng, quan niệm, giáo thuyết và phán đoán - thì tâm thức vốn đã nặng nề của chúng ta không bao giờ có đủ tự do để thể nghiệm trọn vẹn chân lý. Nó chỉ có thể đạt tới những sự thật hay kinh nghiệm trong giới hạn của giáo thuyết, niềm tin và quan niệm đó - những thứ nầy đều là sản phẩm của trí thức. Do đó tâm thức không bao giờ có thể phá vỡ được sự điều-kiện-hóa (khô cứng) của trí thức mà chúng ta đang cố gắng vượt thoát. Bởi vì chúng ta bám níu vào một hệ thống hay khuôn mẫu nào đó trên đường tìm chân lý, chúng ta chỉ có thể kinh nghiệm được những gì mà hệ thống hay khuôn mẫu đó cho phép. Nhưng chân lý là vô hạn, bất khả đắc và hoàn toàn tự tại. Chân lý không thuộc về bất cứ một tôn giáo, giáo phái hay hệ thống nào. Mọi tôn giáo, phương pháp và hệ thống do loài người đặt ra chỉ có mục đích hướng dẫn chúng ta trên con đường tìm chân lý. Nhưng chúng ta thường lầm lẫn con đường với chân lý.

Nếu chúng ta muốn đạt được tâm thức tự do thì trước hết phải có một thái độ vô ngã, để tâm thức được tự do dò tìm, tra cứu, xem xét - và nhất là thể nghiệm chân lý. Nhưng đa số chúng ta bắt đầu với một nhu cầu cá nhân nhằm tìm kiếm tự do nội tâm. Với tâm trạng như vậy, thật là khó có được một thái độ vô ngã, nhưng đây chính là mâu thuẫn của con đường tu tập nội tâm. Khi còn ngã chấp thì chúng ta có khuynh hướng phán đoán, khái niệm hóa vấn đề. Phán đoán và phân biệt bắt nguồn từ nội tâm bị trí thức chi phối và điều kiện hóa. Ngay khi chúng ta bắt đầu phán đoán và phân biệt thì trí thức đã hoạt động và bịt mắt chúng ta rồi.

Ngày nào trí thức còn chi phối thì chúng ta còn bị nó che lấp khả năng thể nghiệm trọn vẹn chiều sâu và bản thể tuyệt diệu của tâm thức. Ðó là lý do tại sao mọi giáo pháp và phương tiện - gọi là tâm pháp hay tâm đạo - đều cố gắng vượt thoát phạm trù trí thức để đi vào lãnh vực trực giác hay tâm linh, bởi vì chỉ có khía cạnh trực giác của tâm mới thể-nghiệm được trọn vẹn chân lý hay tự do. Nhiều hệ thống tôn giáo khác nhau đã phát triển các phương pháp và đường lối tu tập riêng biệt cho lịch sử, văn hóa và tình cảm của dân tộc họ. Chúng ta chỉ cần chọn con đường thích hợp cho mình.

Dù bạn chọn con đường nào, điều nguy hiểm nhất vẫn là sự gom chứa các sở đắc dựa vào tình cảm. Ðây là đạo sư 'của tôi', đức tin 'của tôi', tiến bộ 'của tôi', kinh nghiệm 'của tôi'. Ở đây chúng ta lại phải đối diện với một mâu thuẫn. Sự hướng dẫn của sư phụ lúc nào cũng là cần thiết để giúp chúng ta tiến bộ vững chắc, nhưng đây có thể là một trở ngại nếu chúng ta thiếu cẩn thận. Người ta thường bám níu vào đạo sư hay thầy của mình. Thật ra đây là một trong những trở ngại khó vượt qua nhất trên con đường tìm tự do cho nội tâm. Xả bỏ mọi tín điều, giáo thuyết, đạo sư, lý tưởng, phán đoán của mình, vv... là công việc cực kỳ khó khăn bởi vì chúng nó quá thân yêu đối với chúng ta. Nhưng nếu để chúng trở thành sở hữu của chúng ta, như là tài sản và quyền thế, thì chúng ta không còn tự do để tiếp tục tiến bước xa hơn nữa.

