Thư mục BuddhaSasana

Lưu ý: Đọc với phông chữ CN-Times nâng cấp hay Arial Unicode MS


 

Trung A H m Kinh
Mục Lục Tổng Quát
01. PHẨM BẢY PHÁP
02. PHẨM NGHIỆP TƯƠNG ƯNG
03. PHẨM XÁ-LÊ TỬ TƯƠNG ƯNG
04. PHẨM VỊ TẰNG HỮU PHÁP
05. PHẨM TẬP TƯƠNG ƯNG
06. PHẨM VƯƠNG TƯƠNG ƯNG
07. PHẨM TRƯỜNG THỌ VƯƠNG
08. PHẨM UẾ
09. PHẨM NHÂN
10. PHẨM LÂM
11. PHẨM ĐẠI (Phần đầu)
12. PHẨM PHẠM CHÍ (Phần đầu)
12. PHẨM PHẠM CHÍ (Phần sau) 
13. PHẨM CĂN BỔN PHÂN BIỆT
14. PHẨM TÂM
15. PHẨM SONG
16. PHẨM ĐẠI (Phần sau)
192. Kinh Ca-Lâu-Ô-Ðà-Di
193. Kinh Mâu-Lê-Phá-Quần-Na
194. Kinh Bạt-Ðá-Hòa-Lợi
195. Kinh A-Thấp-Bối
196. Kinh Châu-Na
197. Kinh Ưu-Bà-Ly
198. Kinh Điều Ngự Ðịa
199. Kinh Si Tuệ Ðịa
200. Kinh A-LÊ-TRA
201. Kinh Trà-Ðế
17. PHẨM BÔ-ĐA-LỢI
18. PHẨM LỆ

 

Source: LotusMedia lotusmedia.net
 
中 阿 含 經
KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm,
Việt Dịch & Hiệu Chú: Thích Tuệ Sỹ

16. PHẨM ÐẠI
(Phần Sau)

No 196. KINH CHÂU NA [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật du hóa tại nước Bạt Kỳ, thôn Xá Di [2] .

Bấy giờ sa di Châu Na [3] , kiết hạ ở Ba Hòa [4] . Tại xứ Ba Hòa có một Ni Kiền tên là Thân Tử [5] . Nơi đây, vị ấy qua đời. Sau khi qua đời không bao lâu, các đệ tử Ni Kiền thân tử chia rẻ và phá hoại nhau, nói những lời chia rẽ và phá hoại nhau. Họ tranh đấu, kiện tụng cột trói nhau, thù nghịch nhau, tranh luận với nhau rằng: "Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết? Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Ðiều đáng nói trước, ngươi nói sau, điều đáng nói sau ngươi lại nói trước. Ta nói là tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại”. Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ mong mình nói hơn, mà không có người nào để khiển trách. Nếu có những người bạch y tại gia, đệ tử của Ni Kiền Thân Tử, thấy vậy, họ đều chán nãn và lãng xa các đệ tử của Ni Kiền Thân Tử này. Vì sao vậy? Bởi vì những điều họ nói ấy đều là ác pháp luật, không phải là pháp xuất yếu, không dẫn đến chánh giác, cũng không phải là lời dạy của đấng Thiện thệ. Nó là sự băng hoại, không thể đứng vững, không nơi nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng Chánh Giác.

Lúc bấy giờ Sa di Châu Na đã qua ba tháng an cư mùa mưa, sửa vá lại y áo, rồi mang y cất bát đến thôn Xá Di, rồi qua phía bắc thôn Xá Di, đến rừng Thi Nhiếp Hòa. Sa di Châu Na đến chỗ Ngài A Nan. Sau khi đến nơi, đảnh lễ sát chân Ngài A Nan, rồi ngồi qua một bên.

Tôn giả A Nan hỏi: [6]

Này Hiền giả Châu Na! Từ đâu đến đây và an cư mùa mưa ở đâu?

Sa di Châu Na đáp:

Bạch Tôn giả A Nan! con từ Ba Hòa đến, và an cư mùa mưa ở Ba Hòa. Bạch Tôn giả! Tại Ba Hòa có một ni Kiền tên là Thân Tử. Nơi đây, Thân Tử mới qua đời chưa bao lâu thì đệ tử của Ni Kiền Thân Tử đã chia rẽ và phá hoại, nói những lời chia rẽ và phá hoại nhau, thù nghịch nhau, họ đấu tranh kiện tụng, cột trói nhau, tranh luận với nhau rằng: "Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết. Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Ðiều đáng nói trước, ngươi nói sau. Ðiều đáng nói sau, ngươi nói trước. Ta nói là tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục ngươi, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại.” Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ cho mình nói hơn mà không có người nào để khiển trách. Nếu có những người bạch y tại gia, đệ tử của Ni Kiền Thân Tử, thấy vậy, họ đều chán nản và lãng xa, các đệ tử của Ni Kiền Thân Tử này. Vì sao vậy? Bởi vì những điều họ nói đây là những điều ác pháp luật không phải là pháp xuất yếu, không dẫn đến chánh giác, cũng không phải là lời dạy của đấng Thiện thệ. Nó là sự băng hoại không thể đứng vững không nơi để nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng Chánh Giác.

Tôn giả A Nan nghe xong, nói rằng: "Này Hiền giả Châu Na, nhân dịp này, chúng ta có thể đến yết kiến đức Phật, đem sự việc này trình bày lên Ngài. Này Hiền giả Châu Na, bây giờ chúng ta cùng đi đến đức Phật, đem tất cả sự việc này trình lên cho đức Thế Tôn. Thảng hoặc, chúng ta có thể nhân đó mà được nghe pháp khác nữa từ đức Thế Tôn.

Rồi Tôn giả A Nan và sa di Châu Na cùng nhau đến chỗ đức Phật, chắp tay cúi đầu đảnh lễ sát chân Ngài, Tôn giả A nan đứng qua một bên và Châu Na ngồi xuống một bên. Tôn giả A nan bạch với đức Thế Tôn:

Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay sa di Châu Na đi đến chỗ con, cúi đầu đảnh lễ sát chân rồi ngồi qua một bên. Con hỏi: này Hiền giả Châu Na, từ nơi nào đến đây và an cư mùa mưa ở đâu? Sa di Châu Na liền trả lời với con rằng: "Thưa Tôn giả A Nan, con từ Ba Hòa đến, an cư mùa mưa ở Ba Hòa. Bạch Tôn giả A nan! Tại Ba Hòa có một Ni Kiền tên là Thân Tử. Nơi đây, Thân Tử mới qua đời không bao lâu thì các đệ tử của Ni Kiền Thân Tử đã chia rẽ và phá hoại nhau; họ đấu tranh, kiện tụng, cột trói lẫn nhau, thù nghịch nhau, tranh luận với nhau rằng: "Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Ðiều đáng nói trước, ngươi nói sau, điều đáng nói sau ngươi nói trước. Ta nói là tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ ta sẽ cột trói ngươi.” Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ mong mình nói hơn mà không có người nào để khiển trách.

Nếu có những người bạch y tại gia, đêï tử của Ni Kiền Thân Tử, thấy vậy, họ đều chán nản và lãng xa các đệ tử của Ni Kiền Thân Tử này. Vì sao vậy? Bởi vì những điều họ nói ấy đều là ác pháp luật, không phải là pháp xuất yếu, không dẫn đến chánh giác, không phải là lời dạy của đấng Thiện thệ. Nó là sự băng hoại không thể đứng vững, không nơi để nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc thầy của họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng Chánh Giác.

Bạch Thế Tôn! Con nghe rồi kinh sợ hãi hùng, toàn thân lông tóc dựng đứng. Mong sau khi Thế Tôn khuất bóng, đừng có một vị Tỳ kheo nào ở trong chúng mà gây ra sự đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy, không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. Nó không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc, cho đến loài trời và loài người cũng phải chịu đau khổ và tại hoạn. Bạch Thế Tôn! khi con thấy một vị Tỳ kheo ngồi trước đức Thế Tôn chí tâm kính trọng đức Thế Tôn, khéo bảo vệ đấng Thiện thệ. Bạch Thế Tôn! Con thấy như vậy rồi liền nghĩ: "Nếu sau này khi Thế Tôn khuất bóng mà vị Tỳ kheo ấy trong chúng gây sự đấu tranh, thì đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà chỉ gây đau khổ cho mọi người, nó không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc cho đến loài trời, loài người cũng phải chịu đau khổ và tai hoạn.

Bấy giờ đức Thế Tôn hỏi: "Thầy thấy những điều nào khiến chúng tăng có sự đấu tranh, sự đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. Không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc cho đến loài trời, loài người cũng phải chịu đau khổ và tai hoạn?

Tôn giả A Nan thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! Ðó là do tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng quán [7] mà phát sanh sự đấu tranh ở trong chúng. Bạch Thế Tôn, sự đấu tranh ấy, không giúp gì cho ai mà chỉ gây đau khổ cho mọi người. Nó không phải là sự thiện lợi, không phải là sự hữu ích. Không phải là sự an ổn, khoái lạc cho đến loài trời, loài người cũng phải chịu tai hoạn, đau khổ.

