Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

VU Times font

 

THERAVĀDA
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

KHO TÀNG PHÁP HỌC

Tỳ Khưu Giác Giới
biên soạn

Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)


CHƯƠNG PHÁP TRÊN MƯỜI CHI

[477] Mười hai loại nghiệp (Kamma):

Nghiệp là hành động có tạo quả dị thục, cũng còn gọi là nghiệp dị thời (Nānākhaṇikakamma). Nghiệp đây chính là Tư (Cetanā), thiện hay bất thiện.

Nghiệp nói có 12 loại là phân loại theo ba khía cạnh: theo chức năng, theo phương thức trổ quả, và theo thời gian trổ quả. Trong mỗi khía cạnh được phân loại gồm có 4 thứ nghiệp, nên thành 12 loại nghiệp.

A- Bốn loại nghiệp theo chức năng (Kiccavasena):

1. Sanh nghiệp (Janakakamma), là nghiệp có khả năng tạo quả thức tái sanh.

2. Trì nghiệp (Upatthambhakakamma), là nghiệp có khả năng bảo trì kết quả đã thành tựu để kéo dài thọ vui hay khổ.

3. Chướng nghiệp (Upapīḷakakamma), là nghiệp có khả năng cản trở hay làm giảm bớt mãnh lực của nghiệp khác, làm cho nghiệp khác suy yếu trổ quả nhẹ.

4. Đoạn nghiệp (Upaghātakamma), là nghiệp có khả năng phá vỡ hiệu lực trổ quả của nghiệp khác, làm cho nghiệp khác mất hiệu quả.

B- Bốn loại nghiệp theo phương thức trổ quả (Pākadānapariyāyena):

1. Trọng nghiệp (Garukakamma), là nghiệp có mãnh lực trổ quả chắc chắn, nghiệp có công suất mạnh hơn các nghiệp thông thường. Trọng nghiệp thiện là tám thiền chứng, trọng nghiệp ác là năm tội vô gián.

2. Thường nghiệp (Bahukakamma hay āciṇṇakamma), là nghiệp quen làm, thường làm, trở thành tập quán, nghiệp này cũng có thiện có ác, tạo ra quả bằng cách thường cận y duyên.

3. Cận tử nghiệp (Āsannakamma), là loại nghiệp được hình thành trước lúc chết, do bất chợt bị chi phối bởi cảnh tượng tốt hoặc xấu lúc sắp lâm chung rồi khởi tâm thiện hay bất thiện để tạo quả tái sanh.

4. Khinh tác nghiệp (Katattākamma), là nghiệp tạo tình cờ trong bình nhật với tư niệm yếu ớt, không chủ ý lắm, nghiệp này ít khi trổ quả, không quan trọng như trọng nghiệp, thường nghiệp và cận tử nghiệp.

C- Bốn loại nghiệp theo thời gian trổ quả (Pākakālavasena):

1. Hiện báo nghiệp (Diṭṭhadhammavedanīyakamma), là nghiệp có khả năng tạo quả dị thục trong đời hiện tại, sau khi làm. Nghiệp này chính do tâm đổng lực thiện hoặc bất thiện, sát na thứ nhất. Nếu sát na đổng lực này quá đời hiện tại sẽ là vô hiệu nghiệp.

2. Sanh báo nghiệp (Upapajjavedanīyakamma), là nghiệp có khả năng tạo quả dị thục trong đời sống kế kiếp đây. Nghiệp này chính do đổng lực thiện hoặc bất thiện, sát na thứ bảy. Nếu qua đời kế tục thì sẽ là vô hiệu nghiệp.

3. Hậu báo nghiệp (Aparāpariyavedanīyakamma), là nghiệp có khả năng tạo quả dị thục trong những đời sống sau nữa, mãi cho đến khi viên tịch níp-bàn mới là vô hiệu. Chính là đổng lực thiện hay bất thiện, năm sát na giữa.

4. Vô hiệu nghiệp (Ahosikamma), là nghiệp không còn khả năng trổ quả, tức là sự mất hiệu lực của hiện báo nghiệp, sanh báo nghiệp và hậu báo nghiệp.

Mười hai loại nghiệp này được nói đến trong các sớ giải do các vị A-xà-lê góp nhặt rải rác trong kinh tạng.

Vism.601; Comp.144.

[478] Mười hai pháp y tương sinh, thập nhị nhân duyên (Paṭiccasamuppāda):

1. Vô minh (Avijjā), sự si mê, sự tối tăm, thiếu trí tuệ, không biết pháp đáng biết. Xem [409].

2. Hành do duyên vô minh (Avijjāpaccayā saṅkhārā), là phi phúc hành, phúc hành và bất động hành. Xem [104].

3. Thức do duyên hành (Saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ). Là sáu quả thức do nghiệp hành tạo ra, là thức uẩn quả hiệp thế.