Vậy chúng ta phải làm sao đây? Chỉ có cách chúng ta phải nhìn mọi sự vật với tâm bình đẳng (không khen chê, lấy bỏ), dù đó là đạo sư, giáo thuyết, lý tưởng, và ngay cả công phu tu tập và tiến bộ của mình nữa. Chỉ như thế chúng ta mới có thể nhìn sự vật một cách khách quan được.

Tự do không phải chỉ là kết quả sau cùng. Nó không phải là cái gì chờ đợi chúng ta sau những cố gắng miệt mài. Tự do nầy là tức khắc, ngay lúc nầy, ngay từ lúc ban đầu. Chúng ta có thể được tự do ngay trong tiến trình tìm kiếm, trong kinh nghiệm, ở từng bước một trên suốt con đường.

Muốn được tự do ta chỉ cần hai điều: tâm hồn im lặngtrái tim cởi mở.

-ooOoo-

Ðầu trang | Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4 | Phần 5


* Dịch giả giữ bản quyền.

* I, Dr Thynn Thynn, the author of "Living Meditation: Living Insight", grant permission to
Mr. Huynh of Australia to translate and publish my book into Vietnamese language
for free distribution.
Any part or whole of the translated version may not be reproduced without the expressed permission of the author and translator.

* Chân thành cám ơn đạo hữu Từ Thám đã cho phép đăng bản dịch vào trang web BuddhaSasana (Bình Anson, 24-02-2003)

-ooOoo-


[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 17-03-2003

Song Thien - 01

BuddhaSasana Home Page

Vietnamese, with Unicode Times font


Sống Thiền
Ðạo Lý Tỉnh Giác Trong Ðời Sống Thường Ngày

Từ Thám dịch
Sydney, Australia
2001


Nguyên tác: "Living Meditation: Living Insight", Dr Thynn Thynn
stw2@sonic.net  - thynnthynn@aol.com
Sae Taw Win I Dhamma Center
Sebastopol, California, USA
1998


Xin hiến dâng quyển sách nầy cho các sư phụ và gia đình tôi
(Bác sĩ San Lin với hai con là Win và Tet)

-ooOoo-

Mục Lục

[01]

Lời Mở Đầu
Vài Lời Giới Thiệu
Cảm Tạ
Lời Mở Đầu Cho Ấn Bản 2

Tự Do Ðể Bắt Ðầu

[02] SINH HOẠT THIỀN

Thiền Trong Sinh Hoạt
Sống Với Giây Phút Hiện Tại
Sống Với Nhiều Giây Phút Khác
Thiền Trong Hành Ðộng
Buông Xả và Nhặt Lên
Tâm Bình An
Tâm Bất An
Quán Chiếu Về Tâm Bình An
Tâm Im Lặng
Tứ Diệu Ðế Trong Ðời Sống Thường Ngày
Tính Hợp Nhất Của Bát Thánh Ðạo
Năng Ðộng Tính Của Thiền
An Trú Nội Tâm

[03] PHẢN ÁNH VỀ THIỀN

Tập Trung và Thiền Ðịnh
Tỉnh Giác và Nhận Thức
Trong Giây Phút Hiện Tại
Thiền Vô Thiền

[04] LỐI SỐNG SÁNG TẠO

Lối Sống Sáng Tạo
Thương và Ghét
Hạnh Phúc
Tình Thương và Lòng Bi Mẫn
Tâm Bình Thản và Tâm Lãnh Ðạm
Lạc Thú Giác Quan
Hình Thức Bên Ngoài
Nhận Thức Bình Thường

[05]

Giải Thích Bát Thánh Ðạo
Từ Vựng Tiếng Pàli

Lời Nói Ðầu

Tôi rất cảm phục Bs Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày. Trước đây, điểm nầy chưa được nhấn mạnh đúng mức trong giáo lý Phật-đà tại các thiền viện và tu viện ở Tây phương. Trong thực tế, phần lớn các phương pháp tu hành ở Á châu đều theo khuôn mẫu chuyên biệt. Nhưng lối tu hành nầy không thích hợp cho Phật tử tại gia ở phương Tây. Những kinh nghiệm tuyệt vời khi sống tại thiền viện thường không đủ để chuyển hóa toàn diện cuộc sống như chúng ta mong ước, và khi bị trả về với nếp sống thực tế xô bồ, chúng ta thường tự hỏi làm cách nào có thể đem Phật pháp vào sinh hoạt thường ngày của mình. Tôi rất vui mừng thấy quyển sách của Bs Thynn Thynn đã đáp ứng được yêu cầu nầy.

