Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

VU Times font

 

Tạng Luật
Vinaya Pitaka

Tiểu Phẩm
Cullavagga

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)


 III. CHƯƠNG TÍCH LŨY TỘI (tt)
(SAMUCCAYAKKHANDHAKAṂ)

[440] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, một tội đã được che giấu hai ngày, một tội đã được che giấu ba ngày, một tội đã được che giấu bốn ngày, một tội đã được che giấu năm ngày, một tội đã được che giấu sáu ngày, một tội đã được che giấu bảy ngày, một tội đã được che giấu tám ngày, một tội đã được che giấu chín ngày, một tội đã được che giấu mười ngày. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… một tội đã được che giấu mười ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, như vậy tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu mười ngày thì hội chúng hãy ban cho vị tỳ khưu ấy hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị (agghena samodhānaparivāsa) của tội ấy.

[441] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:

Bạch các ngài, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… một tội đã được che giấu mười ngày. Bạch các ngài, tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu mười ngày tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội ấy.”

Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.

[442] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… một tội đã được che giấu mười ngày. Tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu mười ngày, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… một tội đã được che giấu mười ngày. Tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu mười ngày, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

[443] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, hai tội đã được che giấu hai ngày, ba tội đã được che giấu ba ngày, bốn tội đã được che giấu bốn ngày, năm tội đã được che giấu năm ngày, sáu tội đã được che giấu sáu ngày, bảy tội đã được che giấu bảy ngày, tám tội đã được che giấu tám ngày, chín tội đã được che giấu chín ngày, mười tội đã được che giấu mười ngày. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… mười tội đã được che giấu mười ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, như vậy những tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu dài ngày nhất thì hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của các tội ấy đến vị tỳ khưu ấy.

[444] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:

Bạch các ngài, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… mười tội đã được che giấu mười ngày. Bạch các ngài, những tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu dài ngày nhất tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội ấy.”

Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.

[445] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… mười tội đã được che giấu mười ngày. Những tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu dài ngày nhất, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… mười tội đã được che giấu mười ngày. Những tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu dài ngày nhất, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

[446] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?”

Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, tôi đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đây đã khởi ý rằng: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?” Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến tôi đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở tôi đây trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?” Vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị tỳ khưu ấy.

[447] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:

Bạch các ngài, tôi đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến tôi đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở tôi đây trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?’ Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng.”

Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.

[448] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Này các tỳ khưu, sau khi xác định điều ấy, vị tỳ khưu ấy nên thực hành parivāsa hai tháng.

[449] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, sau khi xác định điều ấy, vị tỳ khưu ấy nên thực hành parivāsa hai tháng.

[450] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội vị ấy nhận biết, một tội vị ấy không nhận biết. Tội mà vị ấy nhận biết, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy nhận biết được tội kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội ta đã nhận biết, một tội ta đã không nhận biết. Tội mà ta đã nhận biết, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây nhận biết được luôn cả tội kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, sau khi xác định điều ấy, vị tỳ khưu ấy nên thực hành parivāsa hai tháng.

[451] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội vị ấy nhớ, một tội vị ấy không nhớ. Tội mà vị ấy nhớ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy nhớ được luôn cả tội kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội ta đã nhớ, một tội ta đã không nhớ. Tội mà ta đã nhớ, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây nhớ được luôn cả tội kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, sau khi xác định điều ấy, vị tỳ khưu ấy nên thực hành parivāsa hai tháng.

[452] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội không có nghi ngờ, một tội có nghi ngờ. Với tội không có nghi ngờ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy không còn nghi ngờ luôn cả tội kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội không có nghi ngờ, một tội có nghi ngờ. Với tội không có nghi ngờ, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây không còn nghi ngờ luôn cả tội kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, sau khi xác định điều ấy, vị tỳ khưu ấy nên thực hành parivāsa hai tháng.

[453] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có chủ tâm (jānapaṭicchannā), một tội đã được che giấu không có chủ tâm (ajānapaṭicchannā). Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có chủ tâm, một tội đã được che giấu không có chủ tâm. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tội nào đã được che giấu có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tội nào đã được che giấu không có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tội này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.

[454] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có ghi nhớ, một tội đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có ghi nhớ, một tội đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tội nào đã được che giấu có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tội nào đã được che giấu không có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tội này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.

[455] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu không có nghi ngờ, một tội đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu không có nghi ngờ, một tội đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tội nào đã được che giấu không có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tội nào đã được che giấu có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tội này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.

[456] Này các tỳ khưu, có vị tỳ khưu nọ đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?”

Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, tôi đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đây đã khởi ý rằng: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tôi đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở tôi đây trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị tỳ khưu ấy.

[457] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:

Bạch các ngài, tôi đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tôi đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở tôi đây trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng.”

Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.

[458] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đã được hội chúng ban cho tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên xác định từ trước và nên thực hành parivāsa hai tháng.

[459] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên xác định từ trước và nên thực hành parivāsa hai tháng.

[460] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng vị ấy nhận biết, tháng kia vị ấy không nhận biết. Tháng mà vị ấy nhận biết, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng vị ấy nhận biết, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy nhận biết luôn cả tháng kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng ta đã nhận biết, tháng kia ta đã không nhận biết. Tháng mà ta đã nhận biết, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng ta nhận biết, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây nhận biết luôn cả tháng kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên xác định từ trước và nên thực hành parivāsa hai tháng.

[461] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng vị ấy nhớ, tháng kia vị ấy không nhớ. Tháng mà vị ấy nhớ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng vị ấy nhớ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy nhớ được tháng kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng ta đã nhớ, tháng kia ta đã không nhớ. Tháng mà ta đã nhớ, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng ta đã nhớ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây nhớ được luôn cả tháng kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên xác định từ trước và nên thực hành parivāsa hai tháng.

[462] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng không có nghi ngờ, một tháng có nghi ngờ. Tháng không có nghi ngờ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng không có nghi ngờ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy không còn nghi ngờ luôn cả tháng kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng không có nghi ngờ, một tháng có nghi ngờ. Tháng không có nghi ngờ, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng không có nghi ngờ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây không còn nghi ngờ luôn cả tháng kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên xác định từ trước và nên thực hành parivāsa hai tháng.