4. Danh sắc do duyên thức (Viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ). Danh là ba uẩn sở hữu tâm đồng sanh với thức uẩn quả. Sắc ở đây là sắc nghiệp tục sinh.

5. Lục nhập do duyên danh sắc (Nāmarūpa-paccayā saḷāyatanaṃ), lục nhập hay còn gọi là sáu nội xứ: nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, và ý xứ.

6. Xúc do duyên lục nhập (Saḷāyatanapaccayā phasso), là sự đối chiếu giữa căn với cảnh và thức, gồm có nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc.

7. Thọ do duyên xúc (Phassapaccayā vedanā). Thọ ở đây là cảm giác hưởng cảnh, như khổ, lạc và phi khổ, phi lạc, hoặc khổ, lạc, ưu, hỷ và xả. Ba thọ hoặc năm thọ. Xúc duyên thọ có hai cách: câu sanh duyên và thường cận y duyên.

8. Ái do duyên thọ (Vedanāpaccayā taṇhā). Ái ở đây là dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Xem [75].

9. Thủ do duyên ái (Taṇhāpaccayā upādānaṃ). Thủ ở đây là dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã chấp thủ. Xem [242].

10. Hữu do duyên thủ (Upādānapaccayā bhavo). Hữu ở đây là nghiệp hữu, tức là thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp có thiện và bất thiện.

11. Sanh do duyên hữu (Bhavapaccayā jāti). Sanh ở đây là sanh hữu, cõi sống của chúng sanh như là dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu, hoặc ngũ uẩn hữu, tứ uẩn hữu và nhất uẩn hữu.

12. Lão, tử, sầu, bi, khổ, ưu, ai do duyên sanh (Jātipaccayā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhado-manassupādāyāsā), tức là đời sống bị già chết, bị buồn rầu uất ức khổ đau phiền muộn... chính bởi do sanh hữu.

Mười hai duyên sinh này cũng được gọi là hữu luân (bhavacakka); nghĩa là bánh xe sanh tử, các mắt xích trợ duyên lẫn nhau, sanh khởi liên quan nhau, tạo ra kiếp sống luân hồi triền miên.

Muốn hiểu rõ bánh xe duyên sinh phải phân tích qua 6 khía cạnh:

A- Ba thời (Addhā):

1. Quá khứ: gồm hai chi là vô minh và hành.
2. Hiện tại: gồm tám chi là thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu.
3. Vị lai: gồm hai chi là sanh, Lão-tử, (sầu - bi - khổ - ưu - ai).

B- Bốn yếu lược (Saṅkhepa):

1. Nhân quá khứ: vô minh, hành.
2. Quả hiện tại: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.
3. Nhân hiện tại: ái, thủ, hữu.
4. Quả vị lai: sanh, lão-tử-sầu-bi-khổ-ưu-ai.

C- Ba tục đoan (Sandhi)

1. Mối nối nhân quá khứ với quả hiện tại: Hành duyên thức.
2. Mối nối quả hiện tại với nhân hiện tại: Thọ duyên ái.
3. Mối nối nhân hiện tại với quả vị lai: Hữu duyên sanh...

D- Hai mươi hành tướng (Ākāra):

a) 5 nhân quá khứ: vô minh, hành, ái, thủ, hữu.
b) 5 quả hiện tại: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.
c) 5 nhân hiện tại: vô minh, hành, ái, thủ, hữu.
d) 5 quả vị lai: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.

E- Ba luân (Vaṭṭa):

1. Phiền não luân: vô minh, ái, thủ.
2. Nghiệp luân: hành và hữu.
3. Quả luân: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh, lão-tử-sầu-bi-khổ-ưu-ai.

F- Hai căn (Mūla):

1. Căn quá khứ: vô minh.
2. Căn hiện tại: ái.

Việc trình bày pháp duyên sinh theo 6 khía cạnh: thời, yếu lược, tục đoan, hành tướng, luân, căn. Đây là sự giải thích trong sớ giải như bộ Abhidhammatthasaṅgaha (Vi diệu pháp tập yếu).

Mặt khác, nên biết thêm về cách thuyết giảng pháp y tương sinh mà Đức Phật đã thuyết. Có 2 cách:

a) Thuyết thuận chiều (Anuloma), là trình bày theo khía cạnh tập khởi của khổ uẩn (Dukkhakkhandhassa samudayo hoti). Như là "Avijjāpaccayā saṅkhārā (Vô minh duyên hành) v.v...