Tôi xin tán thưởng Bs Thynn Thynn ở tính cách trong sáng và lòng can đảm của bà trong lối giảng dạy thẳng tắt.

Jack Kornfield
Spirit Rock Center
Woodacre, California
Tháng 7, năm 1992

Vài Lời Giới Thiệu

Cách đây nhiều năm, khi đến với nhóm học Phật của Bs Thynn Thynn ở Bangkok, tôi còn là người sơ cơ mới đến với Phật giáo. Bs Thynn Thynn đã mở cửa đón chào tôi với tia nhìn ấm áp và giọng cười truyền cảm. Chúng tôi cùng với vài người bạn của bà bắt đầu hỏi về Phật pháp. Bà đã mĩm cười trả lời, rất phóng khoáng, và thường dùng những mẫu chuyện riêng lý thú.

Năm tháng trôi qua, nhóm học Phật lớn dần. Bạn bè mời các bạn hiếu kỳ đến nghe. Bs Thynn Thynn đáp ứng bằng cách tổ chức các buổi giảng dạy có hệ thống. Chúng tôi thường ngồi bên cạnh, nghe bà giảng thuyết, vẽ đồ hình và định nghĩa các từ Pàli. Sau buổi cơm trưa vui nhộn, chúng tôi tụ họp lại để luận đàm sôi nổi. Vài người bạn muốn làm sáng tỏ một điểm nào đó. Các buổi bàn luận thường xoay quanh câu hỏi: Làm thế nào để áp dụng điều nầy vào cuộc sống của tôi? Làm thế nào tôi có thể tỉnh giác được giữa đám con nhỏ quấy phá? Làm thế nào tôi có thể áp dụng tâm bình thản với đám con cái nổi loạn trong lứa tuổi thanh niên? Làm thế nào tôi có thể chia xẻ điều nầy với người phối ngẫu luôn luôn khép kín? Làm sao tôi có thể lân mẫn hơn đối với một người bạn đang cần giúp đỡ?

Bs Thynn Thynn dùng giọng nói nhẹ nhàng của bà để diễn tả kinh nghiệm nội tâm. Thay vì đưa ra một giải pháp cho câu hỏi, bà đề nghị chúng tôi nhìn vào vấn đề theo đường hướng Phật giáo. Người hỏi được yêu cầu trở về nhà, 'dừng lại để nhìn' và 'buông xả tất cả'. Ðây là cách thực hành của chúng tôi: hãy về nhà và thử cách đó xem.

Nhiều năm nữa trôi qua, chúng tôi trở thành một nhóm yểm trợ Phật pháp, nhưng là một nhóm khác biệt. Phật pháp đã thăng hoa đời sống và gắn bó chúng tôi thành một nhóm. Không phải lúc nào cũng dễ dàng đâu. Chúng tôi rất khác biệt với nhau, ít ra là lúc ban đầu. Chúng tôi là người đến từ nhiều xứ: Miến-điện, Thái-lan, Tích-lan, Mễ-tây-cơ, Thụy-sĩ, Nga và Mỹ. Chúng tôi là một hỗn hợp gồm nhiều thành phần tôn giáo: Phật giáo, Công giáo, Tin-lành, Do-thái giáo, Hồi giáo, và cả vô thần nữa. Và tánh tình của chúng tôi cũng rất khác biệt: có người sùng mộ, có người trí thức, có người nghệ sĩ, có người sống thực tế, có người sống nội tâm, vv...Trên ý nghĩa nào đó, coi như chúng tôi nói nhiều loại ngôn ngữ khác nhau, bởi vì lý luận của người trí thức không thể lay chuyển được người mộ đạo, kinh nghiệm mạnh mẽ về nội tâm có khi làm sững sờ người sống dè dặt... Ðôi khi có va chạm nảy lửa tại các buổi họp mặt. Bs Thynn Thynn an bài các tình huống tế nhị nầy với tính hài hước có sẳn và tuệ giác thấu suốt của bà. Sự giao hảo giữa các thành phần khác nhau trong nhóm đã trở thành một phần trong cách tu tập của chúng tôi.