Ðức Thế Tôn nói:

Này A nan! Nếu đấu tranh do bởi giới tăng thượng, tâm tăng thượng, quán tăng thượng thì sự đấu tranh ấy quá nhỏ nhặt. Này A nan! Nếu có sự đấu tranh trong chúng tăng do đạo và đạo tích [8] thì sự đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. Nó không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn khoái lạc. Này A Nan! Khi thầy thấy ở trong đấy có hai vị Tỳ kheo vì mỗi người có mỗi ý kiến khác nhau mà gây ra cuộc đấu tranh mà nói rằng: "Ðiều này là pháp, điều này là phi pháp. Ðiều này là luật, điều này không phải luật. Ðiều này là phạm, điều này không phải là phạm. Ðiều này là nhẹ, điều này là nặng. Có thể sám hối, không thể sám hối. Có thể thủ hộ, không thể thủ hộ. Hữu dư, vô dư, thối, bất thối. Này A Nan! Ý thầy nghĩ sao? Ðối với pháp tu của Ta được tự giác, tự thân chứng ngộ, gồm bốn niệm xứ, bốn như ý túc, năm căn, năm lục, bảy giác chi, tám chi thánh đạo? Này A Nan! Nếu Ni Kiền Thân Tử, biết tất cả, thấy tất cả thì vị ấy đã vì đệ tử mà giảng giải sáu gốc rễ của đấu tranh [10] đều đáng được nghe, nhưng lại thôi.

Bấy giờ Tôn giả A Nan chắp tay hướng về đức Phật bạch rằng:

Bạch Thế Tôn! Nay thật là đúng lúc. Bạch Thiện thệ! Nay thật hợp thời, nếu Thế Tôn dạy về sáu gốc rễ của sự đấu tranh cho các Tỳ kheo. Các Tỳ kheo sau khi nghe Thế Tôn dạy sẽ khéo léo thọ trì.

Ðức Thế Tôn bảo:

Này A Nan, hãy nghe kỹ; hãy suy nghĩ kỹ. Ta sẽ phân biệt đầy đủ. Tôn giả A Nan bạch rằng:

Kính vâng, xin vâng lời lắng nghe.

Ðức Phật dạy:

Này A Nan! Ở đây có một người bị kiết sử phẫn và hận quấn chặt[11] . Này A Nan! Người ấy bị kiết sử phẫn và hận quấn chặt cho nên không cung kính tôn sư, không thấy được pháp, không giữ gìn giới luật. Người ấy đã không cung kính tôn sư, không thấy được pháp, không giữ gìn giới luật, ở trong chúng nó gây ra sự đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người, không phải sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn khoái lạc, cho đến trời người phải chịu đau khô và tai hoạn. Này A Nan! Nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy ở bên trong hay bên ngoài mà không dứt hết được. Vậy, để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm, chánh trí, kiên nhẫn, đừng để thối thất. Này A Nan! Ví như có người bị lửa đốt cháy đầu, đốt cháy áo, thì phải cấp tốc tìm phương tiện để chửa cháy đầu, chửa cháy áo . Cũng vậy, nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy, ở bên trong hay bên ngoài mà không dứt hết được. Vậy để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm chánh trí, kiên nhẫn đừng để thối thất. Này A nan! Sự đấu tranh cũng như vậy, nếu thầy thấy được suốt trong và ngoài, thầy phải thủ hộ cái tâm đó hơn nữa, luôn luôn không buông lung, vì để ngăn chận sự đấu tranh ấy vậy. [12] Cũng giống như vậy với các kiết sử phú tàng [13] , bỏn xẻn, tật đố, dua nịnh, dối trá, vô tàm, vô quý, ác dục, tà kiến, và ác tánh không biết phục thiện. [14]

Này A Nan! Nếu một người nào có ác dục, tà kiến, ác tánh, không biết phục thiện thì người ấy không tâm cung kính tôn sư, không thấy được pháp, không giữ gìn giới luật, rồi ở trong chúng nó gây ra sự đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. Không phải là thiện lợi, không phải là hữu ích, không phải là an ổn khoái lạc, cho đến trời người cũng phải chịu đau khổ và tai hoạn. Này A Nan! Nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy ở bên trong hay ở bên ngoài, mà không biết suốt hết được. Vậy để ngăn chận sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện học tập tinh cần, chánh niệm chánh trí, kiên nhẫn đừng để thối thất. Này A nan! Ví như có người bị lửa đốt cháy đầu, đốt cháy áo thì phải cấp tốc tìm cầu phương tiện để chửa cháy đầu, cháy áo. Cũng vậy, nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy, ở bên trong hay bên ngoài mà không biết suốt hết được, vậy để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm chánh trí, kiên nhẫn đừng để thối thất. Này A Nan! Nếu sự đấu tranh như vậy mà thầy thấy suốt hết trong và ngoài, thầy phải hết sức thủ hộ cái tâm ấy hơn nữa, luôn luôn không buông lung, vì để ngăn chận sự đấu tranh ấy vậy. Thầy phải đoạn trừ gốc rễ của sự đấu tranh ấy.

Lại nữa, này A nan! Có bảy phương pháp diệt trừ đấu tranh [15] . Bảy phương pháp đó là: Một là ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật, hai là ưng dữ ức chỉ tránh luật. Ba là ưng dữ bất si dữ tránh luật, bốn là ưng dữ phát lồ chỉ tránh luật, năm là ưng dữ quân chỉ tranh luật, sáu là ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật, bảy là ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tranh luật.

Này A Nan! Thế nào là ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật? Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh này? tức là luật chấm dứt đấu tranh bằng sự hiện diện. Này A Nan! Hoặc một người đối với một người, mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Một người đối với hai người, một người đối với nhiều người, một người đối với chúng tăng mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Hai người đối với hai người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Hai người đối với nhiều người, hai người đối với chúng tăng, hai người đối với một người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Nhiều người đối với nhiều người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Nhiều người đối với chúng tăng, nhiều người đối với một người, nhiều người đối với hai người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ giáo với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Chúng tăng đối với một người, chúng tăng đối với hai người, chúng tăng đối với nhiều người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. [17] Này A Nan! Như vậy gọi là Ưng dữ hiện tiền chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự hiện diện.

Này A Nan! Thế nào là Ưng dữ ức chỉ tránh luật? làm thế nào để đọan trừ sự tranh đấu này? Tức là do chấm dứt đấu tranh bằng nhớ lại. Này A Nan! Nếu có một người nào phạm giới mà không nhớ lại giới mình đã phạm. Các thầy Tỳ kheo thấy vậy, nói với vị ấy rằng:

Thầy đã phạm giới mà không nhớ lại giới mình đã phạm. Thầy hãy đến trong chúng mà xin luật ức niệm. Tăng chúng sẽ ban cho hiền giả luật ức niệm. Này A nan! nếu ở một nơi nào có tăng chúng hòa hiệp mà nhóm họp vị Tỳ kheo kia phải đến đó, trịch vai áo, bỏ guốc, vào trong chúng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân các bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, chắp tay quỳ mọp mà bạch với các trưởng lão thượng tôn rằng: Bạch chư tôn, mong các ngài nghe cho, con đã từng phạm giới mà không nhớ, hay con từ nơi chúng tăng cầu xin luật ức niệm. Mong tăng chúng hòa hợp ban cho con luật ức niệm.

Này A nan! Tăng chúng hòa hợp lại để ban cho vị Tỳ kheo này luật ức niệm, bằng pháp và luật như tôn sa đã chỉ dạy, với sự hiện diện khiến cho được hoan hỷ. [19] . Này A Nan! Như vậy gọi là ưng dữ ức chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng cách nhớ lại.

Này A Nan! Thế nào là ưng dữ bất si chỉ tránh luật? [20] Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức là luật chấm dứt đấu tranh bằng sự không si cuồng. Này A nan! nếu có một người do phát cuồng mà tâm điên đảo, nên có quá nhiều bất tịnh hạnh, không phải là pháp của sa môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà nói vi phạm. Người ấy sau khi trở lại tâm trạng như trước, gặp các Tỳ kheo và được bảo rằng: "Thầy đã phát cuồng và tâm điên đảo, do phát cuồng và tâm điên đảo nên có quá nhiều bất tịnh hạnh, không phải pháp của sa môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà nói vi phạm. Này Hiền giả! Nếu Hiền giả sau khi trở lại tâm trạng như trước, hiền giả có thể đến nơi chúng tăng mà cầu xin luật bất si. Chúng tăng sẽ ban cho hiền giả luật bất si. Này A Nan , nếu một nơi nào đó tăng chúng đang hòa hợp và nhóm hội, vị Tỳ kheo ấy nên đến đó, trịch vai áo, bỏ guốc, vào trong tăng chúng, cúi đầu lễ sát dưới chân các bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo chắp tay quì mọp, mà bạch với các trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo rằng: "bạch chư tôn, xin nghe cho, con đã từng phát cuồng và tâm điên đảo. Do con đã phát cuồng và tâm điên đảo nên có quá nhiều bất tịnh hạnh không phải là pháp của sa môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà còn nói vi phạm. Về sau con trở lại tâm trạng như trước. Nay con từ nơi chúng tăng xin cầu luật bất si. Mong chúng tăng hòa hợp ban cho con luật bất si. Này A Nan, chúng tăng cùng hòa hợp và nhóm hội, ban cho vị Tỳ kheo ấy luật bất si, bằng pháp và luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện, khiến được hoan hỷ. Này A Nan, đó gọi là ưng dữ bất si chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự không si cuồng.