Cách thuyết duyên sinh thuận chiều là để thấy rõ khổ tập thánh đế.

b) Thuyết nghịch chiều (Paṭiloma), là trình bày theo khía cạnh đoạn diệt của khổ uẩn (dukkhak-khandhassa nirodho hoti). Như là Avijjāya tveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho (do sự đoạn diệt vô nhiễm hoàn toàn đối với vô minh nên hành diệt) v.v..."

Cách thuyết duyên sinh nghịch chiều là để thấy rõ khổ diệt thánh đế.

Về tên gọi của pháp y tương sinh, có ba tên gọi nữa là:

1. Idappaccayatā, thử duyên tánh, là pháp có do duyên cái này.

2. Dhammaniyāma, cố nhiên pháp, là pháp có qui luật nhất định.

3. Paccayākāra, duyên hành tướng, là pháp có điều kiện trợ sanh. Tên gọi này rất thường được nói đế trong tạng Vi Diệu Pháp và chú giải.

Vin.I.1; S.II.1; Vbh.135; Vism.517; Comp.188.

[479] Mười hai xứ (Āyatana) hay nhập, chỗ cho tâm thức sanh khởi:

1. Nhãn xứ (Cakkhāyatana)
2. Nhĩ xứ (Sotāyatana)
3. Tỷ xứ (Ghānāyatana)
4. Thiệt xứ (Jivhāyatana)
5. Thân xứ (Kāyāyatana)
6. Ý xứ (Manāyatana)
7. Sắc xứ (Rūpāyatana)
8. Thinh xứ (Saddāyatana)
9. Khí xứ (Gandhāyatana)
10. Vị xứ (Rasāyatana)
11. Xúc xứ (Phoṭṭhabbāyatana)
12. Pháp xứ (Dhammāyatana)

Xem [340] Sáu nội xứ, và [360] Sáu ngoại xứ.

Vbh.70

[480] Mười hai tánh hạnh của Chuyển Luân Vương (Cakkavattivatta):

Xem [ 208] Bốn tánh hạnh của vị Chuyển Luân Vương ở phần sau.

[481] Mười ba chi đầu đà, pháp tẩy trừ phiền não (Dhutaṅga):

1. Hạnh mặc phấn tảo y (Paṃsukūlikaṅga), tức là chỉ mặc y bằng vải quăng bỏ chỗ bẩn thỉu như đống rác, bãi tha ma... Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Gahapaticīvaraṃ paṭikkhipāmi, paṃkūlikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ y của gia chủ cúng, tôi nguyện thọ trì hạnh mặc phấn tảo y".

2. Hạnh mặc tam y (Tecīvarikaṅga), tức là chỉ giữ mặc ba y mà Đức Phật cho phép. (Y tăng-già-lê, y uất-đà-la-tăng, y an-đà-hội). Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Catutthacīvaraṃ paṭikkhipāmi, tecīvarikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ chiếc y thứ tư, tôi nguyện thọ trì hạnh mặc tam y" .

3. Hạnh đi khất thực (Piṇḍapātikaṅga), tức là chỉ sống bằng cách cầm bát đi xin ăn. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Atirekalābhaṃ paṭikkhipāmi piṇḍapātikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ lợi lộc ngoại lệ, tôi nguyện thọ trì hạnh đi khất thực".

4. Hạnh thứ lớp khất thực (Sapadānacārikaṅga), tức là đi khất thực tuần tự theo từng nhà, không chọn lựa địa điểm. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Lohuppacāraṃ paṭikkhipāmi, sapadānacārikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi xin khước từ việc đi theo ý muốn, tôi nguyện thọ trì hạnh thứ lớp khất thực".

5. Hạnh chỉ ăn tại một chỗ ngồi (Ekāsanikaṅga), tức là một ngày chỉ ăn một lần, khi đứng lên khỏi chỗ ngồi thì không ăn nữa. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Nānāsanabhojanaṃ paṭikkhipāmi, ekāsanikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ sự ăn ở chỗ khác, tôi nguyện thọ trì hạnh ăn tại một chỗ ngồi".

6. Hạnh ăn trong một bát (Pattapiṇḍikaṅga), tức là chỉ ăn thức ăn có trong bát, không ăn thức ăn khác ngoài bát. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Dutiyabhājanaṃ paṭikkhipāmi, pattapiṇḍikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi xin khước từ thức ăn cái thứ hai, tôi xin thọ trì hạnh ăn trong một bát".

7. Hạnh không ăn hậu thời (Khalupacchābhattikaṅga), tức là khi đã dừng bữa ăn rồi thì không ăn thêm thức ăn khác sau đó nữa. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Atirittabhojanaṃ paṭikkhipāmi, khalupacchābhattikaṅga", nghĩa là: "Tôi xin khước từ tàn thực, tôi nguyện thọ trì hạnh không ăn hậu thời".