[463] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có chủ tâm, một tháng đã được che giấu không có chủ tâm. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có chủ tâm, một tháng đã được che giấu không có chủ tâm. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tháng nào đã được che giấu có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tháng nào đã được che giấu không có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tháng này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.

[464] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có ghi nhớ, một tháng đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có ghi nhớ, một tháng đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tháng nào đã được che giấu có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tháng nào đã được che giấu không có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tháng này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.

[465] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu không có nghi ngờ, một tháng đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu không có nghi ngờ, một tháng đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tháng nào đã được che giấu không có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tháng nào đã được che giấu có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tháng này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.

[466] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ phạm nhiều tội saṅghādisesa. Vị ấy không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa. Tôi không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu); vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch (suddhantaparivāsa) [1] của các tội ấy đến vị tỳ khưu ấy.

[467] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:

Bạch các ngài, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa. Tôi không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy.”

Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.

[468] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa. Vị ấy không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa. Vị ấy không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 [469] Và này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho như vầy; hành phạt parivāsa nên được ban cho như vầy.

Này các tỳ khưu, thế nào là hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho?

Vị không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

Vị biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), không có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

Vị biết một phần số lượng của các tội một phần không biết, không biết số lượng của các đêm, nhớ một phần số lượng của các tội một phần không nhớ, không nhớ số lượng của các đêm, có nghi ngờ về một phần số lượng của các tội một phần không có nghi ngờ, có nghi ngờ về số lượng của các đêm thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

Vị không biết số lượng của các tội, biết một phần số lượng của các đêm một phần không biết, không nhớ số lượng của các tội, nhớ một phần số lượng của các đêm một phần không nhớ, có nghi ngờ về số lượng của các tội, (có nghi ngờ về một phần số lượng của các đêm một phần không có nghi ngờ thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

Vị biết số lượng của các tội, biết một phần số lượng của các đêm một phần không biết, nhớ số lượng của các tội, nhớ một phần số lượng của các đêm một phần không nhớ, không có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về một phần số lượng của các đêm một phần không có nghi ngờ thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

Vị biết một phần số lượng của các tội một phần không biết, biết một phần số lượng của các đêm một phần không biết, nhớ một phần số lượng của các tội một phần không nhớ, nhớ một phần số lượng của các đêm một phần không nhớ, có nghi ngờ về một phần số lượng của các tội một phần không có nghi ngờ, có nghi ngờ về một phần số lượng của các đêm một phần không có nghi ngờ thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho như thế.

[470] Và này các tỳ khưu, thế nào là hành phạt parivāsa nên được ban cho?

Vị biết số lượng của các tội, biết số lượng của các đêm (đã dấu), nhớ số lượng của các tội, nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), không có nghi ngờ về số lượng của các tội, không có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa nên được ban cho.

Vị không biết số lượng của các tội, biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, không có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa nên được ban cho.

Vị biết một phần số lượng của các tội một phần không biết, biết số lượng của các đêm (đã dấu), nhớ một phần số lượng của các tội một phần không nhớ, nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về một phần số lượng của các tội một phần không có nghi ngờ, không có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa nên được ban cho.

Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa nên được ban cho như thế.

Dứt hành phạt parivāsa.

[471] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc thực hành parivāsa đã hoàn tục. Vị ấy đã trở lại và cầu xin sự tu lên bậc trên. Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

[472] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại hoàn tục. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[473] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại xuống sa di. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị sa di. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[474] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại bị điên. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị điên. Nhưng nếu vị ấy hết bị điên, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[475] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa bị loạn trí. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị loạn trí. Nhưng nếu vị ấy hết bị loạn trí, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[476] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa bị thọ khổ hành hạ (vedanaṭṭo). Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị thọ khổ hành hạ. Nhưng nếu vị ấy hết bị thọ khổ hành hạ, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[477] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại bị án treo về việc không nhìn nhận tội. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[478] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[479] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[480] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại hoàn tục. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[481] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội. …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỳ khưu, sự (thực hành) trở lại từ đầu không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[482] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta lại hoàn tục. Này các tỳ khưu, hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến vị ấy.

 [483] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta lại xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội. …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỳ khưu, hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến vị ấy.

[484] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đang thực hành hành phạt mānatta lại hoàn tục. Này các tỳ khưu, việc thực hành hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt mānatta nào đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn. Nên thực hành phần còn lại.

[485] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đang thực hành hành phạt mānatta lại xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội. …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỳ khưu, việc thực hành hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt mānatta nào đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn. Nên thực hành phần còn lại.

[486] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội lại hoàn tục. Này các tỳ khưu, sự giải tội không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn. Vị tỳ khưu ấy nên được giải tội.

[487] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội lại xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội. …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỳ khưu, sự giải tội không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn. Vị tỳ khưu ấy nên được giải tội.

Bốn mươi trường hợp được đầy đủ.

[488] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định (parimāṇāyo), không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[489] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[490] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[491] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định (aparimāṇāyo), không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[492] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[493] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[494] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[495] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[496] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[497] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta …(như trên)…

[498] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đang thực hành hành phạt mānatta …(như trên)…

[499] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[500] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[501] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[502] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[503] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[504] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[505] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[506] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[507] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

Ba mươi sáu trường hợp được đầy đủ.

[508] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa, không có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, hành phạt mānatta nên được ban cho vị tỳ khưu ấy.

[509] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa, không có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[510] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[511] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[512] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào vị ấy đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy cũng không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[513] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào vị ấy đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[514] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào vị ấy đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[515] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào vị ấy đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[516] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhận biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhận biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[517] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhận biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhận biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[518] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhận biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhận biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[519] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhận biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhận biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[520] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[521] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[522] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[523] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[524] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[525] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[526] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[527] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[528] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu sau khi phạm nhiều tội saṅghādisesa, không che giấu, rồi xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… (Phần dưới đây nên được giải thích tương tợ). ...(như trên)... bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. ...(như trên)... Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. ...(như trên)... Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. ...(như trên)... Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội vị ấy có nghi ngờ vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy bị thọ khổ hành hạ. Sau khi đã trở lại hết bị thọ khổ hành hạ, các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. ...(như trên)... Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

Dứt một trăm trường hợp mānatta.