Này A Nan! Thế nào là ưng dữ tự phát lồ chỉ tranh luật [21]? Sự đấu tranh làm thế nào để chấm dứt? Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự tự thú nhận. Này A Nan, nếu có một người phạm giới, hoặc nói ra hay không nói ra, hoặc có nhớ hay không nhớ. Này A Nan , nếu tại nơi nào đó có chúng tăng đang hòa hợp và nhóm hội. Vị Tỳ kheo kia nên đến đó, trịch vai áo, bỏ giốc, vào trong chúng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân các bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, chắp tay quì mọp mà bạch rằng: "Bạch chư tôn, xin nghe cho, con phạm giới đó, con nay hướng về các bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, chí tâm phát lồ, tự mình nói và trưng bày rõ, không dám che dấu, từ nay về sau sẽ khéo léo hộ trì không tái phạm. Này A nan , chúng Tỳ kheo nên hỏi vị ấy rằng: "Này Hiền giả, có tự thấy điều mình phạm không?" Vị Tỳ kheo ấy đáp: "Con thật sự có thấy điều con phạm”. Ðại chúng cũng nên nói với vị ấy rằng: "Hiền giả nên cẩn thận giữ gìn đừng tái phạm”. [22] Này A Nan! Ðó là ưng dữ tự phát lồ chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự từ thú nhận.

Này A Nan! Thế nào là Ưng dữ quân chỉ tranh luật? [23] Làm sao để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng chín đương nhơn. Này A Nan! Nếu có người không biết xấu hổ, không hối hận những tội bị thấy, bị nghe và bị người khác nghi ngờ là ác dục. người ấy đã phạm giới rồi nói là mình biết ở một nơi, mình thấy ở một nơi. Sau khi nói mình biết ở một nơi này, lại nói mình thấy ở một nơi. Sau khi nói mình thấy ở một nơi, lại nói mình biết ở một nơi. Ở trong tăng chúng mà nói là mình biết ở một nơi, ở trong tăng chúng mà nói là mình thấy ở một nơi. Nói mình biết ở một nơi, rồi lại nói mình thấy ở một nơi. Nói mình thấy ở một nơi rồi lại nói mình biết ở một nơi. Này A Nan! Vì vị Tỳ kheo ấy, tăng chúng hòa hiệp và nhóm họp mà ban luật Dương nhơn [24] mà nói rằng: "Nhà ngươi không đạo lý, nhà ngươi ác bất thiện. Vì sao? Vì ngươi đã phạm giới rồi lại nói mình biết ở một nơi, mình thấy ở một nơi. Nói mình biết ở một nơi, rồi lại nói mình thấy ở một nơi. Nói mình thấy ở một nơi, rồi lại nói mình biết ở một nơi. Ở trong chúng mà nói mình biết ở một nơi. Ở trong chúng mà nói mình thấy ở một nơi. Nói mình thấy ở một nơi rồi lại nói mình biết ở một nơi. Này A Nan! Như vậy gọi là Ưng dữ quân chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ bằng sự như vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng chính dương nhơn.

Này A Nan! Thế nào là ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật [25]? Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? tức là do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự diển tiến. Này A Nan! Ở đây, giữa hai vị Tỳ kheo vì một số ý kiến mà gây ra sự đấu tranh như vầy: "Ðây là pháp, đây phi pháp. Ðây là luật, đây không phải là luật; đây là phạm, đây không phải là phạm; đây là nhẹ, đây là nặng; điều này nên nói, điều này không nên nói; điều này đáng thủ hộ, điều này không đáng thủ hộ; điều này còn dư, điều này không còn dư; điều này có thể sám hối, điều này không thể sám hối. Này A Nan! Vị Tỳ kheo kia ngay tại chỗ đang cải vã ấy mà chấm dứt đấu tranh. Nếu ngay tại chỗ cải vã mà chấm dứt đấu tranh, thì sự đấu tranh này được tuyên bố là chấm dứt. Nếu ngay tại chỗ cải vã mà không chấm dứt, có thể đưa sự đấu tranh ra bạch với chúng tăng. Nếu ở trong chúng tăng mà chấm dứt, thì sự đấu tranh ấy được tuyên bố là chấm dứt. Nếu trong chúng tăng không chấm dứt, thì này A Nan! Ở trong đó, gần đó có Tỳ kheo giỏi kinh, giỏi luật, giỏi luận [26] , các Tỳ kheo kia cùng đến vị này thưa việc đấu tranh ấy. Nếu ngay trên đường đi mà chấm dứt, thì sự đấu tranh được tuyên bố là chấm dứt. Nếu ngay trên đường đi mà không chấm dứt, lại hãy đem sự đấu tranh ấy nói trước chúng tăng. Nếu ở trước chúng tăng mà chấm dứt, sự đấu tranh ấy được tuyên bố là chấm dứt. Nếu ở tại chúng tắng mà không chấm dứt thì này A Nan, nếu nhiều trò bạn giỏi kinh, giỏi luật, giỏi luận, thì các vị này phải chấm dứt sự đấu tranh ấy bằng pháp và luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Này A Nan, như vậy gọi là ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy, tức là do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự triển chuyển.

Này A Nan! Thế nào gọi là Ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật[27]? Làm sao để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? tức là luật chấm dứt đấu tranh như quăng bỏ dẻ rách. Này A Nan! Nếu các vị Tỳ kheo ở chung một chổ tranh chấp, kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán ghét nhau. Này A Nan! Do đó các Tỳ kheo kia chia ra hai nhóm. Sau khi chia ra hai nhóm rồi, trong một nhóm có bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, hay dưới trưởng lão một bậc; hoặc có người làm tông chủ hay nhỏ hơn tông chủ một bậc. Này A Nan! Vị Tỳ kheo này nói với các vị Tỳ kheo kia rằng: "Này chư hiền, xin nghe cho, chúng ta không có đạo lý, chúng ta là người ác bất thiện. Vì sao vậy? Vì chúng ta đối với pháp và luật được khéo giảng dạy mà chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, để học đạo, nhưng chúng ta tranh chấp kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán ghét nhau, cải vã nhau. Này chư hiền do sự tranh chấp này mà chúng ta đã phạm giới, ngoại trừ tội Thâu lan giá [28] và ngoại trừ tội tương ưng với hàng tại gia. Tôi vì chính mình và cũng vì chư hiền nữa, nên hướng đến chư hiền phát lồ, tự nói mà trình bày rõ ràng, không dám che dấu, lại cẩn thận giữ gìn sau không tái phạm nữa.

Này A Nan! nếu ở trong nhóm này mà không có vị Tỳ kheo nào ứng theo, thì này A Nan! Tỳ kheo ấy nên đi đến nhóm thứ hai. Ðến nơi rồi, cúi đầu đảnh lễ các bậc thượng tôn trưởng lão Tỳ kheo chắp tay quì mọp mà thưa rằng: "Thưa chư tôn, xin nghe cho, chúng ta không có đạo lý, chúng ta là người ác bất thiện. Vì sao vậy? Vì chúng ta đối với pháp và luật được khéo giảng dạy mà chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình để học đạo, nhưng chúng ta tranh chấp, kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán ghét nhau, cải vã nhau. Này chư hiền, do sự tranh đấu này mà chúng ta đã phạm giới, ngoại trừ tội Thâu lan giá, và ngoại trừ tội tương đường với hàng tại gia. Tôi vì chính mình và cũng vì chính chư hiền nữa, nên hướng đến chư hiền chí tâm phát lồ, tự nói mà trình bày rõ ràng, không dám che giấu, lại cẩn thận giữ gìn sau không tái phạm nữa.

Này A Nan! các Tỳ kheo kia nên nói với vị Tỳ kheo này như vầy: "Này hiền giả! Thầy tự thấy mình phạm giới chăng?

Vị Tỳ kheo này đáp:

Quả thật tôi tự thấy mình đã phạm giới.

Tỳ kheo kia nên nói:

Vậy hãy cẩn thận giữ gìn, đừng để tái phạm."

Nhóm thứ hai cũng làm như vậy. Này A Nan, như vậy gọi là Ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật. Này A Nan! Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh như quăng bỏ dẻ rách.

Này A Nan! Nay ta nói cho thầy sáu pháp ủy lao [29] , hãy lắng nghe kỹ, hãy khéo suy nghĩ kỹ. Tôn giả A Nan bạch rằng: Kính vâng, con xin vâng lời lắng nghe. Ðức Phật dạy:

Thế nào là sáu: Thần nghiệp từ hòa hướng đến các vị đồng phạm hạnh [30] , pháp ấy gọi là pháp ủy lao. Ðó là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là sa môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết Bàn.

Khẩu nghiệp nói năng từ hòa, ý nghiệp từ hòa, có lợi lộc nào đúng pháp mà được, cho đến miếng cơm ở chính trong bình bát của mình, với phần lợi như vậy, mang chia xẻ cho các vị đồng phạm hạnh [32] , pháp đó gọi là pháp ủy lao, là pháp khả ái, pháp khả lạc, khiến cho ái niệm khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là sa môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết Bàn.

Nếu có giới nào không bị sứt mẽ, không bị hư thủng, không bị dơ, không bị đen, vững vàng như mặt đất [33] được thánh khen ngợi, đầy đủ cẩn thận, thọ trì. Với giới phần như vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh [34] , pháp đó là pháp ủy lao, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là sa môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết Bàn.