8. Hạnh trú ở rừng (Āraññikaṅga), tức là chỉ sống tại khu rừng xa vắng, không cư ngụ ở làng mạc, phố thị. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Gāmantasenāsanaṃ paṭikkhipāmi, āraññikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ trú xứ trong làng mạc, tôi nguyện thọ trì hạnh trú ở rừng".

9. Hạnh cư ngụ gốc cây (Rukkhamūlikaṅga), tức là chỉ sống dưới gốc cây, không ở trong chỗ có che lợp, xây dựng như liêu cốc, tịnh thất, tịnh xá, tự viện... Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Channaṃ paṭikkhipāmi, rukkhamūlikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ chỗ có che lợp, tôi nguyện thọ trì hạnh cư ngụ gốc cây".

10. Hạnh cư ngụ ngoài trống (Abbhokāsikaṅga), tức là chỉ ở ngoài trống không có mái che, cũng không có bóng cây. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Channañca rukkhamūlañca paṭikkhipāmi, abbhokāsikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ chỗ có mái che và gốc cây, tôi nguyện thọ trì hạnh cư ngụ ngoài trống".

11. Hạnh cư ngụ mộ địa (Sosānikaṅga), tức là chỉ ở nơi nghĩa địa, bãi tha ma. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Asusānaṃ paṭikkhipāmi sosānikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ nơi chẳng phải mộ địa, tôi nguyện thọ trì hạnh cư ngụ mộ địa".

12. Hạnh theo chỗ chỉ định (Yathā santhatikaṅga), tức là chấp nhận bất cứ trú xứ nào mà tăng chỉ định, không kén chọn tìm chỗ ở vừa lòng. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Senāsanaloluppaṃ paṭikkhipāmi yathāsanthatikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ sự ham muốn trú xứ, tôi nguyện thọ trì hạnh theo chỗ chỉ định".

13. Hạnh ngồi (Nesajjikaṅga), tức là chỉ trú với oai nghi ngồi, chỉ trú với oai nghi đi, không nằm. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Seyyaṃ paṭikkhipāmi nesajjikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi ngăn oai nghi nằm, tôi nguyện thọ trì hạnh ngồi".

Trình bày các khía cạnh của pháp đầu đà:

A- Nói theo tính chất:

- Ba hạnh tiêu biểu: "Hạnh thứ lớp khất thực" (tiêu biểu cho cả hạnh đi khất thực); "Hạnh ăn tại một chỗ ngồi" (tiêu biểu cho cả hạnh ăn trong một bát và hạnh không ăn hậu thời); "Hạnh cư ngụ ngoài trống" (tiêu biểu cho cả hạnh cư ngụ gốc cây và hạnh theo chỗ chỉ định. Vì một người ngụ ở ngoài trống thì không cần đến trú xứ che lợp và trú xứ chỉ định)

- Năm chi riêng biệt: Hạnh trú ở rừng, hạnh mặc phấn tảo y, hạnh mặc tam y, hạnh cư ngụ mộ địa, và hạnh ngồi.

B- Nói theo sự y cứ:

- Y cứ vật dụng (Paccayanissita) gồm 12 chi trước.

- Y cứ tinh tấn (Viriyanissita) chỉ có 1 chi cuối là hạnh ngồi.

C. Nói theo sự liên quan:

- Hạnh liên quan y phục (Cīvarapaṭisaṃyuttā) gồm 2 chi là hạnh mặc phấn tảo y và hạnh mặc tam y.

- Hạnh liên quan vật thực (Piṇḍapātapaṭisaṃyuttā) gồm 5 chi là hạnh đi khất thực, hạnh thứ lớp khất thực, hạnh ăn tại một chỗ ngồi, hạnh ăn trong một bát, và hạnh không ăn hậu thời.

- Hạnh liên quan trú xứ (Senāsanapaṭisaṃyuttā) gồm 5 chi là hạnh trú ở rừng, hạnh cư ngụ gốc cây, hạnh cư ngụ ngoài trống, hạnh cư ngụ mộ địa, và hạnh theo chỗ chỉ định.

- Hạnh liên quan tinh tấn (Viriyapaṭisaṃyuttā) chỉ có 1 chi là hạnh ngồi.

D- Phân theo thời gian:

- Có giới hạn thời gian: Hạnh cư ngụ gốc cây và hạnh cư ngụ ngoài trống, hai hạnh này chỉ cho phép thọ trì trong thời gian mùa khô (bốn tháng mùa mưa phải tìm trú xứ có che lợp kín đáo).