Bs Thynn Thynn tiến thêm một bước bằng cách giảng dạy cách tu tập riêng biệt cho từng người trong nhóm. Ðối với người trí thức hay cải lẫy, bà đáp ứng từng vấn nạn một. Bà khuyên người nghệ sĩ nên trân quí cái đẹp của giây phút hiện tại. Nuôi dưỡng bẩm tính của mỗi người, bà khuyến khích chúng tôi cởi mở và thăng hoa. Rất nhạy cảm với nhu cầu của mỗi cá nhân, bà tìm cách hài hòa các tâm trạng cứng ngắc trong chúng tôi. Bà thúc đẩy kẻ lười biếng, làm sửng sốt kẻ kiêu mạn, và xoa dịu kẻ nóng nảy. Nhờ đó, bà cho chúng tôi thấy có nhiều con đường khác nhau để đi đến giác ngộ.

Dần dần, chúng tôi êm ả thâm nhập vào Phật giáo. Chúng tôi tự thấy mình mĩm cười và cười nhiều hơn, yêu thương nhiều hơn. Nếp sống chậm lại và chúng tôi có những lúc thoáng nhìn sự vật đúng như thực tế.

Gần đây, Bs Thynn Thynn đã dời sang Hoa-kỳ; bà đã có những bạn mới tụ họp chung quanh, nóng lòng muốn học Phật pháp và cách áp dụng nó vào đời sống thường ngày. Nhóm yểm trợ Phật pháp ở Bangkok vẫn tiếp tục. Những người bạn trong nhóm cũ vẫn còn là bạn với nhau, vẫn tiếp tục tu tập mặc dù tháng năm và xa cách. Tuy rất khác nhau, chúng tôi vẫn duy trì được quyết tâm chung là sống theo Chánh pháp, và lòng kính ngưỡng người đàn bà đã chứng minh cho chúng tôi là điều đó có thể làm được.

Pam Taylor

Lời Mở Ðầu Cho Ấn Bản 2

Mười năm trước đây, khi nhóm học Phật của chúng tôi bắt đầu gặp nhau ở Bangkok, Thái Lan, tôi có cảm hứng muốn viết về nhiều câu hỏi được đặt ra. Những đề mục trong quyển sách nầy là rút từ những buổi luận đàm về các vấn đề đó. Trong khi viết sách, tôi đã đưa các đề mục viết xong cho các bạn học Phật để giúp họ có thể tiêu hóa được các quan điểm Phật giáo và khích lệ họ trên đường tìm chân lý.

Tôi viết các đề mục nầy nhằm khuyến khích các hành giả học tập cách thiền định trong sinh hoạt thường ngày. Do đó, các đề mục được trình bày như là một quyển sách thực tập luyện tâm tại chỗ. Mặc dù tôi bàn về thiền định một cách tổng quát, trọng tâm của tôi là làm thế nào để Chánh pháp có thể đem chúng ta đến lối sống tức thời hoàn mỹ và đầy sáng tạo.

Quyển sách nầy chánh yếu là dành cho những thiền giả sơ cơ. Tôi ít dùng lý thuyết và từ Pàli. Tôi muốn nhấn mạnh tiến trình quán chiếu vào bản thể của tâm thức. Các đề mục của tôi nhằm mục đích giúp hành-giả tạo được cho mình một nền tảng vững chắc về tỉnh giác như là một lối sống thực tế, chớ không phải là một lối tu tập xa rời nếp sống thường ngày. Ðối với những hành giả đang chánh thức thực tập thiền định thì đường lối nầy có thể giúp họ đem sự thực tập tỉnh giác vào các kinh nghiệm thường ngày. Tiến trình thực tập tỉnh giác cũng như nhau, chỉ trừ một điểm quan trọng: thay vì ngồi yên nhắm mắt và quán tâm thì lối thực tập nầy được áp dụng trong khi chúng ta đang sinh hoạt thường ngày.