[529] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, không che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[530] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, không che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[531] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[532] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[533] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm, sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm, sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[534] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm, sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm, sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[535] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm, sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm, sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[536] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không được che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm, sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm, sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[537] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhận biết và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhận biết và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[538] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhận biết và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhận biết và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[539] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhận biết và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhận biết và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[540] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhận biết và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhận biết và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[541] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[542] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[543] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[544] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[545] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[546] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ,vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[547] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[548] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[549] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, không che giấu, rồi xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu (Phần dưới đây nên được giải thích tương tợ). ...(như trên)... Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. …(như trên)… Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. …(như trên)… Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy bị thọ khổ hành hạ. Sau khi đã trở lại hết bị thọ khổ hành hạ, các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[550] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta …(như trên)…

[551] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị đang thực hành hành phạt mānatta …(như trên)…

[552] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. ...(như trên)... (Vị xứng đáng hành phạt mānatta, vị thực hành hành phạt mānatta, vị xứng đáng giải tội nên được giải thích như đã giải thích ở phần của vị thực hành parivāsa).

[553] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, không che giấu, rồi xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. …(như trên)… Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. …(như trên)… Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. …(như trên)… Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy bị thọ khổ hành hạ. Sau khi đã trở lại hết bị thọ khổ hành hạ, các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[554] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… chưa được xác định, không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… cùng một tội danh, không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… khác tội danh, không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… cùng nhóm phân loại (sabhāgā), không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… khác nhóm phân loại (visabhāgā), không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… riêng biệt (vavatthitā), không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… có liên quan (sambhinnā)[2], không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)…

[555] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[556] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có nghi ngờ là tội saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[557] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội lẫn lộn (missakadiṭṭhino) trong tội saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[558] Hai vị tỳ khưu phạm tội lẫn lộn. Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội lẫn lộn. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[559] Hai vị tỳ khưu phạm tội lẫn lộn. Hai vị có quan điểm là tội lẫn lộn trong tội lẫn lộn. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[560] Hai vị tỳ khưu phạm tội nhẹ (suddhakaṃ).[3] Hai vị có quan điểm là saṅghādisesa trong tội nhẹ. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác). Cả hai vị nên được xử trí theo Pháp.

[561] Hai vị tỳ khưu phạm tội nhẹ. Hai vị có quan điểm là tội nhẹ trong tội nhẹ. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác). Cả hai vị nên được xử trí theo Pháp.

[562] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội saṅghādisesa. Một vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ trình báo;” vị kia (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trình báo.” Vị ấy giấu giếm vào canh thứ nhất, giấu giếm vào canh thứ nhì, giấu giếm vào canh thứ ba, khi hừng đông đã ló dạng thì tội đã được giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[563] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội saṅghādisesa. Hai vị trong khi đi (bàn bạc rằng): “Chúng ta sẽ trình báo.” Trên đường đi, pháp giả dối sanh khởi ở một vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trình báo.” Vị ấy giấu giếm vào canh thứ nhất, giấu giếm vào canh thứ nhì, giấu giếm vào canh thứ ba, khi hừng đông đã ló dạng thì tội đã được giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[564] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội saṅghādisesa. Hai vị bị điên. Về sau, khi hai vị hết bị điên, một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[565] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Trong khi giới bổn Pātimokkha được đọc tụng, hai vị phát biểu như vầy:

- Cho đến hôm nay chúng tôi mới biết được rằng: “Nghe nói pháp này cũng được truyền lại trong giới bổn (suttāgato), được chứa đựng trong giới bổn (suttapariyāpanno) và được đưa ra đọc tụng vào mỗi nửa tháng.”

Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[566] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, rồi giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[567] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[568] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[569] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[570] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[571] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[572] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[573] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[574] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

Dứt chín trường hợp không được trong sạch từ căn bản.

[575] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. ...(như trên)... được xác định, có che giấu. ...(như trên)... được xác định, có che giấu và không có che giấu. ...(như trên)... Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

[576] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, không có che giấu. ...(như trên)... chưa được xác định, có che giấu. ...(như trên)... chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

[577] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. ...(như trên)... được xác định và chưa được xác định, có che giấu. ...(như trên)... được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

Dứt chín trường hợp được trong sạch từ căn bản.

[578] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)…, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa,” dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: “Ta đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta đây. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng đã cho ta đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: ‘Ta đang thực hành parivāsa,’ dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta đây nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, hay là ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (nên cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (nên cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (nên cầu xin) sự giải tội đúng Pháp?” Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng cho vị ấy được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

[579] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu. …(như trên)… được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa,” dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: “Ta đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta đây. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng đã cho ta đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: ‘Ta đang thực hành parivāsa,’ dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta đây nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, hay là ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (nên cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (nên cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (nên cầu xin) sự giải tội đúng Pháp?” Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) sự hành parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng ban cho vị ấy được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

[580] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, không có che giấu. …(như trên)… chưa được xác định, có che giấu. …(như trên)… chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa,”...(như trên)... ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

[581] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Vị ấy, trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa” …(như trên)… ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

[582] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa,” dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: “Ta đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta đây. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Ta đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Hội chúng đã cho ta đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: ‘Ta đang thực hành parivāsa,’ dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta đây nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, hay là ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (nên cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (nên cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (nên cầu xin) sự giải tội đúng Pháp?” Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) sự hành parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng ban cho vị ấy được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

[583] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa,” dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: “Ta đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)…, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta đây. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng đã cho ta đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: ‘Ta đang thực hành parivāsa,’ dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, hay là ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (nên cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (nên cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (nên cầu xin) sự giải tội đúng Pháp?” Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng ban cho vị ấy được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

Dứt Chương Tích Lũy Tội là chương thứ ba.