Nếu có kiến giải của thánh có sự xuất yếu, có sự thấy rõ, có sự thấu triệt, đưa đến sự chân chánh diệt khổ, với kiến phần như vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh, [35] , pháp đó là pháp ủy lao là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là sa môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết Bàn.

Này A Nan! Ta vừa nói sáu pháp ủy lạo, vì vậy mà ta giảng giải. Này A Nan! Nếu các thầy đối với sáu gốc rễ của đấu tranh mà đoạn tuyệt hoàn toàn, và với bảy pháp chấm dứt đấu tranh, khi trong tăng chúng khởi lên đấu tranh, thì chấm dứt bằng luật chấm dứt đấu tranh như quăng bỏ dẻ rách, rồi lại thực hành sáu pháp ủy lạo ấy, thì này A Nan! Như vậy sau khi Ta khuất bóng, các con sống cộng đồng hòa hợp hoan hỷ không tranh chấp, cùng đồng nhất trong một tâm, cùng đồng nhất trong một giáo pháp, hòa hợp như nước với sữa, khoái lạc du hành như lúc Ta còn tại thế.

Ðức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A Nan và chư Tỳ kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

-ooOoo-

Chú thích:

[1] Tương đương Pali: M.103. Sàmagàma sutta.

[2] Bạt Kỳ, Xá di thôn: Địa danh này khó đồng nhất với Pali: Sakkesu [...] Sàmagame, là một ngôi làng của giòng họ Sakya.

[3] Sa di Châu Na: Cunda samuddesa. Được đồng với Maha Cunnda em ruột ngài Saributta và đắc quả A na hàm trong lúc làm sa di. [xem PP.11.877-8] .

[4] Ba Hòa: Pàvà , một thị trấn của bộ tộc Malla. Đoạn đường cuối cùng của Phật, đi từ Pàvà đến Kusinàrà và ngài dừng chân để nghỉ 25 lần trên đoạn đường ấy.

[5] Ni Kiền Thân Tử: Nigantha-Nàta-punta. Một trong lục sư ngoại đạo.

[6] Ngài A Nan là bổn sư của Châu Na.

[7] Bản Pali: do ajihàjìva và do adhipatimokkha:Tăng thượng hoặc mạn và tăng thượng giới bổn. [Bản Việt: III.tr.244-245] , cả hai đều chỉ liên hệ đến giới luật. Bản Hán nói do cả giới định tuệ.

[8] Đạo và đạo tích: Pali: Magga và Pàtipàda. Con đường dẫn đến chứng ngộ và sự tụ tập con đường ấy.

[9] Tát vân nhã: phiên âm trong Pali: Sabbannu.

[10] Lục tranh bốn:

[11] Sân não kết triền: Phẩn hận và thù nghịch.

[12] Trong bản hán có một đoạn lặp lại, từ chỗ: "Ví như có người bị lửa cháy đầu”, cho đến đây.

[13] Bất ngũ kết:

[14] Ac tánh bất khả chế: thuật ngữ thường nói là: "Ác tánh bất thọ nhơn ngữ ! Tánh ương ngạnh không chịu nghe lời. Đoạn này tóm tắt, liệt kê các cập kiết sử làm nguyên nhân cho đấu tranh, có thể xếp loại theo thuật ngữ thông dụng: Phẩn-hận, phú, não, tật, xan, cuồng, siểm, vô tàn vô quý, ác dục, tà kiến, xem thêm đối chiếu kinh 98 trên. Xem giải thích Tập Dị 15 [DTK.1536, tr.431a-b]

[15] Thất chỉ tránh: Thuật ngữ luật tạng thường nói là: Thất diệt tránh pháp: Pali: Satta adhikarapa samathà.

[16] Ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật: nói là Hiện tiền Tỳ ni: Nếu phán quyết về một tội trạng của một Tỳ kheo, hoặc trục xuất hoặc nói các biện pháp chế tài, phải có sự hiện diện của Tỳ kheo ở đó, ở đây, Phật cũng giảng giải về các cách phán quyết hiện diện đó. Pali: Sammukkhàvinaya dàtabba .

[17] Các trường hợp áp dụng luật hiện tiền: Có trường hợp chỉ cần một người chỉ trích một người, có trường hợp phải do số đông. Luật tạng còn phân biệt chi tiết, phải đủ ba yếu tố hiện tiền, phán quyết nói có giá trị: Pháp hiện tiền: dẫn chứng các lời Phật dạy. Luật hiện tiền: nêu rõ điều luật bị phạt và nhơn hiện tiền: phải có sự hiện diện của đương sự. Nếu trường hợp cần đại tăng, phải thêm hai yếu tố. Đó là Tăng hiện tiền, và giới hiện tiền, tức giới hạn của phòng hợp với sự hạn chế được luật quy định [Xem luật Tứ Phần, 17. DTK.1428, tr.915c-7c] .

[18] Ưng dữ ức chỉ tránh luật: cũng thường nói là ức niệm Tỳ ni.

[19] Tỳ kheo Đáp bà ma la bị các vị khác nghi ngờ phạm trọng tội, nên nhiều lần bị cật vấn, và do đó rất khổ tâm về vụ này. Nhân đó Phật thiết lập luật ức niệm tỳ ni, để vị ấy đến trước tăng chúng nói rằng mình không nhớ, và khi chúng tăng đã phán quyết theo luật ức niệm tỳ ni, không ai được coi vị ấy là người đã phạm tội [Luật tứ Phần, dd, tr, 914a] .

[20] Bất si chỉ tránh luật: cũng thường nói là bất si tỳ ni.

[21] Ưng dữ tự phát lồ chỉ tránh luật: Cũng nói là Tự ngôn trì Tỳ nại da: Thông thường hơn: Tự ngôn trị diệt tránh:

[22] Vào ngày Bố tát, Tôn giả A Nan thỉnh Phật đến trước chúng tăng thuyết giới. Phật từ chối, Ngài nói không thuyết giới kiết ma trước một đại chúng không thanh tịnh. Tôn giả Mục Kiền Liên nhân đó quán sát chúng tăng, biết được một Tỳ kheo phạm giới, bèn đến nắm tay kéo ra khỏi giới trường. Phật liền trách Mục Kiền Liên, và thiết lập điều luật này: Trước khi phán quyết một Tỳ kheo phạm giới, phải làm cho vị ấy nhận tội đã. [dd, tr.915a]

[23] Ưng dữ quân chỉ tránh: cũng nói: cầu bỉ tự tánh tỳ nại da: hay thông thường hơn: mích tội tướng.

[24] Quân luật: luật áp dụng cho chính Ngài. Vì vị này khi bị hỏi tội, cứ nói loanh quanh, nên tăng chúng phải chỉ định ngay tội danh: Chính Ngài đã phạm tội.

[25] Ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật: cũng nói là Thủ đa nhơn tỳ nại da: hay Đa mích tội tướng:

[26] Trì mẫu: hay nói là Trì ma di: [Luật Tứ Phần 17, DTK.1428, tr.918b] .

[27] Ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật: cũng nói: Như thảo phú địa Tỳ nại da:

[28] Thâu lan thác: thường nói là Thâu lan giá: các tội nhẹ hơn Ba la di [tội trục xuất] và tăng già bà thi sa [tội biệt chúng] một bậc.

[29] Lạc ủy lạo pháp: sáu pháp này thường được biết là sáu pháp hòa kỉnh hay lục hòa. Tập dị 15 [DTK.1536, tr.431b] , gọi là sáu pháp khả hỷ.

[30] Từ thân nghiệp: Đây là thân hòa đồng trú .

[31] Từ khẩu nghiệp, từ ý nghiệp: thường nói: Khẩu hòa vô tránh và ý hòa đồng duyệt.

[32] Lợi hòa đồng quân.

[33] Như địa bất tùy tha.

[34] Giới hòa, kiến hòa.

[35] Kiến hòa đồng giải.

-ooOoo-

trang trước

đầu trang

trang kế


[Thư mục BuddhaSasana]

Trung A Ham - Thich Tue Sy dich
Thư mục BuddhaSasana

Lưu ý: Đọc với phông chữ CN-Times nâng cấp hay Arial Unicode MS


 

Trung A H m Kinh
Mục Lục Tổng Quát
01. PHẨM BẢY PHÁP
02. PHẨM NGHIỆP TƯƠNG ƯNG
03. PHẨM XÁ-LÊ TỬ TƯƠNG ƯNG
04. PHẨM VỊ TẰNG HỮU PHÁP
05. PHẨM TẬP TƯƠNG ƯNG
06. PHẨM VƯƠNG TƯƠNG ƯNG
07. PHẨM TRƯỜNG THỌ VƯƠNG
08. PHẨM UẾ
09. PHẨM NHÂN
10. PHẨM LÂM
11. PHẨM ĐẠI (Phần đầu)
12. PHẨM PHẠM CHÍ (Phần đầu)
12. PHẨM PHẠM CHÍ (Phần sau) 
13. PHẨM CĂN BỔN PHÂN BIỆT
14. PHẨM TÂM
15. PHẨM SONG
16. PHẨM ĐẠI (Phần sau)
192. Kinh Ca-Lâu-Ô-Ðà-Di
193. Kinh Mâu-Lê-Phá-Quần-Na
194. Kinh Bạt-Ðá-Hòa-Lợi
195. Kinh A-Thấp-Bối
196. Kinh Châu-Na
197. Kinh Ưu-Bà-Ly
198. Kinh Điều Ngự Ðịa
199. Kinh Si Tuệ Ðịa
200. Kinh A-LÊ-TRA
201. Kinh Trà-Ðế
17. PHẨM BÔ-ĐA-LỢI
18. PHẨM LỆ

 

Source: LotusMedia lotusmedia.net
 
中 阿 含 經
KINH TRUNG A HÀM
Hán Dịch: Phật Ðà Da Xá & Trúc Phật Niệm,
Việt Dịch & Hiệu Chú: Thích Tuệ Sỹ

16. PHẨM ÐẠI
(Phần Sau)

No 196. KINH CHÂU NA [1]

Tôi nghe như vầy:

Một thời Phật du hóa tại nước Bạt Kỳ, thôn Xá Di [2] .