Sau khi ấn bản 1 được phát hành vào năm 1992, tôi nhận được nhiều lời phê bình cho rằng lối giảng dạy của tôi giống như Krishnamurti và Thiền tông. Khi có người nói với bạn đạo của tôi, Sư Cô Phật giáo Nguyên thủy tên là Shinna Dhammadina, về điểm nầy thì Sư Cô trả lời: 'Ðó là bởi vì sư phụ của Thynn Thynn dạy giáo pháp rất giống như Krishnamurti và Thiền tông'

Hai sư phụ của tôi là người Miến-điện, viện chủ Sayadaw U Eindasara ở Rangoon và viện chủ Sayadaw U Awthada ở Henzada. Hai ngài là sư Phật giáo Nguyên thủy, nhưng giảng dạy Phật pháp theo lối không chính thống và rất năng động. Hai ngài tách rời khỏi lề lối cổ truyền là nhấn mạnh phương pháp ngồi thiền, thay vào đó hai ngài đặt trọng tâm vào cách 'nhìn thẳng vào bên trong và thực tập tỉnh giác trong mọi sinh hoạt thường ngày'.

Ðối với tôi phương pháp nầy rất hấp dẫn vì nó giản dị, thẳng tắt và rất thực tế cho đời sống thường ngày. Trước khi gặp hai sư phụ vào năm 1973, tôi đã có dịp thực tập thiền định theo lối cổ truyền trong thời gian không lâu với cố Hoà thượng Sayadaw U Zawana ở thiền viện Mahasi. Sau vài buổi thực tập với ngài, tôi bắt đầu thấy mình tự nhiên có nhận thức về cảm thọ của mình trong sinh hoạt thường ngày, và được an lạc hơn nhiều mà không cần phải chính thức ngồi thiền. Tôi khám phá ra là ngay khi tôi tập trung nhìn vào cảm xúc của mình thì chúng biến mất đi rất nhanh. Thế rồi nhờ vài bạn đạo tốt bụng giới thiệu, tôi đã gặp được hai vị sư phụ cuả tôi. Các ngài dạy phương pháp tìm bình an trong tâm bằng cách 'dừng lại và nhìn vào tâm, ở từng giây phút trong sinh hoạt thường ngày, như là một lối thực tập thiền định'. Tôi bị phương pháp nầy thâu hút tức khắc, bởi vì tôi đã trải qua kinh nghiệm đúng y như lời dạy của hai ngài.

Khi gặp hai sư phụ Sayadaw, tôi rất cảm kích về trí tuệ thâm sâu và phương pháp mới mẻ của hai ngài. Lối giảng dạy Phật giáo Nguyên thủy rất cải tiến của hai ngài rất hiếm thấy trong Phật giáo cổ truyền Miến-điện. Nó có vẻ tương tợ như Krishnamurti khi nhằm phá vỡ mọi điều-kiện-hóa cứng ngắc để đạt tới tự do tối hậu cho tâm thức, nhưng điểm kỳ đặc của hai ngài là dạy cách tái hội-nhập tương-đối-tính với một quan điểm quán chiếu mới mẻ. Hai vị cũng đặc biệt tài tình trong lối dạy tu tập tại chỗ, giống như cách trực tiếp lấy-tâm-truyền-tâm trong Thiền tông. Ðây có lẽ là lý do vì sao một số người cho quyển sách của tôi là một tổng hợp của Phật giáo Nguyên thủy, Krishnamurti và Thiền tông.

Hai vị sư phụ của tôi không phải là nguời có học thức Tây phương. Hai ngài chỉ biết về giáo lý Krishnamurti và Thiền tông qua sự giới thiệu của chúng tôi là học trò của hai ngài. Thật là kỳ thú khi ta thấy có sự gặp nhau giữa hai đường lối tìm chân lý có nhiều vẻ khác biệt như vậy, đúng là điều rất khó xảy ra.