*******

Tóm lược chương này:

[584]

Không che giấu một ngày,
hai ngày, rồi ba ngày,
bốn ngày, và năm ngày,
nửa tháng, hoặc mười ngày,
bậc Đại Sĩ thuyết tội,
tội nhẹ, dầu hoàn tục
các tội vẫn xác định.
Có hai vị tỳ khưu
trường hợp này suy nghĩ
cả hai đều nghi ngờ,
nghĩ rằng tội lẫn lộn,
lẫn lộn và không lẫn,
suy nghĩ rằng tội nặng,
cũng thế nghĩ tội nhẹ,
rồi một vị giấu giếm,
vị kia không giấu giếm,
và rồi pháp giả dối,
bị điên, và sám hối,
mười tám lại từ đầu,
và rồi được trong sạch.
Các lời thuyết giảng này
để tồn tại Chánh Pháp
chính là sự ban cho
của các giáo thọ sư
của nhóm Vibhajja
thường trú ngôi Đại Tự
(Mahāvihāra)
làm rạng ngời hòn đảo
tên Tambapaṇṇi.


[1] Bản dịch Anh ngữ của Rhydavis và Oldenberg chú thích rằng: Buddhaghosa giải thích số lượng đêm thực hành suddhantaparivāsa nên tính từ lúc tu lên bậc trên đến ngày hôm ấy. Cách thức đang được áp dụng là xác định thời gian được trong sạch sau ngày tu lên bậc trên rồi thực hành suddhantaparivāsa cho thời gian còn lại. Lối giải thích này phù hợp với ý nghĩa của từ suddhanta = suddha + anta = thời điểm cuối khi được trong sạch

[2] Các tội saṅghādisesa 1, 5, 12, 13 là vavatthitā. Các nhóm tội (2, 3, 4), (6, 7, 8), (9, 10, 11) là sambhinnā. Sabhāgāvisabhāgā cũng tương tự tùy theo phương pháp phân loại.

[3] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng sau tội saṅghādisesa là nhóm các tội nhẹ (lahukāpatti).

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01a | 01b | 02 | 03a | 03b | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12

 

Chân thành cám ơn Tỳ khưu Indacanda Nguyệt-Thiên đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 06-2005)

[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 06-06-2005

Luat - Tieu Pham
Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

VU Times font

 

Tạng Luật
Vinaya Pitaka

Tiểu Phẩm
Cullavagga

Tỳ khưu Indacanda Nguyệt Thiên dịch

Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)


 III. CHƯƠNG TÍCH LŨY TỘI (tt)
(SAMUCCAYAKKHANDHAKAṂ)

[440] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, một tội đã được che giấu hai ngày, một tội đã được che giấu ba ngày, một tội đã được che giấu bốn ngày, một tội đã được che giấu năm ngày, một tội đã được che giấu sáu ngày, một tội đã được che giấu bảy ngày, một tội đã được che giấu tám ngày, một tội đã được che giấu chín ngày, một tội đã được che giấu mười ngày. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… một tội đã được che giấu mười ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, như vậy tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu mười ngày thì hội chúng hãy ban cho vị tỳ khưu ấy hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị (agghena samodhānaparivāsa) của tội ấy.

[441] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:

Bạch các ngài, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… một tội đã được che giấu mười ngày. Bạch các ngài, tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu mười ngày tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội ấy.”

Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.

[442] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… một tội đã được che giấu mười ngày. Tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu mười ngày, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… một tội đã được che giấu mười ngày. Tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu mười ngày, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của tội đã được che giấu mười ngày trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

[443] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, hai tội đã được che giấu hai ngày, ba tội đã được che giấu ba ngày, bốn tội đã được che giấu bốn ngày, năm tội đã được che giấu năm ngày, sáu tội đã được che giấu sáu ngày, bảy tội đã được che giấu bảy ngày, tám tội đã được che giấu tám ngày, chín tội đã được che giấu chín ngày, mười tội đã được che giấu mười ngày. Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… mười tội đã được che giấu mười ngày; vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, như vậy những tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu dài ngày nhất thì hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của các tội ấy đến vị tỳ khưu ấy.

[444] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:

Bạch các ngài, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… mười tội đã được che giấu mười ngày. Bạch các ngài, những tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu dài ngày nhất tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội ấy.”

Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.

[445] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… mười tội đã được che giấu mười ngày. Những tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu dài ngày nhất, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: một tội đã được che giấu một ngày, …(như trên)… mười tội đã được che giấu mười ngày. Những tội nào trong số các tội ấy đã được che giấu dài ngày nhất, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp với giá trị của những tội đã được che giấu dài ngày nhất trong số các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

[446] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?”

Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, tôi đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đây đã khởi ý rằng: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?” Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến tôi đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở tôi đây trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?” Vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị tỳ khưu ấy.

[447] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:

Bạch các ngài, tôi đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến tôi đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở tôi đây trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?’ Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng.”

Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.

[448] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Này các tỳ khưu, sau khi xác định điều ấy, vị tỳ khưu ấy nên thực hành parivāsa hai tháng.

[449] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy khởi ý như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của một tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, sau khi xác định điều ấy, vị tỳ khưu ấy nên thực hành parivāsa hai tháng.

[450] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội vị ấy nhận biết, một tội vị ấy không nhận biết. Tội mà vị ấy nhận biết, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy nhận biết được tội kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội ta đã nhận biết, một tội ta đã không nhận biết. Tội mà ta đã nhận biết, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây nhận biết được luôn cả tội kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, sau khi xác định điều ấy, vị tỳ khưu ấy nên thực hành parivāsa hai tháng.

[451] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội vị ấy nhớ, một tội vị ấy không nhớ. Tội mà vị ấy nhớ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy nhớ được luôn cả tội kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội ta đã nhớ, một tội ta đã không nhớ. Tội mà ta đã nhớ, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây nhớ được luôn cả tội kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, sau khi xác định điều ấy, vị tỳ khưu ấy nên thực hành parivāsa hai tháng.

[452] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội không có nghi ngờ, một tội có nghi ngờ. Với tội không có nghi ngờ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy không còn nghi ngờ luôn cả tội kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội không có nghi ngờ, một tội có nghi ngờ. Với tội không có nghi ngờ, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của tội ấy đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây không còn nghi ngờ luôn cả tội kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của luôn cả tội kia đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, sau khi xác định điều ấy, vị tỳ khưu ấy nên thực hành parivāsa hai tháng.

[453] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có chủ tâm (jānapaṭicchannā), một tội đã được che giấu không có chủ tâm (ajānapaṭicchannā). Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có chủ tâm, một tội đã được che giấu không có chủ tâm. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tội nào đã được che giấu có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tội nào đã được che giấu không có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tội này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.