Bấy giờ sa di Châu Na [3] , kiết hạ ở Ba Hòa [4] . Tại xứ Ba Hòa có một Ni Kiền tên là Thân Tử [5] . Nơi đây, vị ấy qua đời. Sau khi qua đời không bao lâu, các đệ tử Ni Kiền thân tử chia rẻ và phá hoại nhau, nói những lời chia rẽ và phá hoại nhau. Họ tranh đấu, kiện tụng cột trói nhau, thù nghịch nhau, tranh luận với nhau rằng: "Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết? Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Ðiều đáng nói trước, ngươi nói sau, điều đáng nói sau ngươi lại nói trước. Ta nói là tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại”. Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ mong mình nói hơn, mà không có người nào để khiển trách. Nếu có những người bạch y tại gia, đệ tử của Ni Kiền Thân Tử, thấy vậy, họ đều chán nãn và lãng xa các đệ tử của Ni Kiền Thân Tử này. Vì sao vậy? Bởi vì những điều họ nói ấy đều là ác pháp luật, không phải là pháp xuất yếu, không dẫn đến chánh giác, cũng không phải là lời dạy của đấng Thiện thệ. Nó là sự băng hoại, không thể đứng vững, không nơi nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng Chánh Giác.

Lúc bấy giờ Sa di Châu Na đã qua ba tháng an cư mùa mưa, sửa vá lại y áo, rồi mang y cất bát đến thôn Xá Di, rồi qua phía bắc thôn Xá Di, đến rừng Thi Nhiếp Hòa. Sa di Châu Na đến chỗ Ngài A Nan. Sau khi đến nơi, đảnh lễ sát chân Ngài A Nan, rồi ngồi qua một bên.

Tôn giả A Nan hỏi: [6]

Này Hiền giả Châu Na! Từ đâu đến đây và an cư mùa mưa ở đâu?

Sa di Châu Na đáp:

Bạch Tôn giả A Nan! con từ Ba Hòa đến, và an cư mùa mưa ở Ba Hòa. Bạch Tôn giả! Tại Ba Hòa có một ni Kiền tên là Thân Tử. Nơi đây, Thân Tử mới qua đời chưa bao lâu thì đệ tử của Ni Kiền Thân Tử đã chia rẽ và phá hoại, nói những lời chia rẽ và phá hoại nhau, thù nghịch nhau, họ đấu tranh kiện tụng, cột trói nhau, tranh luận với nhau rằng: "Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết. Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Ðiều đáng nói trước, ngươi nói sau. Ðiều đáng nói sau, ngươi nói trước. Ta nói là tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục ngươi, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ, ta sẽ cột trói ngươi lại.” Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ cho mình nói hơn mà không có người nào để khiển trách. Nếu có những người bạch y tại gia, đệ tử của Ni Kiền Thân Tử, thấy vậy, họ đều chán nản và lãng xa, các đệ tử của Ni Kiền Thân Tử này. Vì sao vậy? Bởi vì những điều họ nói đây là những điều ác pháp luật không phải là pháp xuất yếu, không dẫn đến chánh giác, cũng không phải là lời dạy của đấng Thiện thệ. Nó là sự băng hoại không thể đứng vững không nơi để nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc thầy mà họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng Chánh Giác.

Tôn giả A Nan nghe xong, nói rằng: "Này Hiền giả Châu Na, nhân dịp này, chúng ta có thể đến yết kiến đức Phật, đem sự việc này trình bày lên Ngài. Này Hiền giả Châu Na, bây giờ chúng ta cùng đi đến đức Phật, đem tất cả sự việc này trình lên cho đức Thế Tôn. Thảng hoặc, chúng ta có thể nhân đó mà được nghe pháp khác nữa từ đức Thế Tôn.

Rồi Tôn giả A Nan và sa di Châu Na cùng nhau đến chỗ đức Phật, chắp tay cúi đầu đảnh lễ sát chân Ngài, Tôn giả A nan đứng qua một bên và Châu Na ngồi xuống một bên. Tôn giả A nan bạch với đức Thế Tôn:

Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay sa di Châu Na đi đến chỗ con, cúi đầu đảnh lễ sát chân rồi ngồi qua một bên. Con hỏi: này Hiền giả Châu Na, từ nơi nào đến đây và an cư mùa mưa ở đâu? Sa di Châu Na liền trả lời với con rằng: "Thưa Tôn giả A Nan, con từ Ba Hòa đến, an cư mùa mưa ở Ba Hòa. Bạch Tôn giả A nan! Tại Ba Hòa có một Ni Kiền tên là Thân Tử. Nơi đây, Thân Tử mới qua đời không bao lâu thì các đệ tử của Ni Kiền Thân Tử đã chia rẽ và phá hoại nhau; họ đấu tranh, kiện tụng, cột trói lẫn nhau, thù nghịch nhau, tranh luận với nhau rằng: "Ta biết pháp này, ngươi không biết. Ngươi biết pháp sao bằng chỗ ta biết Ta nói từ tốn, còn ngươi không từ tốn. Ta nói phù hợp, còn ngươi không phù hợp. Ðiều đáng nói trước, ngươi nói sau, điều đáng nói sau ngươi nói trước. Ta nói là tối thắng, còn ngươi không bằng. Ta hỏi việc ngươi, ngươi không thể trả lời được. Ta đã chế phục, ngươi còn hỏi nữa. Nếu ngươi động thủ ta sẽ cột trói ngươi.” Họ kiêu mạn và thách đố lẫn nhau. Ai cũng chỉ mong mình nói hơn mà không có người nào để khiển trách.

Nếu có những người bạch y tại gia, đêï tử của Ni Kiền Thân Tử, thấy vậy, họ đều chán nản và lãng xa các đệ tử của Ni Kiền Thân Tử này. Vì sao vậy? Bởi vì những điều họ nói ấy đều là ác pháp luật, không phải là pháp xuất yếu, không dẫn đến chánh giác, không phải là lời dạy của đấng Thiện thệ. Nó là sự băng hoại không thể đứng vững, không nơi để nương tựa và cậy nhờ. Bởi vì bậc thầy của họ tôn sùng không phải là Như Lai, bậc Vô sở trước, Ðẳng Chánh Giác.

Bạch Thế Tôn! Con nghe rồi kinh sợ hãi hùng, toàn thân lông tóc dựng đứng. Mong sau khi Thế Tôn khuất bóng, đừng có một vị Tỳ kheo nào ở trong chúng mà gây ra sự đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy, không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. Nó không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc, cho đến loài trời và loài người cũng phải chịu đau khổ và tại hoạn. Bạch Thế Tôn! khi con thấy một vị Tỳ kheo ngồi trước đức Thế Tôn chí tâm kính trọng đức Thế Tôn, khéo bảo vệ đấng Thiện thệ. Bạch Thế Tôn! Con thấy như vậy rồi liền nghĩ: "Nếu sau này khi Thế Tôn khuất bóng mà vị Tỳ kheo ấy trong chúng gây sự đấu tranh, thì đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà chỉ gây đau khổ cho mọi người, nó không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc cho đến loài trời, loài người cũng phải chịu đau khổ và tai hoạn.

Bấy giờ đức Thế Tôn hỏi: "Thầy thấy những điều nào khiến chúng tăng có sự đấu tranh, sự đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. Không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn và khoái lạc cho đến loài trời, loài người cũng phải chịu đau khổ và tai hoạn?

Tôn giả A Nan thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! Ðó là do tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng quán [7] mà phát sanh sự đấu tranh ở trong chúng. Bạch Thế Tôn, sự đấu tranh ấy, không giúp gì cho ai mà chỉ gây đau khổ cho mọi người. Nó không phải là sự thiện lợi, không phải là sự hữu ích. Không phải là sự an ổn, khoái lạc cho đến loài trời, loài người cũng phải chịu tai hoạn, đau khổ.