Nhiều người thường hỏi tôi về hai vị sư phụ của tôi là người như thế nào? Thật ra hai ngài rất khác tánh nhau. Ngài Sayadaw U Eindasa là một nhà huyền học thâm sâu kiêm nhà thơ, ngài là người im lặng hơn. Chúng tôi thường thích thú gọi ngài là 'vị Phật tươi cười' Ngài ít khi xuất hiện hay giảng pháp cho công chúng, nhưng dành năng lực đặc biệt của ngài để dạy dỗ học trò. Còn ngài Sayadaw U Awthada thì sáng chói và nhạy bén, chúng tôi gọi ngài là 'vị Thiền sư Miến-điện' bởi vì ngài có khả năng giống như các Thiền sư là thắt gút tâm học viên và đẩy họ ra khỏi phạm trù trí thức.

Hai sư phụ nầy giống Krishnamurti ở điểm hai ngài sống cuộc đời bình dị, không cầu tìm tín đồ, không cầu thành lập tự viện hay giáo đoàn riêng, và xa lìa danh lợi. Hai ngài vẫn sống và giảng dạy trong khuôn khổ của giáo hội, nhưng vẫn giữ được đạo phong và sự cởi mở hiếm thấy trong Phật giáo Á đông.

Tôi có diễm phúc được thân cận học hỏi với hai vị thầy đặc biệt nầy, và tôi nhớ lại thời gian qua tôi đã học tập nơi hai ngài, với sự thích thú và lòng biết ơn. Hai ngài nghĩ là tôi hơi tinh nghịch khi tôi tiếp tục đem nhiều người thuộc mọi thành phần trong xã hội đến với hai ngài để học bài học đầu tiên. Nhờ sự thân cận nầy, ngày nay tôi được may mắn chia xẻ kinh nghiệm bản thân với các thành viên trong các nhóm học Phật, và với nhiều người khác qua quyển sách nầy. Ðối với hai vị sư phụ, tôi xin cúi đầu thành kính; tôi cũng xin cung kính cúi đầu trước bậc đại đạo sư của tôi là ngài Shwe Baw Gyun Sayadaw bởi vì ngài đã yểm trợ quyển sách nầy và công tác hoằng đạo của tôi ở Tây phương.

Thynn Thynn
Sebastopol, California, 1998

Cảm Tạ

Tôi rất cám ơn người bạn đạo thân nhất của tôi, Chị Pam Taylor, là người đầu tiên đề nghị xuất bản các bài viết của tôi, và cũng là người tình nguyện sắp xếp lại các bài viết không thứ tự và cô đọng thành một bản thảo. Nếu không có dũng chí và tài sắp xếp của Chị thì có lẽ bản thảo của tôi còn nằm yên trên kệ trong khu sàn nhà. Tôi cũng xin cảm ơn Chị Marcia Hamilton đã sửa chữa bản thảo đầu tiên, kế đó là Ashin U Tay Zaw Batha, hoàn chỉnh bài viết. Rồi kế đó là ông chồng tài danh của tôi, Bs San Lin đã thành công trong việc thúc đẩy tôi hoàn tất bản thảo và đã hết sức giúp đỡ tôi chuẩn bị bản thảo cuối cùng.

Không những là chồng tôi, mà còn các con tuyệt vời của tôi nữa, Win và Tet đã giúp tôi trong kinh nghiệm quán chiếu về bản thân, về nhân tính và đời sống gia đình. Nhiều bạn hỏi thiền đạo của tôi là gì, tôi luôn luôn trả lời: 'Gia đình là thiền đạo của tôi' Chính là phần lớn xuyên qua gia đình mà tôi học tập được những gì tôi đang giảng dạy. Chính là gia đình đã thúc đẩy tôi rèn luyện trí tuệ, thực tập và tái thực tập công phu giác quán của mình. Thật ra, gia đình chính là thử thách to lớn nhất và là bãi tập luyện của tôi.

Tôi xin cám ơn những người bạn cũ trong nhóm học Phật ở Bangkok, với những kỷ niệm vui chung, những câu hỏi thật thà và thách thức của họ đã dẫn tới sự hoàn thành quyển sách nầy.