[454] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có ghi nhớ, một tội đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu có ghi nhớ, một tội đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tội nào đã được che giấu có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tội nào đã được che giấu không có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tội này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.

[455] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu không có nghi ngờ, một tội đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tội đã được che giấu không có nghi ngờ, một tội đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của các tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tội nào đã được che giấu không có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tội nào đã được che giấu có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tội ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tội này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.

[456] Này các tỳ khưu, có vị tỳ khưu nọ đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?”

Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, tôi đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đây đã khởi ý rằng: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tôi đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở tôi đây trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị tỳ khưu ấy.

[457] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:

Bạch các ngài, tôi đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Tôi đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Tôi đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tôi đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở tôi đây trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Bạch các ngài, tôi đây cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng.”

Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.

[458] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đã được hội chúng ban cho tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên xác định từ trước và nên thực hành parivāsa hai tháng.

[459] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở vị ấy trong khi thực hành parivāsa: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng. Ta đây đã khởi ý rằng: ‘Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng?’ Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa một tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Pháp hổ thẹn đã xuất hiện ở ta đây trong khi thực hành parivāsa, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên xác định từ trước và nên thực hành parivāsa hai tháng.

[460] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng vị ấy nhận biết, tháng kia vị ấy không nhận biết. Tháng mà vị ấy nhận biết, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng vị ấy nhận biết, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy nhận biết luôn cả tháng kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng ta đã nhận biết, tháng kia ta đã không nhận biết. Tháng mà ta đã nhận biết, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng ta nhận biết, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây nhận biết luôn cả tháng kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên xác định từ trước và nên thực hành parivāsa hai tháng.

[461] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng vị ấy nhớ, tháng kia vị ấy không nhớ. Tháng mà vị ấy nhớ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng vị ấy nhớ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy nhớ được tháng kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng ta đã nhớ, tháng kia ta đã không nhớ. Tháng mà ta đã nhớ, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng ta đã nhớ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây nhớ được luôn cả tháng kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên xác định từ trước và nên thực hành parivāsa hai tháng.

[462] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng không có nghi ngờ, một tháng có nghi ngờ. Tháng không có nghi ngờ, vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng không có nghi ngờ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi thực hành parivāsa, vị ấy không còn nghi ngờ luôn cả tháng kia. Vị ấy nghĩ như vầy: “Ta đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng không có nghi ngờ, một tháng có nghi ngờ. Tháng không có nghi ngờ, ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa tháng ấy của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa tháng ấy, là tháng không có nghi ngờ, của hai tội đã được che giấu hai tháng đến ta đây. Trong khi thực hành parivāsa, ta đây không còn nghi ngờ luôn cả tháng kia, hay là ta nên cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng?” Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa luôn cả tháng kia của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy.

Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên xác định từ trước và nên thực hành parivāsa hai tháng.

[463] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có chủ tâm, một tháng đã được che giấu không có chủ tâm. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có chủ tâm, một tháng đã được che giấu không có chủ tâm. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tháng nào đã được che giấu có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tháng nào đã được che giấu không có chủ tâm, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tháng này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.

[464] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có ghi nhớ, một tháng đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu có ghi nhớ, một tháng đã được che giấu không có ghi nhớ. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tháng nào đã được che giấu có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tháng nào đã được che giấu không có ghi nhớ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tháng này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.

[465] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu không có nghi ngờ, một tháng đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Trong khi vị ấy đang thực hành parivāsa, có vị tỳ khưu khác đi đến là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc trí tuệ, có khả năng, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm tội gì? Vì sao vị tỳ khưu này thực hành parivāsa?

Các vị ấy trả lời như vầy:

- Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm hai tội saṅghādisesa đã được che giấu hai tháng; một tháng đã được che giấu không có nghi ngờ, một tháng đã được che giấu có nghi ngờ. Vị ấy đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hai tháng của hai tội ấy đã được che giấu hai tháng đến vị ấy. Này đại đức, vị tỳ khưu này đã phạm các tội ấy. Vị tỳ khưu này thực hành parivāsa vì các tội ấy.

Vị ấy nói như vầy:

- Này các đại đức, tháng nào đã được che giấu không có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là hợp lý; sự hợp lý đem lại kết quả. Này các đại đức, còn tháng nào đã được che giấu có nghi ngờ, việc ban cho hành phạt parivāsa của tháng ấy là không hợp lý; sự không hợp lý không đem lại kết quả. Này các đại đức, đối với tháng này vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta.

[466] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ phạm nhiều tội saṅghādisesa. Vị ấy không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Vị ấy đã kể lại cho các tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa. Tôi không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu); vậy tôi nên thực hành như thế nào?

Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- Này các tỳ khưu, vì việc ấy hội chúng hãy ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch (suddhantaparivāsa) [1] của các tội ấy đến vị tỳ khưu ấy.

[467] Và này các tỳ khưu, nên ban cho như vầy: Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy nên đi đến hội chúng, đắp thượng y một bên vai, đảnh lễ ở chân các tỳ khưu trưởng thượng, rồi ngồi chồm hổm, chắp tay lại, và nên nói như vầy:

Bạch các ngài, tôi đã phạm nhiều tội saṅghādisesa. Tôi không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy.”

Nên cầu xin đến lần thứ nhì. Nên cầu xin đến lần thứ ba.

[468] Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa. Vị ấy không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Vị tỳ khưu này tên (như vầy) đã phạm nhiều tội saṅghādisesa. Vị ấy không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu). Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý với việc ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì: …(như trên)…

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba: …(như trên)…

Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch của các tội ấy đến tỳ khưu tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

 [469] Và này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho như vầy; hành phạt parivāsa nên được ban cho như vầy.

Này các tỳ khưu, thế nào là hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho?