Ðức Thế Tôn nói:

Này A nan! Nếu đấu tranh do bởi giới tăng thượng, tâm tăng thượng, quán tăng thượng thì sự đấu tranh ấy quá nhỏ nhặt. Này A nan! Nếu có sự đấu tranh trong chúng tăng do đạo và đạo tích [8] thì sự đấu tranh ấy không giúp ích gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. Nó không phải là sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn khoái lạc. Này A Nan! Khi thầy thấy ở trong đấy có hai vị Tỳ kheo vì mỗi người có mỗi ý kiến khác nhau mà gây ra cuộc đấu tranh mà nói rằng: "Ðiều này là pháp, điều này là phi pháp. Ðiều này là luật, điều này không phải luật. Ðiều này là phạm, điều này không phải là phạm. Ðiều này là nhẹ, điều này là nặng. Có thể sám hối, không thể sám hối. Có thể thủ hộ, không thể thủ hộ. Hữu dư, vô dư, thối, bất thối. Này A Nan! Ý thầy nghĩ sao? Ðối với pháp tu của Ta được tự giác, tự thân chứng ngộ, gồm bốn niệm xứ, bốn như ý túc, năm căn, năm lục, bảy giác chi, tám chi thánh đạo? Này A Nan! Nếu Ni Kiền Thân Tử, biết tất cả, thấy tất cả thì vị ấy đã vì đệ tử mà giảng giải sáu gốc rễ của đấu tranh [10] đều đáng được nghe, nhưng lại thôi.

Bấy giờ Tôn giả A Nan chắp tay hướng về đức Phật bạch rằng:

Bạch Thế Tôn! Nay thật là đúng lúc. Bạch Thiện thệ! Nay thật hợp thời, nếu Thế Tôn dạy về sáu gốc rễ của sự đấu tranh cho các Tỳ kheo. Các Tỳ kheo sau khi nghe Thế Tôn dạy sẽ khéo léo thọ trì.

Ðức Thế Tôn bảo:

Này A Nan, hãy nghe kỹ; hãy suy nghĩ kỹ. Ta sẽ phân biệt đầy đủ. Tôn giả A Nan bạch rằng:

Kính vâng, xin vâng lời lắng nghe.

Ðức Phật dạy:

Này A Nan! Ở đây có một người bị kiết sử phẫn và hận quấn chặt[11] . Này A Nan! Người ấy bị kiết sử phẫn và hận quấn chặt cho nên không cung kính tôn sư, không thấy được pháp, không giữ gìn giới luật. Người ấy đã không cung kính tôn sư, không thấy được pháp, không giữ gìn giới luật, ở trong chúng nó gây ra sự đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người, không phải sự thiện lợi và hữu ích, không phải là sự an ổn khoái lạc, cho đến trời người phải chịu đau khô và tai hoạn. Này A Nan! Nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy ở bên trong hay bên ngoài mà không dứt hết được. Vậy, để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm, chánh trí, kiên nhẫn, đừng để thối thất. Này A Nan! Ví như có người bị lửa đốt cháy đầu, đốt cháy áo, thì phải cấp tốc tìm phương tiện để chửa cháy đầu, chửa cháy áo . Cũng vậy, nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy, ở bên trong hay bên ngoài mà không dứt hết được. Vậy để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm chánh trí, kiên nhẫn đừng để thối thất. Này A nan! Sự đấu tranh cũng như vậy, nếu thầy thấy được suốt trong và ngoài, thầy phải thủ hộ cái tâm đó hơn nữa, luôn luôn không buông lung, vì để ngăn chận sự đấu tranh ấy vậy. [12] Cũng giống như vậy với các kiết sử phú tàng [13] , bỏn xẻn, tật đố, dua nịnh, dối trá, vô tàm, vô quý, ác dục, tà kiến, và ác tánh không biết phục thiện. [14]

Này A Nan! Nếu một người nào có ác dục, tà kiến, ác tánh, không biết phục thiện thì người ấy không tâm cung kính tôn sư, không thấy được pháp, không giữ gìn giới luật, rồi ở trong chúng nó gây ra sự đấu tranh như vậy. Sự đấu tranh ấy không giúp gì cho ai mà chỉ gây khổ cho mọi người. Không phải là thiện lợi, không phải là hữu ích, không phải là an ổn khoái lạc, cho đến trời người cũng phải chịu đau khổ và tai hoạn. Này A Nan! Nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy ở bên trong hay ở bên ngoài, mà không biết suốt hết được. Vậy để ngăn chận sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện học tập tinh cần, chánh niệm chánh trí, kiên nhẫn đừng để thối thất. Này A nan! Ví như có người bị lửa đốt cháy đầu, đốt cháy áo thì phải cấp tốc tìm cầu phương tiện để chửa cháy đầu, cháy áo. Cũng vậy, nếu thầy thấy sự đấu tranh như vậy, ở bên trong hay bên ngoài mà không biết suốt hết được, vậy để đoạn trừ sự đấu tranh ấy, thầy phải nhanh chóng tìm cầu phương tiện, học tập tinh cần, chánh niệm chánh trí, kiên nhẫn đừng để thối thất. Này A Nan! Nếu sự đấu tranh như vậy mà thầy thấy suốt hết trong và ngoài, thầy phải hết sức thủ hộ cái tâm ấy hơn nữa, luôn luôn không buông lung, vì để ngăn chận sự đấu tranh ấy vậy. Thầy phải đoạn trừ gốc rễ của sự đấu tranh ấy.

Lại nữa, này A nan! Có bảy phương pháp diệt trừ đấu tranh [15] . Bảy phương pháp đó là: Một là ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật, hai là ưng dữ ức chỉ tránh luật. Ba là ưng dữ bất si dữ tránh luật, bốn là ưng dữ phát lồ chỉ tránh luật, năm là ưng dữ quân chỉ tranh luật, sáu là ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật, bảy là ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tranh luật.

Này A Nan! Thế nào là ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật? Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh này? tức là luật chấm dứt đấu tranh bằng sự hiện diện. Này A Nan! Hoặc một người đối với một người, mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Một người đối với hai người, một người đối với nhiều người, một người đối với chúng tăng mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Hai người đối với hai người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Hai người đối với nhiều người, hai người đối với chúng tăng, hai người đối với một người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Nhiều người đối với nhiều người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Nhiều người đối với chúng tăng, nhiều người đối với một người, nhiều người đối với hai người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ giáo với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Chúng tăng đối với một người, chúng tăng đối với hai người, chúng tăng đối với nhiều người mà khuyến giáo, khiển trách, được thủ hộ bằng pháp luật như Tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. [17] Này A Nan! Như vậy gọi là Ưng dữ hiện tiền chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự hiện diện.

Này A Nan! Thế nào là Ưng dữ ức chỉ tránh luật? làm thế nào để đọan trừ sự tranh đấu này? Tức là do chấm dứt đấu tranh bằng nhớ lại. Này A Nan! Nếu có một người nào phạm giới mà không nhớ lại giới mình đã phạm. Các thầy Tỳ kheo thấy vậy, nói với vị ấy rằng:

Thầy đã phạm giới mà không nhớ lại giới mình đã phạm. Thầy hãy đến trong chúng mà xin luật ức niệm. Tăng chúng sẽ ban cho hiền giả luật ức niệm. Này A nan! nếu ở một nơi nào có tăng chúng hòa hiệp mà nhóm họp vị Tỳ kheo kia phải đến đó, trịch vai áo, bỏ guốc, vào trong chúng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân các bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, chắp tay quỳ mọp mà bạch với các trưởng lão thượng tôn rằng: Bạch chư tôn, mong các ngài nghe cho, con đã từng phạm giới mà không nhớ, hay con từ nơi chúng tăng cầu xin luật ức niệm. Mong tăng chúng hòa hợp ban cho con luật ức niệm.

Này A nan! Tăng chúng hòa hợp lại để ban cho vị Tỳ kheo này luật ức niệm, bằng pháp và luật như tôn sa đã chỉ dạy, với sự hiện diện khiến cho được hoan hỷ. [19] . Này A Nan! Như vậy gọi là ưng dữ ức chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng cách nhớ lại.

Này A Nan! Thế nào là ưng dữ bất si chỉ tránh luật? [20] Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức là luật chấm dứt đấu tranh bằng sự không si cuồng. Này A nan! nếu có một người do phát cuồng mà tâm điên đảo, nên có quá nhiều bất tịnh hạnh, không phải là pháp của sa môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà nói vi phạm. Người ấy sau khi trở lại tâm trạng như trước, gặp các Tỳ kheo và được bảo rằng: "Thầy đã phát cuồng và tâm điên đảo, do phát cuồng và tâm điên đảo nên có quá nhiều bất tịnh hạnh, không phải pháp của sa môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà nói vi phạm. Này Hiền giả! Nếu Hiền giả sau khi trở lại tâm trạng như trước, hiền giả có thể đến nơi chúng tăng mà cầu xin luật bất si. Chúng tăng sẽ ban cho hiền giả luật bất si. Này A Nan , nếu một nơi nào đó tăng chúng đang hòa hợp và nhóm hội, vị Tỳ kheo ấy nên đến đó, trịch vai áo, bỏ guốc, vào trong tăng chúng, cúi đầu lễ sát dưới chân các bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo chắp tay quì mọp, mà bạch với các trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo rằng: "bạch chư tôn, xin nghe cho, con đã từng phát cuồng và tâm điên đảo. Do con đã phát cuồng và tâm điên đảo nên có quá nhiều bất tịnh hạnh không phải là pháp của sa môn, không tùy thuận theo pháp hạnh mà còn nói vi phạm. Về sau con trở lại tâm trạng như trước. Nay con từ nơi chúng tăng xin cầu luật bất si. Mong chúng tăng hòa hợp ban cho con luật bất si. Này A Nan, chúng tăng cùng hòa hợp và nhóm hội, ban cho vị Tỳ kheo ấy luật bất si, bằng pháp và luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện, khiến được hoan hỷ. Này A Nan, đó gọi là ưng dữ bất si chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy được đoạn trừ như vậy, tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự không si cuồng.