Tôi rất cám ơn bà Dagmar Anabelle Zinser của Ðức quốc đã rộng lượng ủng hộ tài chánh cho lần tái bản nầy. Tôi cũng cám ơn cô thư ký của tôi là Joan Gloff, đã thực hiện những sửa đổi cho bản in.

Xin cám ơn các bạn John Hein và Charlotte Richardson đã cẩn thận đọc lại và sửa chữa, Nee Nee Myint đánh máy lại, và bạn David Babski đã định mẫu bản thảo.

Thynn Thynn

-ooOoo-

Ðạo Lý Sukkhavipassaka

Trong đạo lý Sukkhavipassaka (Hành Giả Thuần Quán), các phương pháp tu Chỉ như Quán Hơi Thở thì không cần thiết lắm. Song song với việc giữ ba giới (sila) [1], trí tuệ (panna) có thể phát triển. Khi hai yếu tố trí tuệ phát triển [2] thì ba yếu tố thiền định (samadhi) [3] cũng đồng thời phát triển. Ðây gọi là Pancangika Magga. Như vậy là Năm Ðạo Phần cùng phát triển chung, cộng với ba giới hợp thành Bát Thánh Ðạo.

Tu tập đạo lý nầy, tâm thức sẽ không còn bị nhiễm ô. Nhưng hành giả cần có một mức độ cao về trí thông minh, cố gắng và kiên nhẫn.

Ledi Sayadaw
(Magganga Dipani)

[1] Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng; [2] Chánh kiến, chánh tư duy; [3] Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định

-ooOoo-

Tự Do Ðể Bắt Ðầu

Thế nào là được tự do?

Theo ý nghĩa Phật giáo, 'tự do' có nghĩa là không còn đau khổ, là đạt được sự tự tại của nội tâm trong đó đau khổ đã chấm dứt. Dĩ nhiên đây là một điều kiện tâm thức lý tưởng - nhưng làm sao chúng ta đạt được đây? Muốn đạt được tự do nội tâm, chúng ta phải tìm nó với một 'tâm hồn tự do'. Cũng như câu nói: 'Muốn bắt được trộm, ta phải biết suy nghĩ như kẻ trộm'. Thứ tự do mà chúng ta đang tìm đây là một tình trạng tuyệt đối - đúng vậy - đó là thứ tự do vô biên, hoàn toàn giải thoát và vô giới hạn. Chúng ta bắt đầu cuộc tìm kiếm với một tâm thức hữu biên, bị trí thức cột trói và trong chính nó đã bị giới hạn rồi. Nếu chúng ta còn nhồi nhét thêm vào đó đủ thứ lý tưởng, quan niệm, giáo thuyết và phán đoán - thì tâm thức vốn đã nặng nề của chúng ta không bao giờ có đủ tự do để thể nghiệm trọn vẹn chân lý. Nó chỉ có thể đạt tới những sự thật hay kinh nghiệm trong giới hạn của giáo thuyết, niềm tin và quan niệm đó - những thứ nầy đều là sản phẩm của trí thức. Do đó tâm thức không bao giờ có thể phá vỡ được sự điều-kiện-hóa (khô cứng) của trí thức mà chúng ta đang cố gắng vượt thoát. Bởi vì chúng ta bám níu vào một hệ thống hay khuôn mẫu nào đó trên đường tìm chân lý, chúng ta chỉ có thể kinh nghiệm được những gì mà hệ thống hay khuôn mẫu đó cho phép. Nhưng chân lý là vô hạn, bất khả đắc và hoàn toàn tự tại. Chân lý không thuộc về bất cứ một tôn giáo, giáo phái hay hệ thống nào. Mọi tôn giáo, phương pháp và hệ thống do loài người đặt ra chỉ có mục đích hướng dẫn chúng ta trên con đường tìm chân lý. Nhưng chúng ta thường lầm lẫn con đường với chân lý.