- Không giới hạn thời gian: Mười hạnh đầu đà, ngoài ra hai hạnh trên, được phép thọ trì bất cứ thời gian nào trong ba mùa (mùa nóng, mùa mưa và mùa lạnh).

E- Phân thứ bậc:

- Đầu đà bậc thượng, là sự thực hành đầu đà tuyệt đối nghiêm khắc, không chấp nhận một điều kiện dễ dãi nào.

- Đầu đà bậc trung, là sự thực hành đầu đà tương đối nghiêm khắc, có thể chấp nhận một trong những điều kiện dễ dãi khi thọ trì gặp khó khăn.

- Đầu đà bậc hạ, là sự thọ trì pháp hành đầu đà tương đối thoải mái, có thể chấp nhận nhiều điều kiện dễ dãi khi thọ trì gặp khó khăn.

F. Mục đích thọ trì:

- Nếu thọ trì hạnh đầu đà mà không giúp cho tiến triển án xứ thiền, trái lại còn làm cho thiện pháp suy giảm, bất thiện pháp tăng trưởng, thì không nên thọ trì.

- Nếu thọ trì hạnh đầu đà mà giúp cho án xứ thiền tiến triển, hoặc có làm cho thiện pháp tăng trưởng, bất thiện pháp suy giảm thì nên thọ trì.

- Nếu thọ trì hạnh đầu đà với tác ý để gieo duyên lành cho kiếp sau, như thế thọ trì cũng tốt.

- Các bậc lậu tận A-la-hán cũng trì hạnh đầu đà, nhưng không phải vì mục đích để khử trừ bất thiện vì các vị A-la-hán đã đoạn trừ phiền não, các vị A-la-hán trì hạnh đầu đà là để làm gương cho người khác.

G- Phân hạng người thọ trì:

- Hàng tỳ-kheo thọ trì được cả 13 hạnh đầu đà.

- Hàng tỳ-kheo ni chỉ thọ trì được 8 hạnh đầu đà, ngoại trừ 5 hạnh là không ăn hậu thời, trú ở rừng, cư ngụ gốc cây, cư ngụ ngoài trống, cư ngụ mộ địa.

- Hàng sa-di thọ trì được 12 hạnh đầu đà, ngoại trừ hạnh mặc tam y.

- Học nữ và sa-di-ni thọ trì được 7 hạnh đầu đà như tỳ-kheo ni, chỉ trừ hạnh mặc tam y.

- Hàng cư sĩ thiện tín chỉ thọ trì được 2 hạnh đầu đà là hạnh ăn tại một chỗ ngồi và hạnh ăn trong một bát.

H- Xuất xứ:

Mười ba pháp đầu đà này có xuất xứ trong chánh tạng và chú giải như sau:

- M.III. 40 có nêu 9 hạnh đầu đà, ngoại trừ hạnh mặc tam y, hạnh thứ lớp khất thực, hạnh ăn trong một bát, hạnh không ăn hậu thời.

- A.V. 219 có nêu 10 hạnh đầu đà, ngoại trừ hạnh mặc tam y, hạnh đi khất thực, hạnh thứ lớp khất thực.

- Nd1. 188 có nêu 8 hạnh đầu đa, ngoại trừ hạnh chỉ ăn tại một chỗ ngồi, hạnh ăn trong một bát, hạnh cư ngụ gốc cây, hạnh cư ngụ ngoài trống, hạnh cư ngụ mộ địa.

- Vin.v. 131,198 có nêu đủ 13 hạnh đầu đà, nhưng chỉ nêu đầu đề.

- Vism. 59-83 giải thích chi tiết 13 pháp đầu đà.

[482] Mười bốn chức năng của thức (Viññāṇakicca), hay phận sự của tâm:

1. Chức năng tục sinh (Paṭisandhi), là việc tái tạo đời sống mới, tâm khởi đầu của kiếp sống mới. Có 19 thứ tâm làm việc tục sinh là 2 tâm thẩm tấn thọ xả, 8 tâm đại quả, 5 tâm quả sắc giới, 4 tâm quả vô sắc.

2. Chức năng hộ kiếp hay hữu phần (Bhavaṅga), là những tâm làm việc tiếp nối duy trì dòng tâm thức trong đời sống; tâm hộ kiếp sẽ hiện khởi khi không có lộ tâm khách quan. Có 19 thứ tâm làm việc hộ kiếp, đó là 19 thứ tâm tục sinh, tâm nào làm việc tục sinh cho đời sống ấy thì chính tâm đó làm việc hộ kiếp cho đời sống ấy.