Này A Nan! Thế nào là ưng dữ tự phát lồ chỉ tranh luật [21]? Sự đấu tranh làm thế nào để chấm dứt? Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự tự thú nhận. Này A Nan, nếu có một người phạm giới, hoặc nói ra hay không nói ra, hoặc có nhớ hay không nhớ. Này A Nan , nếu tại nơi nào đó có chúng tăng đang hòa hợp và nhóm hội. Vị Tỳ kheo kia nên đến đó, trịch vai áo, bỏ giốc, vào trong chúng, cúi đầu đảnh lễ dưới chân các bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, chắp tay quì mọp mà bạch rằng: "Bạch chư tôn, xin nghe cho, con phạm giới đó, con nay hướng về các bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, chí tâm phát lồ, tự mình nói và trưng bày rõ, không dám che dấu, từ nay về sau sẽ khéo léo hộ trì không tái phạm. Này A nan , chúng Tỳ kheo nên hỏi vị ấy rằng: "Này Hiền giả, có tự thấy điều mình phạm không?" Vị Tỳ kheo ấy đáp: "Con thật sự có thấy điều con phạm”. Ðại chúng cũng nên nói với vị ấy rằng: "Hiền giả nên cẩn thận giữ gìn đừng tái phạm”. [22] Này A Nan! Ðó là ưng dữ tự phát lồ chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự từ thú nhận.

Này A Nan! Thế nào là Ưng dữ quân chỉ tranh luật? [23] Làm sao để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng chín đương nhơn. Này A Nan! Nếu có người không biết xấu hổ, không hối hận những tội bị thấy, bị nghe và bị người khác nghi ngờ là ác dục. người ấy đã phạm giới rồi nói là mình biết ở một nơi, mình thấy ở một nơi. Sau khi nói mình biết ở một nơi này, lại nói mình thấy ở một nơi. Sau khi nói mình thấy ở một nơi, lại nói mình biết ở một nơi. Ở trong tăng chúng mà nói là mình biết ở một nơi, ở trong tăng chúng mà nói là mình thấy ở một nơi. Nói mình biết ở một nơi, rồi lại nói mình thấy ở một nơi. Nói mình thấy ở một nơi rồi lại nói mình biết ở một nơi. Này A Nan! Vì vị Tỳ kheo ấy, tăng chúng hòa hiệp và nhóm họp mà ban luật Dương nhơn [24] mà nói rằng: "Nhà ngươi không đạo lý, nhà ngươi ác bất thiện. Vì sao? Vì ngươi đã phạm giới rồi lại nói mình biết ở một nơi, mình thấy ở một nơi. Nói mình biết ở một nơi, rồi lại nói mình thấy ở một nơi. Nói mình thấy ở một nơi, rồi lại nói mình biết ở một nơi. Ở trong chúng mà nói mình biết ở một nơi. Ở trong chúng mà nói mình thấy ở một nơi. Nói mình thấy ở một nơi rồi lại nói mình biết ở một nơi. Này A Nan! Như vậy gọi là Ưng dữ quân chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ bằng sự như vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh bằng chính dương nhơn.

Này A Nan! Thế nào là ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật [25]? Làm thế nào để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? tức là do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự diển tiến. Này A Nan! Ở đây, giữa hai vị Tỳ kheo vì một số ý kiến mà gây ra sự đấu tranh như vầy: "Ðây là pháp, đây phi pháp. Ðây là luật, đây không phải là luật; đây là phạm, đây không phải là phạm; đây là nhẹ, đây là nặng; điều này nên nói, điều này không nên nói; điều này đáng thủ hộ, điều này không đáng thủ hộ; điều này còn dư, điều này không còn dư; điều này có thể sám hối, điều này không thể sám hối. Này A Nan! Vị Tỳ kheo kia ngay tại chỗ đang cải vã ấy mà chấm dứt đấu tranh. Nếu ngay tại chỗ cải vã mà chấm dứt đấu tranh, thì sự đấu tranh này được tuyên bố là chấm dứt. Nếu ngay tại chỗ cải vã mà không chấm dứt, có thể đưa sự đấu tranh ra bạch với chúng tăng. Nếu ở trong chúng tăng mà chấm dứt, thì sự đấu tranh ấy được tuyên bố là chấm dứt. Nếu trong chúng tăng không chấm dứt, thì này A Nan! Ở trong đó, gần đó có Tỳ kheo giỏi kinh, giỏi luật, giỏi luận [26] , các Tỳ kheo kia cùng đến vị này thưa việc đấu tranh ấy. Nếu ngay trên đường đi mà chấm dứt, thì sự đấu tranh được tuyên bố là chấm dứt. Nếu ngay trên đường đi mà không chấm dứt, lại hãy đem sự đấu tranh ấy nói trước chúng tăng. Nếu ở trước chúng tăng mà chấm dứt, sự đấu tranh ấy được tuyên bố là chấm dứt. Nếu ở tại chúng tắng mà không chấm dứt thì này A Nan, nếu nhiều trò bạn giỏi kinh, giỏi luật, giỏi luận, thì các vị này phải chấm dứt sự đấu tranh ấy bằng pháp và luật như tôn sư đã chỉ giáo, với sự hiện diện khiến được hoan hỷ. Này A Nan, như vậy gọi là ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật. Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy, tức là do luật chấm dứt đấu tranh bằng sự triển chuyển.

Này A Nan! Thế nào gọi là Ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật[27]? Làm sao để đoạn trừ sự đấu tranh ấy? tức là luật chấm dứt đấu tranh như quăng bỏ dẻ rách. Này A Nan! Nếu các vị Tỳ kheo ở chung một chổ tranh chấp, kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán ghét nhau. Này A Nan! Do đó các Tỳ kheo kia chia ra hai nhóm. Sau khi chia ra hai nhóm rồi, trong một nhóm có bậc trưởng lão thượng tôn Tỳ kheo, hay dưới trưởng lão một bậc; hoặc có người làm tông chủ hay nhỏ hơn tông chủ một bậc. Này A Nan! Vị Tỳ kheo này nói với các vị Tỳ kheo kia rằng: "Này chư hiền, xin nghe cho, chúng ta không có đạo lý, chúng ta là người ác bất thiện. Vì sao vậy? Vì chúng ta đối với pháp và luật được khéo giảng dạy mà chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, để học đạo, nhưng chúng ta tranh chấp kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán ghét nhau, cải vã nhau. Này chư hiền do sự tranh chấp này mà chúng ta đã phạm giới, ngoại trừ tội Thâu lan giá [28] và ngoại trừ tội tương ưng với hàng tại gia. Tôi vì chính mình và cũng vì chư hiền nữa, nên hướng đến chư hiền phát lồ, tự nói mà trình bày rõ ràng, không dám che dấu, lại cẩn thận giữ gìn sau không tái phạm nữa.

Này A Nan! nếu ở trong nhóm này mà không có vị Tỳ kheo nào ứng theo, thì này A Nan! Tỳ kheo ấy nên đi đến nhóm thứ hai. Ðến nơi rồi, cúi đầu đảnh lễ các bậc thượng tôn trưởng lão Tỳ kheo chắp tay quì mọp mà thưa rằng: "Thưa chư tôn, xin nghe cho, chúng ta không có đạo lý, chúng ta là người ác bất thiện. Vì sao vậy? Vì chúng ta đối với pháp và luật được khéo giảng dạy mà chí tín, từ bỏ gia đình, sống không gia đình để học đạo, nhưng chúng ta tranh chấp, kiện tụng nhau, thù nghịch nhau, oán ghét nhau, cải vã nhau. Này chư hiền, do sự tranh đấu này mà chúng ta đã phạm giới, ngoại trừ tội Thâu lan giá, và ngoại trừ tội tương đường với hàng tại gia. Tôi vì chính mình và cũng vì chính chư hiền nữa, nên hướng đến chư hiền chí tâm phát lồ, tự nói mà trình bày rõ ràng, không dám che giấu, lại cẩn thận giữ gìn sau không tái phạm nữa.

Này A Nan! các Tỳ kheo kia nên nói với vị Tỳ kheo này như vầy: "Này hiền giả! Thầy tự thấy mình phạm giới chăng?

Vị Tỳ kheo này đáp:

Quả thật tôi tự thấy mình đã phạm giới.

Tỳ kheo kia nên nói:

Vậy hãy cẩn thận giữ gìn, đừng để tái phạm."

Nhóm thứ hai cũng làm như vậy. Này A Nan, như vậy gọi là Ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật. Này A Nan! Sự đấu tranh ấy phải được đoạn trừ như vậy. Tức do luật chấm dứt đấu tranh như quăng bỏ dẻ rách.

Này A Nan! Nay ta nói cho thầy sáu pháp ủy lao [29] , hãy lắng nghe kỹ, hãy khéo suy nghĩ kỹ. Tôn giả A Nan bạch rằng: Kính vâng, con xin vâng lời lắng nghe. Ðức Phật dạy:

Thế nào là sáu: Thần nghiệp từ hòa hướng đến các vị đồng phạm hạnh [30] , pháp ấy gọi là pháp ủy lao. Ðó là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là sa môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết Bàn.