Vị không biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

Vị biết số lượng của các tội, không biết số lượng của các đêm (đã dấu), nhớ số lượng của các tội, không nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), không có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

Vị biết một phần số lượng của các tội một phần không biết, không biết số lượng của các đêm, nhớ một phần số lượng của các tội một phần không nhớ, không nhớ số lượng của các đêm, có nghi ngờ về một phần số lượng của các tội một phần không có nghi ngờ, có nghi ngờ về số lượng của các đêm thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

Vị không biết số lượng của các tội, biết một phần số lượng của các đêm một phần không biết, không nhớ số lượng của các tội, nhớ một phần số lượng của các đêm một phần không nhớ, có nghi ngờ về số lượng của các tội, (có nghi ngờ về một phần số lượng của các đêm một phần không có nghi ngờ thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

Vị biết số lượng của các tội, biết một phần số lượng của các đêm một phần không biết, nhớ số lượng của các tội, nhớ một phần số lượng của các đêm một phần không nhớ, không có nghi ngờ về số lượng của các tội, có nghi ngờ về một phần số lượng của các đêm một phần không có nghi ngờ thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

Vị biết một phần số lượng của các tội một phần không biết, biết một phần số lượng của các đêm một phần không biết, nhớ một phần số lượng của các tội một phần không nhớ, nhớ một phần số lượng của các đêm một phần không nhớ, có nghi ngờ về một phần số lượng của các tội một phần không có nghi ngờ, có nghi ngờ về một phần số lượng của các đêm một phần không có nghi ngờ thì hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho.

Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa hoàn toàn trong sạch nên được ban cho như thế.

[470] Và này các tỳ khưu, thế nào là hành phạt parivāsa nên được ban cho?

Vị biết số lượng của các tội, biết số lượng của các đêm (đã dấu), nhớ số lượng của các tội, nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), không có nghi ngờ về số lượng của các tội, không có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa nên được ban cho.

Vị không biết số lượng của các tội, biết số lượng của các đêm (đã dấu), không nhớ số lượng của các tội, nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về số lượng của các tội, không có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa nên được ban cho.

Vị biết một phần số lượng của các tội một phần không biết, biết số lượng của các đêm (đã dấu), nhớ một phần số lượng của các tội một phần không nhớ, nhớ số lượng của các đêm (đã dấu), có nghi ngờ về một phần số lượng của các tội một phần không có nghi ngờ, không có nghi ngờ về số lượng của các đêm (đã dấu) thì hành phạt parivāsa nên được ban cho.

Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa nên được ban cho như thế.

Dứt hành phạt parivāsa.

[471] Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trong lúc thực hành parivāsa đã hoàn tục. Vị ấy đã trở lại và cầu xin sự tu lên bậc trên. Các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

[472] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại hoàn tục. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[473] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại xuống sa di. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị sa di. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[474] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại bị điên. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị điên. Nhưng nếu vị ấy hết bị điên, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[475] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa bị loạn trí. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị loạn trí. Nhưng nếu vị ấy hết bị loạn trí, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[476] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa bị thọ khổ hành hạ (vedanaṭṭo). Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị thọ khổ hành hạ. Nhưng nếu vị ấy hết bị thọ khổ hành hạ, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[477] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại bị án treo về việc không nhìn nhận tội. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[478] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[479] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa lại bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Nên thực hành parivāsa phần còn lại.

[480] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại hoàn tục. Này các tỳ khưu, hành phạt parivāsa không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn, Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[481] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị xứng đáng (thực hành) trở lại từ đầu lại xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội. …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỳ khưu, sự (thực hành) trở lại từ đầu không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[482] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta lại hoàn tục. Này các tỳ khưu, hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến vị ấy.

 [483] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta lại xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội. …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỳ khưu, hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến vị ấy.

[484] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đang thực hành hành phạt mānatta lại hoàn tục. Này các tỳ khưu, việc thực hành hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt mānatta nào đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn. Nên thực hành phần còn lại.

[485] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đang thực hành hành phạt mānatta lại xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội. …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỳ khưu, việc thực hành hành phạt mānatta không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Phần hành phạt mānatta nào đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn. Nên thực hành phần còn lại.

[486] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội lại hoàn tục. Này các tỳ khưu, sự giải tội không có tác dụng đối với vị hoàn tục. Nhưng nếu vị ấy tu lên bậc trên lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn. Vị tỳ khưu ấy nên được giải tội.

[487] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội lại xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… bị án treo về việc không nhìn nhận tội. …(như trên)… bị án treo về việc không sửa chữa lỗi. …(như trên)… bị án treo về việc không từ bỏ tà kiến ác. Này các tỳ khưu, sự giải tội không có tác dụng đối với vị bị án treo. Nhưng nếu vị ấy được phục hồi lại, chính việc ban cho hành phạt parivāsa trước đây được áp dụng lại cho vị ấy. Hành phạt parivāsa nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt parivāsa nào đã được hoàn thành (là đã được) hoàn thành một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được ban cho (là đã được) ban cho một cách đúng đắn. Hành phạt mānatta nào đã được hoàn tất (là đã được) hoàn tất một cách đúng đắn. Vị tỳ khưu ấy nên được giải tội.

Bốn mươi trường hợp được đầy đủ.

[488] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định (parimāṇāyo), không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[489] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[490] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[491] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định (aparimāṇāyo), không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[492] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[493] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[494] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[495] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[496] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[497] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta …(như trên)…

[498] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu đang thực hành hành phạt mānatta …(như trên)…

[499] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[500] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[501] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[502] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[503] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[504] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[505] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[506] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[507] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

Ba mươi sáu trường hợp được đầy đủ.

[508] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa, không có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, hành phạt mānatta nên được ban cho vị tỳ khưu ấy.

[509] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa, không có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[510] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[511] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[512] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào vị ấy đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy cũng không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[513] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào vị ấy đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[514] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào vị ấy đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[515] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào vị ấy đã giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy đã không giấu giếm trước đây, về sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[516] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhận biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhận biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[517] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhận biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhận biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[518] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhận biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhận biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[519] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhận biết và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhận biết và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[520] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[521] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[522] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[523] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy nhớ và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[524] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[525] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[526] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[527] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

[528] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu sau khi phạm nhiều tội saṅghādisesa, không che giấu, rồi xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… (Phần dưới đây nên được giải thích tương tợ). ...(như trên)... bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. ...(như trên)... Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. ...(như trên)... Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. ...(như trên)... Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội vị ấy có nghi ngờ vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy bị thọ khổ hành hạ. Sau khi đã trở lại hết bị thọ khổ hành hạ, các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. ...(như trên)... Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Này các tỳ khưu, nên ban cho hành phạt parivāsa theo nhóm các tội đã được che giấu như thế trong thời gian trước đây và thời gian sau này đến vị tỳ khưu ấy, rồi nên ban cho hành phạt mānatta.