3. Chức năng tử (Cuti), là tâm làm việc chết hay mạng chung của kiếp sống, hiện khởi sau cùng kiếp sống. Có 19 thứ tâm mạng chung, đó là 19 thứ tâm hộ kiếp, tâm nào làm việc hộ kiếp cho đời sống ấy thì chính tâm đó làm việc tử cho đời sống ấy.

4. Chức năng khai môn (Āvajjana), là phận sự khai mở lộ tâm khách quan để bắt cảnh mới. Có hai thứ tâm làm chức năng này, tâm khai ngũ môn và tâm khai ý môn. Tâm khai ngũ môn khai mở lộ tâm bắt cảnh sắc - thinh - khí - vị - xúc, tâm khai ý môn khai mở lộ tâm bắt cảnh pháp.

5. Chức năng thấy (Dassana), là phận sự biết cảnh sắc. Có 2 tâm làm việc thấy là 2 tâm nhãn thức.

6. Chức năng nghe (Savana), là phận sự biết cảnh thinh. Có 2 tâm làm việc nghe là 2 tâm nhĩ thức.

7. Chức năng ngửi (Ghāyana), là phận sự biết cảnh khí. Có 2 tâm làm việc ngửi là 2 tâm tỷ thức.

8. Chức năng nếm (Sāyana), là phận sự biết cảnh vị. Có 2 thứ là 2 tâm thiệt thức.

9. Chức năng đụng (Phusana), tâm biết cảnh xúc. Có 2 tâm làm việc đụng là 2 tâm thân thức.

10. Chức năng tiếp thâu (Sampaṭicchana), là phận sự nhận giữ cảnh cho lộ tâm ngũ môn. Có 2 tâm làm việc tiếp thâu là 2 tâm tiếp thâu (tên gọi theo phận sự).

11. Chức năng quan sát (Santīrana), là phận sự thẩm tra đối tượng. Có 3 tâm làm việc quan sát là 3 tâm quan sát (tên gọi theo phận sự).

12. Chức năng phân đoán hay đoán định (Voṭṭhapana), là phận sự phân định tính chất của đối tượng. Có 1 tâm làm việc phân đoán là tâm khai ý môn.

13. Chức năng đổng lực (Javana), là phận sự xử lý đối tượng. Có 55 hoặc 87 tâm làm việc đổng lực là 12 tâm bất thiện, 21 hoặc 37 tâm thiện, 18 tâm tố trừ tâm khai môn, 4 hoặc 20 tâm siêu thế. Tâm đổng lực có chức năng rất quan trọng, chính những tâm đổng lực thiện và bất thiện sẽ tác thành nghiệp dị thời sanh quả dị thục, ngoại trừ đổng lực tố và đổng lực quả siêu thế là không thành nghiệp.

14. Chức năng na cảnh (Tadālambana), là phận sự xử lý cảnh dư khi lộ tâm có cảnh rất lớn, rất rõ. Có 11 tâm làm việc na cảnh là 3 tâm quan sát và 8 tâm đại quả. Mặc dù cũng có chức năng xử lý đối tượng như tâm đổng lực nhưng tâm na cảnh không thành nghiệp dị thời.

Mười bốn chức năng của thức khi hiện khởi trong một diễn trình tâm thì chỉ có 10 vị trí (hay gọi là sở thức - Viññānaṭhāna), và trình tự thứ lớp:

Tục sinh - hộ kiếp - khai môn - thấy hoặc nghe hoặc ngửi hoặc nếm hoặc đụng - tiếp thâu - quan sát - phân đoán - đổng lực - na cảnh - tử.

Tục sinh - hộ kiếp - tử là trình tự của tâm chủ quan trong đời sống.

Khai môn - ngũ thức - tiếp thâu - quan sát - phân đoán - đổng lực - na cảnh (có trường hợp chỉ là khai môn - đổng lực - na cảnh), đó là trình tự của tâm khách quan.

Mười bốn sự này trong sớ giải Thanh Tịnh Đạo gọi là thể trạng thức bình nhật (Viññāṇapavatti ākāra).

Vism.457; Comp. 114.

[483] Mười lăm hạnh của Đức Phật (Caraṇa):

1. Đầy đủ giới hạnh (Sīlasampadā)
2. Thu thúc lục căn (Indriyasaṃvara)
3. Tiết độ ẩm thực (Bhojanamattaññutā)
4. Tỉnh thức luôn khi (Jagariyānuyogo)
5. Có đức tin (Saddho)
6. Có tàm (Hirimā)
7. Có quý (Ottappī)
8. Đa văn (Bahussuto)
9. Tinh cần (Āraddhaviriyo)
10. Trú niệm (Upaṭṭhitasati)
11. Có trí tuệ (Paññavā)
12. Chứng sơ thiền (Paṭhamajjhāna)
13. Chứng nhị thiền (Dutiyajjhāna)
14. Chứng tam thiền (Tatiyajjhāna)
15. Chứng tứ thiền (Catutthajjhāna).