Nếu chúng ta muốn đạt được tâm thức tự do thì trước hết phải có một thái độ vô ngã, để tâm thức được tự do dò tìm, tra cứu, xem xét - và nhất là thể nghiệm chân lý. Nhưng đa số chúng ta bắt đầu với một nhu cầu cá nhân nhằm tìm kiếm tự do nội tâm. Với tâm trạng như vậy, thật là khó có được một thái độ vô ngã, nhưng đây chính là mâu thuẫn của con đường tu tập nội tâm. Khi còn ngã chấp thì chúng ta có khuynh hướng phán đoán, khái niệm hóa vấn đề. Phán đoán và phân biệt bắt nguồn từ nội tâm bị trí thức chi phối và điều kiện hóa. Ngay khi chúng ta bắt đầu phán đoán và phân biệt thì trí thức đã hoạt động và bịt mắt chúng ta rồi.

Ngày nào trí thức còn chi phối thì chúng ta còn bị nó che lấp khả năng thể nghiệm trọn vẹn chiều sâu và bản thể tuyệt diệu của tâm thức. Ðó là lý do tại sao mọi giáo pháp và phương tiện - gọi là tâm pháp hay tâm đạo - đều cố gắng vượt thoát phạm trù trí thức để đi vào lãnh vực trực giác hay tâm linh, bởi vì chỉ có khía cạnh trực giác của tâm mới thể-nghiệm được trọn vẹn chân lý hay tự do. Nhiều hệ thống tôn giáo khác nhau đã phát triển các phương pháp và đường lối tu tập riêng biệt cho lịch sử, văn hóa và tình cảm của dân tộc họ. Chúng ta chỉ cần chọn con đường thích hợp cho mình.

Dù bạn chọn con đường nào, điều nguy hiểm nhất vẫn là sự gom chứa các sở đắc dựa vào tình cảm. Ðây là đạo sư 'của tôi', đức tin 'của tôi', tiến bộ 'của tôi', kinh nghiệm 'của tôi'. Ở đây chúng ta lại phải đối diện với một mâu thuẫn. Sự hướng dẫn của sư phụ lúc nào cũng là cần thiết để giúp chúng ta tiến bộ vững chắc, nhưng đây có thể là một trở ngại nếu chúng ta thiếu cẩn thận. Người ta thường bám níu vào đạo sư hay thầy của mình. Thật ra đây là một trong những trở ngại khó vượt qua nhất trên con đường tìm tự do cho nội tâm. Xả bỏ mọi tín điều, giáo thuyết, đạo sư, lý tưởng, phán đoán của mình, vv... là công việc cực kỳ khó khăn bởi vì chúng nó quá thân yêu đối với chúng ta. Nhưng nếu để chúng trở thành sở hữu của chúng ta, như là tài sản và quyền thế, thì chúng ta không còn tự do để tiếp tục tiến bước xa hơn nữa.

Vậy chúng ta phải làm sao đây? Chỉ có cách chúng ta phải nhìn mọi sự vật với tâm bình đẳng (không khen chê, lấy bỏ), dù đó là đạo sư, giáo thuyết, lý tưởng, và ngay cả công phu tu tập và tiến bộ của mình nữa. Chỉ như thế chúng ta mới có thể nhìn sự vật một cách khách quan được.

Tự do không phải chỉ là kết quả sau cùng. Nó không phải là cái gì chờ đợi chúng ta sau những cố gắng miệt mài. Tự do nầy là tức khắc, ngay lúc nầy, ngay từ lúc ban đầu. Chúng ta có thể được tự do ngay trong tiến trình tìm kiếm, trong kinh nghiệm, ở từng bước một trên suốt con đường.

Muốn được tự do ta chỉ cần hai điều: tâm hồn im lặngtrái tim cởi mở.

-ooOoo-

Ðầu trang | Phần 1 | Phần 2 | Phần 3 | Phần 4 | Phần 5


* Dịch giả giữ bản quyền.

* I, Dr Thynn Thynn, the author of "Living Meditation: Living Insight", grant permission to
Mr. Huynh of Australia to translate and publish my book into Vietnamese language
for free distribution.
Any part or whole of the translated version may not be reproduced without the expressed permission of the author and translator.

* Chân thành cám ơn đạo hữu Từ Thám đã cho phép đăng bản dịch vào trang web BuddhaSasana (Bình Anson, 24-02-2003)

-ooOoo-


[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 17-03-2003