Dứt một trăm trường hợp mānatta.

[529] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, không che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu.

[530] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, không che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[531] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[532] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. Vị ấy đã tu lên bậc trên lại và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[533] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm, sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm, sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[534] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm, sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm, sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[535] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không có che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm, sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm, sau này vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[536] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Các tội của vị ấy có che giấu, và không được che giấu. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã giấu giếm, sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không giấu giếm, sau này vị ấy giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[537] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhận biết và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhận biết và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[538] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhận biết và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhận biết và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[539] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhận biết và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhận biết và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[540] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. Các tội nào vị ấy nhận biết, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhận biết, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhận biết và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhận biết và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhận biết và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[541] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[542] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[543] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[544] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. Các tội nào vị ấy nhớ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy không nhớ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã nhớ và đã giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã không nhớ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy nhớ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[545] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[546] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ,vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[547] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[548] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa. Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy đã hoàn tục rồi đã tu lên bậc trên lại. Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm các tội ấy. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[549] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu trong lúc thực hành parivāsa đang ở vào giai đoạn giữa chừng lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, không che giấu, rồi xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu (Phần dưới đây nên được giải thích tương tợ). ...(như trên)... Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. …(như trên)… Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. …(như trên)… Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội nào vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy bị thọ khổ hành hạ. Sau khi đã trở lại hết bị thọ khổ hành hạ, các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[550] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng hành phạt mānatta …(như trên)…

[551] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là vị đang thực hành hành phạt mānatta …(như trên)…

[552] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, có che giấu, rồi hoàn tục. ...(như trên)... (Vị xứng đáng hành phạt mānatta, vị thực hành hành phạt mānatta, vị xứng đáng giải tội nên được giải thích như đã giải thích ở phần của vị thực hành parivāsa).

[553] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội, đang ở vào giai đoạn giữa chừng, lại phạm nhiều tội saṅghādisesa, không che giấu, rồi xuống sa di. …(như trên)… bị điên. …(như trên)… bị loạn trí. …(như trên)… bị thọ khổ hành hạ. …(như trên)… Các tội của vị ấy có che giấu và không có che giấu. …(như trên)… Một số tội vị ấy nhận biết, một số tội vị ấy không nhận biết. …(như trên)… Một số tội vị ấy nhớ, một số tội vị ấy không nhớ. …(như trên)… Một số tội vị ấy không có nghi ngờ, một số tội vị ấy có nghi ngờ. Các tội nào vị ấy không có nghi ngờ, vị ấy giấu giếm các tội ấy; các tội vị ấy có nghi ngờ, vị ấy không giấu giếm các tội ấy. Vị ấy bị thọ khổ hành hạ. Sau khi đã trở lại hết bị thọ khổ hành hạ, các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và không giấu giếm. …(như trên)… Các tội nào trước đây vị ấy đã không có nghi ngờ và đã giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm; các tội nào trước đây vị ấy đã có nghi ngờ và đã không giấu giếm, các tội ấy sau này vị ấy không có nghi ngờ và giấu giếm. Vị tỳ khưu ấy nên được cho (thực hành) trở lại từ đầu và hành phạt parivāsa kết hợp với tội trước đây của các tội đã được che giấu như thế nên được ban cho vị ấy.

[554] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… chưa được xác định, không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… cùng một tội danh, không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… khác tội danh, không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… cùng nhóm phân loại (sabhāgā), không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… khác nhóm phân loại (visabhāgā), không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… riêng biệt (vavatthitā), không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)… có liên quan (sambhinnā)[2], không che giấu, rồi hoàn tục. …(như trên)…

[555] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[556] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có nghi ngờ là tội saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[557] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội lẫn lộn (missakadiṭṭhino) trong tội saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[558] Hai vị tỳ khưu phạm tội lẫn lộn. Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội lẫn lộn. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[559] Hai vị tỳ khưu phạm tội lẫn lộn. Hai vị có quan điểm là tội lẫn lộn trong tội lẫn lộn. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[560] Hai vị tỳ khưu phạm tội nhẹ (suddhakaṃ).[3] Hai vị có quan điểm là saṅghādisesa trong tội nhẹ. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác). Cả hai vị nên được xử trí theo Pháp.

[561] Hai vị tỳ khưu phạm tội nhẹ. Hai vị có quan điểm là tội nhẹ trong tội nhẹ. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác). Cả hai vị nên được xử trí theo Pháp.

[562] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội saṅghādisesa. Một vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ trình báo;” vị kia (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trình báo.” Vị ấy giấu giếm vào canh thứ nhất, giấu giếm vào canh thứ nhì, giấu giếm vào canh thứ ba, khi hừng đông đã ló dạng thì tội đã được giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[563] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội saṅghādisesa. Hai vị trong khi đi (bàn bạc rằng): “Chúng ta sẽ trình báo.” Trên đường đi, pháp giả dối sanh khởi ở một vị (nghĩ rằng): “Ta sẽ không trình báo.” Vị ấy giấu giếm vào canh thứ nhất, giấu giếm vào canh thứ nhì, giấu giếm vào canh thứ ba, khi hừng đông đã ló dạng thì tội đã được giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[564] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội saṅghādisesa. Hai vị bị điên. Về sau, khi hai vị hết bị điên, một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[565] Hai vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa. Trong khi giới bổn Pātimokkha được đọc tụng, hai vị phát biểu như vầy:

- Cho đến hôm nay chúng tôi mới biết được rằng: “Nghe nói pháp này cũng được truyền lại trong giới bổn (suttāgato), được chứa đựng trong giới bổn (suttapariyāpanno) và được đưa ra đọc tụng vào mỗi nửa tháng.”

Hai vị có quan điểm là tội saṅghādisesa trong tội saṅghādisesa. Một vị giấu giếm, một vị không giấu giếm. Vị nào giấu giếm, nên khuyên vị ấy sám hối tội dukkaṭa (tác ác) và nên ban cho hành phạt parivāsa theo như đã được che giấu đến vị ấy. Hành phạt mānatta nên được ban cho đến cả hai vị.

[566] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, rồi giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[567] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[568] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[569] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[570] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[571] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[572] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[573] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

[574] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta không đúng Pháp, và giải tội không đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy không được trong sạch với các tội ấy.