Mười lăm hạnh này là pháp tánh của Đức Phật, một vị Phật là vị có hồng danh Minh Hạnh Túc (Vijjacaranasampanno), hạnh túc ở đây là đủ 15 hạnh tự nhiên như vậy.

Mười lăm hạnh này trong kinh còn gọi là Hữu học hạnh (Sekhapaṭipadā), là pháp hành của bậc hữu học để đạt đến giải thoát.

Trong mười lăm hạnh này, hạnh 2, 3, 4 gọi là Pháp hành bất vạy (Apaṇṇakapatipadā), hạnh 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 gọi là Diệu pháp (Saddhamma); hạnh 12, 13, 14, 15 gọi Pháp thiền (Jhāna).

M.I.354.

[484] Mười sáu trí (Soḷasañāṇa) hay tuệ Minh Sát (Vipassanāñāṇa):

1. Tuệ phân biệt danh sắc (Nāmarūpaparicchedañāṇa), trí biết rõ cái gọi là chúng sanh chỉ gồm danh và sắc; đồng thời phân định được cái gì là danh cái gì là sắc.

2. Tuệ duyên đạt (Paccayapariggahañāṇa), trí biết rõ duyên khởi của danh sắc, biết rõ danh sắc có mặt do y tương sinh, hay do nghiệp sanh.

3. Tuệ phổ cập tướng (Sammasanañāṇa), trí biết rõ danh sắc có thực trạng vô thường tướng, khổ tướng và vô ngã tướng.

4-12. Xem chín tuệ quán [438].

13. Tuệ chuyển tộc (Gotrabhūñāṇa), trí khởi lên là giao điểm giữa phàm tánh và thánh tánh, đây vẫn còn là phàm trí.

14. Tuệ đạo (Maggañāṇa), thánh trí siêu thế có mãnh lực sát trừ phiền não.

15. Tuệ quả (Phalañāṇa), thánh trí siêu thế do thánh đạo sanh, có công năng chứng ngộ níp-bàn.

16. Tuệ phản khán (Paccavekkhanañāṇa), là trí dục giới của bậc đã đắc đạo quả quán xét lại các phiền não đã tuyệt trừ, quán xét lại đạo quả đã đắc, quán xét lại níp-bàn đã tỏ ngộ.

Trong 16 tuệ minh sát này, chỉ có tuệ đạo và tuệ quả là trí siêu thế; 14 tuệ minh sát còn lại là trí hiệp thế.

Việc trình bày 16 tuệ minh sát với tên gọi xếp thứ tự như vậy không có xuất xứ trong chánh tạng, mà do các vị Axàlê thiền sư đã truyền dạy bằng cách thu thập ý nghĩa từ bộ Vô Ngại Giải đạo (Paṭisambhidāmagga) và bộ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga).

Ps.1: Vism. 587-678.

[485] Mười sáu cấu uế của tâm (Cittūpakilesa)

1. Tham lam (Abhijjhā, visamalobha)
2. Sân hận (Byāpāda, dosa)
3. Phẫn nộ (Kodha)
4. Oán thù (Upanāha)
5. Phản phúc (Makkha)
6. Hiểm độc (Palāsa)
7. Ganh tỵ (Issā)
8. Bỏn xẻn (Macchariya)
9. Man trá (Māyā)
10. Xảo quyệt (Sātheyya)
11. Ương ngạnh (Thambha)
12. Hiếu tranh (Sārambha)
13. Ngã mạn (Māna)
14. Quá mạn (Atimāna)
15. Kiêu ngạo (Mada)
16. Cẩu thả (Pamāda).

M.I.36.

[486] Mười tám giới, bản chất (Dhātu):

1. Nhãn giới (Cakkhudhātu), là thần kinh nhãn hay mắt.
2. Sắc giới (Rūpadhātu), là cảnh sắc, đối tượng của mắt.
3. Nhãn thức giới (Cakkhuviññāṇadhātu), là tâm nhãn thức, cái biết của mắt.

4. Nhĩ giới (Sotadhātu), là thần kinh nhĩ hay tai.
5. Thinh giới (Saddadhātu), là cảnh thinh, đối tượng của tai.
6. Nhĩ thức giới (Sotaviññāṇadhātu), là tâm nhĩ thức, cái biết của tai.