Khẩu nghiệp nói năng từ hòa, ý nghiệp từ hòa, có lợi lộc nào đúng pháp mà được, cho đến miếng cơm ở chính trong bình bát của mình, với phần lợi như vậy, mang chia xẻ cho các vị đồng phạm hạnh [32] , pháp đó gọi là pháp ủy lao, là pháp khả ái, pháp khả lạc, khiến cho ái niệm khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là sa môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết Bàn.

Nếu có giới nào không bị sứt mẽ, không bị hư thủng, không bị dơ, không bị đen, vững vàng như mặt đất [33] được thánh khen ngợi, đầy đủ cẩn thận, thọ trì. Với giới phần như vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh [34] , pháp đó là pháp ủy lao, là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là sa môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết Bàn.

Nếu có kiến giải của thánh có sự xuất yếu, có sự thấy rõ, có sự thấu triệt, đưa đến sự chân chánh diệt khổ, với kiến phần như vậy, cùng chia xẻ với các vị đồng phạm hạnh, [35] , pháp đó là pháp ủy lao là pháp khả ái, là pháp khả lạc, khiến cho ái niệm, khiến cho tôn trọng, khiến cho phụng sự, khiến cho cung kính, khiến cho tu tập, khiến cho hòa thuận, được là sa môn, được sự nhất tâm, được sự tinh cần, chứng đắc Niết Bàn.

Này A Nan! Ta vừa nói sáu pháp ủy lạo, vì vậy mà ta giảng giải. Này A Nan! Nếu các thầy đối với sáu gốc rễ của đấu tranh mà đoạn tuyệt hoàn toàn, và với bảy pháp chấm dứt đấu tranh, khi trong tăng chúng khởi lên đấu tranh, thì chấm dứt bằng luật chấm dứt đấu tranh như quăng bỏ dẻ rách, rồi lại thực hành sáu pháp ủy lạo ấy, thì này A Nan! Như vậy sau khi Ta khuất bóng, các con sống cộng đồng hòa hợp hoan hỷ không tranh chấp, cùng đồng nhất trong một tâm, cùng đồng nhất trong một giáo pháp, hòa hợp như nước với sữa, khoái lạc du hành như lúc Ta còn tại thế.

Ðức Phật thuyết như vậy, Tôn giả A Nan và chư Tỳ kheo sau khi nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

-ooOoo-

Chú thích:

[1] Tương đương Pali: M.103. Sàmagàma sutta.

[2] Bạt Kỳ, Xá di thôn: Địa danh này khó đồng nhất với Pali: Sakkesu [...] Sàmagame, là một ngôi làng của giòng họ Sakya.

[3] Sa di Châu Na: Cunda samuddesa. Được đồng với Maha Cunnda em ruột ngài Saributta và đắc quả A na hàm trong lúc làm sa di. [xem PP.11.877-8] .

[4] Ba Hòa: Pàvà , một thị trấn của bộ tộc Malla. Đoạn đường cuối cùng của Phật, đi từ Pàvà đến Kusinàrà và ngài dừng chân để nghỉ 25 lần trên đoạn đường ấy.

[5] Ni Kiền Thân Tử: Nigantha-Nàta-punta. Một trong lục sư ngoại đạo.

[6] Ngài A Nan là bổn sư của Châu Na.

[7] Bản Pali: do ajihàjìva và do adhipatimokkha:Tăng thượng hoặc mạn và tăng thượng giới bổn. [Bản Việt: III.tr.244-245] , cả hai đều chỉ liên hệ đến giới luật. Bản Hán nói do cả giới định tuệ.

[8] Đạo và đạo tích: Pali: Magga và Pàtipàda. Con đường dẫn đến chứng ngộ và sự tụ tập con đường ấy.

[9] Tát vân nhã: phiên âm trong Pali: Sabbannu.

[10] Lục tranh bốn:

[11] Sân não kết triền: Phẩn hận và thù nghịch.

[12] Trong bản hán có một đoạn lặp lại, từ chỗ: "Ví như có người bị lửa cháy đầu”, cho đến đây.

[13] Bất ngũ kết:

[14] Ac tánh bất khả chế: thuật ngữ thường nói là: "Ác tánh bất thọ nhơn ngữ ! Tánh ương ngạnh không chịu nghe lời. Đoạn này tóm tắt, liệt kê các cập kiết sử làm nguyên nhân cho đấu tranh, có thể xếp loại theo thuật ngữ thông dụng: Phẩn-hận, phú, não, tật, xan, cuồng, siểm, vô tàn vô quý, ác dục, tà kiến, xem thêm đối chiếu kinh 98 trên. Xem giải thích Tập Dị 15 [DTK.1536, tr.431a-b]

[15] Thất chỉ tránh: Thuật ngữ luật tạng thường nói là: Thất diệt tránh pháp: Pali: Satta adhikarapa samathà.

[16] Ưng dữ diện tiền chỉ tránh luật: nói là Hiện tiền Tỳ ni: Nếu phán quyết về một tội trạng của một Tỳ kheo, hoặc trục xuất hoặc nói các biện pháp chế tài, phải có sự hiện diện của Tỳ kheo ở đó, ở đây, Phật cũng giảng giải về các cách phán quyết hiện diện đó. Pali: Sammukkhàvinaya dàtabba .

[17] Các trường hợp áp dụng luật hiện tiền: Có trường hợp chỉ cần một người chỉ trích một người, có trường hợp phải do số đông. Luật tạng còn phân biệt chi tiết, phải đủ ba yếu tố hiện tiền, phán quyết nói có giá trị: Pháp hiện tiền: dẫn chứng các lời Phật dạy. Luật hiện tiền: nêu rõ điều luật bị phạt và nhơn hiện tiền: phải có sự hiện diện của đương sự. Nếu trường hợp cần đại tăng, phải thêm hai yếu tố. Đó là Tăng hiện tiền, và giới hiện tiền, tức giới hạn của phòng hợp với sự hạn chế được luật quy định [Xem luật Tứ Phần, 17. DTK.1428, tr.915c-7c] .

[18] Ưng dữ ức chỉ tránh luật: cũng thường nói là ức niệm Tỳ ni.

[19] Tỳ kheo Đáp bà ma la bị các vị khác nghi ngờ phạm trọng tội, nên nhiều lần bị cật vấn, và do đó rất khổ tâm về vụ này. Nhân đó Phật thiết lập luật ức niệm tỳ ni, để vị ấy đến trước tăng chúng nói rằng mình không nhớ, và khi chúng tăng đã phán quyết theo luật ức niệm tỳ ni, không ai được coi vị ấy là người đã phạm tội [Luật tứ Phần, dd, tr, 914a] .

[20] Bất si chỉ tránh luật: cũng thường nói là bất si tỳ ni.

[21] Ưng dữ tự phát lồ chỉ tránh luật: Cũng nói là Tự ngôn trì Tỳ nại da: Thông thường hơn: Tự ngôn trị diệt tránh:

[22] Vào ngày Bố tát, Tôn giả A Nan thỉnh Phật đến trước chúng tăng thuyết giới. Phật từ chối, Ngài nói không thuyết giới kiết ma trước một đại chúng không thanh tịnh. Tôn giả Mục Kiền Liên nhân đó quán sát chúng tăng, biết được một Tỳ kheo phạm giới, bèn đến nắm tay kéo ra khỏi giới trường. Phật liền trách Mục Kiền Liên, và thiết lập điều luật này: Trước khi phán quyết một Tỳ kheo phạm giới, phải làm cho vị ấy nhận tội đã. [dd, tr.915a]

[23] Ưng dữ quân chỉ tránh: cũng nói: cầu bỉ tự tánh tỳ nại da: hay thông thường hơn: mích tội tướng.

[24] Quân luật: luật áp dụng cho chính Ngài. Vì vị này khi bị hỏi tội, cứ nói loanh quanh, nên tăng chúng phải chỉ định ngay tội danh: Chính Ngài đã phạm tội.

[25] Ưng dữ triển chuyển chỉ tránh luật: cũng nói là Thủ đa nhơn tỳ nại da: hay Đa mích tội tướng:

[26] Trì mẫu: hay nói là Trì ma di: [Luật Tứ Phần 17, DTK.1428, tr.918b] .

[27] Ưng dữ như khí phấn tảo chỉ tránh luật: cũng nói: Như thảo phú địa Tỳ nại da:

[28] Thâu lan thác: thường nói là Thâu lan giá: các tội nhẹ hơn Ba la di [tội trục xuất] và tăng già bà thi sa [tội biệt chúng] một bậc.

[29] Lạc ủy lạo pháp: sáu pháp này thường được biết là sáu pháp hòa kỉnh hay lục hòa. Tập dị 15 [DTK.1536, tr.431b] , gọi là sáu pháp khả hỷ.

[30] Từ thân nghiệp: Đây là thân hòa đồng trú .

[31] Từ khẩu nghiệp, từ ý nghiệp: thường nói: Khẩu hòa vô tránh và ý hòa đồng duyệt.

[32] Lợi hòa đồng quân.

[33] Như địa bất tùy tha.

[34] Giới hòa, kiến hòa.

[35] Kiến hòa đồng giải.

-ooOoo-

trang trước

đầu trang

trang kế


[Thư mục BuddhaSasana]