Dứt chín trường hợp không được trong sạch từ căn bản.

[575] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. ...(như trên)... được xác định, có che giấu. ...(như trên)... được xác định, có che giấu và không có che giấu. ...(như trên)... Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

[576] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, không có che giấu. ...(như trên)... chưa được xác định, có che giấu. ...(như trên)... chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

[577] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. ...(như trên)... được xác định và chưa được xác định, có che giấu. ...(như trên)... được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

Dứt chín trường hợp được trong sạch từ căn bản.

[578] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)…, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa,” dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: “Ta đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta đây. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng đã cho ta đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: ‘Ta đang thực hành parivāsa,’ dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta đây nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, hay là ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (nên cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (nên cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (nên cầu xin) sự giải tội đúng Pháp?” Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng cho vị ấy được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

[579] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu. …(như trên)… được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa,” dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: “Ta đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta đây. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng đã cho ta đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: ‘Ta đang thực hành parivāsa,’ dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta đây nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, hay là ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (nên cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (nên cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (nên cầu xin) sự giải tội đúng Pháp?” Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) sự hành parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng ban cho vị ấy được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

[580] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, cùng một tội danh cũng có, khác tội danh cũng có, cùng nhóm phân loại cũng có, khác nhóm phân loại cũng có, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa chưa được xác định, không có che giấu. …(như trên)… chưa được xác định, có che giấu. …(như trên)… chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa,”...(như trên)... ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

[581] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Vị ấy, trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa” …(như trên)… ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

[582] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa,” dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: “Ta đã phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta đây. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Ta đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng. Hội chúng đã cho ta đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: ‘Ta đang thực hành parivāsa,’ dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta đây nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, hay là ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (nên cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (nên cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (nên cầu xin) sự giải tội đúng Pháp?” Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) sự hành parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng ban cho vị ấy được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

[583] Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu phạm nhiều tội saṅghādisesa: được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, ...(như trên)... riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Vị ấy cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến vị ấy. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng cho vị ấy, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: “Ta đang thực hành parivāsa,” dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy lại phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, vị ấy nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác. Vị ấy (suy nghĩ) như sau: “Ta đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định cũng có, chưa được xác định cũng có, …(như trên)…, riêng biệt cũng có, có liên quan cũng có. Ta đây đã cầu xin hội chúng hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy. Hội chúng đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp của các tội ấy đến ta đây. Trong lúc thực hành parivāsa, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội. Hội chúng đã cho ta đây, dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội, và đã ban cho hành phạt parivāsa kết hợp không đúng Pháp bằng hành sự không đúng Pháp, có thể sửa đổi, không đáng được duy trì. Trong khi biết rằng: ‘Ta đang thực hành parivāsa,’ dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, ta đây đã phạm nhiều tội saṅghādisesa được xác định và chưa được xác định, có che giấu và không có che giấu. Tồn tại trên nền tảng đó, ta nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và nhớ lại các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, hay là ta nên cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (nên cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (nên cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (nên cầu xin) sự giải tội đúng Pháp?” Dầu đang ở vào giai đoạn giữa chừng, vị ấy cầu xin hội chúng sự (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, (cầu xin) hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, (cầu xin) hành phạt mānatta đúng Pháp, và (cầu xin) sự giải tội đúng Pháp. Hội chúng ban cho vị ấy được (thực hành) trở lại từ đầu của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội trước đây và của các tội đang ở vào giai đoạn giữa chừng của các tội khác, và ban cho hành phạt parivāsa kết hợp đúng Pháp bằng hành sự đúng Pháp, không thể sửa đổi, đáng được duy trì, rồi ban cho hành phạt mānatta đúng Pháp, và giải tội đúng Pháp. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu ấy được trong sạch với các tội ấy.

Dứt Chương Tích Lũy Tội là chương thứ ba.

*******

Tóm lược chương này:

[584]

Không che giấu một ngày,
hai ngày, rồi ba ngày,
bốn ngày, và năm ngày,
nửa tháng, hoặc mười ngày,
bậc Đại Sĩ thuyết tội,
tội nhẹ, dầu hoàn tục
các tội vẫn xác định.
Có hai vị tỳ khưu
trường hợp này suy nghĩ
cả hai đều nghi ngờ,
nghĩ rằng tội lẫn lộn,
lẫn lộn và không lẫn,
suy nghĩ rằng tội nặng,
cũng thế nghĩ tội nhẹ,
rồi một vị giấu giếm,
vị kia không giấu giếm,
và rồi pháp giả dối,
bị điên, và sám hối,
mười tám lại từ đầu,
và rồi được trong sạch.
Các lời thuyết giảng này
để tồn tại Chánh Pháp
chính là sự ban cho
của các giáo thọ sư
của nhóm Vibhajja
thường trú ngôi Đại Tự
(Mahāvihāra)
làm rạng ngời hòn đảo
tên Tambapaṇṇi.


[1] Bản dịch Anh ngữ của Rhydavis và Oldenberg chú thích rằng: Buddhaghosa giải thích số lượng đêm thực hành suddhantaparivāsa nên tính từ lúc tu lên bậc trên đến ngày hôm ấy. Cách thức đang được áp dụng là xác định thời gian được trong sạch sau ngày tu lên bậc trên rồi thực hành suddhantaparivāsa cho thời gian còn lại. Lối giải thích này phù hợp với ý nghĩa của từ suddhanta = suddha + anta = thời điểm cuối khi được trong sạch

[2] Các tội saṅghādisesa 1, 5, 12, 13 là vavatthitā. Các nhóm tội (2, 3, 4), (6, 7, 8), (9, 10, 11) là sambhinnā. Sabhāgāvisabhāgā cũng tương tự tùy theo phương pháp phân loại.

[3] Ngài Buddhaghosa giải thích rằng sau tội saṅghādisesa là nhóm các tội nhẹ (lahukāpatti).

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục | 01a | 01b | 02 | 03a | 03b | 04 | 05 | 06 | 07 | 08 | 09 | 10 | 11 | 12

 

Chân thành cám ơn Tỳ khưu Indacanda Nguyệt-Thiên đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 06-2005)

[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 06-06-2005