7. Tỷ giới (Ghānadhātu), là thần kinh tỷ hay mũi.
8. Khí giới (Gandhadhātu), là cảnh khí, đối tượng của mũi.
9. Tỷ thức giới (Ghānaviññāṇadhātu), là tâm tỷ thức, cái biết của mũi.

10. Thiệt giới (Jivhādhātu), là thần kinh thiệt hay lưỡi.
11. Vị giới (Rasadhātu), là cảnh vị, đối tượng của lưỡi.
12. Thiệt thức giới (Jivhāviññāṇadhātu), là tâm thiệt thức, cái biết của lưỡi.

13. Thân giới (Kāyadhātu), là thần kinh thân hay thân thể.
14. Xúc giới (Phoṭṭhabbadhātu), là cảnh xúc, đối tượng của thân.
15. Thân thức giới (Kāyaviññāṇadhātu), là tâm thân thức, cái biết của thân.

16. Ý giới (Manodhātu), là tâm môi giới cho sáu thức, gồm có 2 tâm tiếp thâu và tâm khai ngũ môn.
17. Pháp giới (Dhammadhātu), chính là pháp xứ, là những pháp thực tính có bản chất cá biệt vi tế, gồm 52 tâm sở, 16 sắc tế và níp-bàn. Pháp giới không phải là cảnh pháp (dhammārammaṇa), bởi cảnh pháp gồm cả 121 tâm, 12 sắc thô và chế định, còn pháp giới và pháp xứ thì hạn chế chi pháp.
18. Ý thức giới (Manoviññāṇadhātu), là những tâm ngoài ngũ song thức và 3 tâm ý giới. Có đến 108 ý thức giới.

Vbh.87; Vism.484; Comp.183.

[487] Hai mươi hai quyền (Indriya):

Quyền là khả năng trong một lĩnh vực, pháp nào có chức năng riêng, tính năng đặc biệt, pháp ấy gọi là quyền.

1. Nhãn quyền (Cakkhundriya), là chức năng bắt cảnh sắc, tức là thần kinh nhãn.
2. Nhĩ quyền (Sotindriya), là chức năng bắt cảnh thinh, tức là thần kinh nhĩ.
3. Tỷ quyền (Ghānindriya), là chức năng bắt cảnh khí, tức là thần kinh tỷ.
4. Thiệt quyền (Jivhindriya), là chức năng bắt cảnh vị, tức là thần kinh thiệt.
5. Thân quyền (Kāyindriya), là chức năng bắt cảnh xúc, tức là thần kinh thân.
6. Ý quyền (Manindriya), là chức năng biết cảnh hay nhận thức đối tượng, tức là tất cả tâm.

7. Nữ quyền (Itthindriya), là chức năng thể hiện tính cách của giống cái, tức là sắc nữ tính.
8. Nam quyền (Purisindriya), là chức năng thể hiện tính cách của giống đực, tức là sắc nam tính.
9. Mạng quyền (Jīvitindriya), là chức năng duy trì sự sống còn của danh pháp đồng sanh và sắc pháp, đây chỉ cho tâm sở mạng quyền, sắc mạng quyền.

10. Lạc quyền (Sukhindriya), là chức năng làm cho thân được cảm giác thoải mái, tức là tâm sở lạc thọ.
11. Khổ quyền (Dukkhindriya), là chức năng làm cho thân bị cảm giác khó chịu, tức là tâm sở khổ thọ.
12. Hỷ quyền (Somanassindriya), là chức năng làm cho tâm sảng khoái, tức là tâm sở hỷ thọ.
13. Ưu quyền (Domanassindriya), là chức năng làm cho tâm bực bội, tức là tâm sở ưu thọ.
14. Xả quyền (Upekkhindriya), là chức năng làm cho tâm có cảm giác thản nhiên, tức là tâm sở xả thọ.

15. Tín quyền (Saddhindriya), là chức năng thanh lọc, làm cho tâm trở nên trong sáng, tức là tâm sở tín.
16. Tấn quyền (Viriyindriya), là chức năng kích động, làm cho tâm hăng hái, tức là tâm sở cần.
17. Niệm quyền (Satindriya), là chức năng ghi nhớ, làm cho tâm chú ý đối tượng, tức là tâm sở niệm.
18. Định quyền (Samādhindriya), là chức năng tập trung, làm cho tâm trụ vào đối tượng, tức là tâm sở nhất hành.
19. Tuệ quyền (Paññindriya), là chức năng thẩm thấu, làm cho tâm sáng suốt biết cảnh, tức là tâm sở tuệ.

20. Tri vị tri quyền (Anaññataññassāmītindriya), là trí biết điều chưa từng biết, tức là trí sơ đạo, vì đây là thánh trí đầu tiên biết cảnh níp-bàn mà trí phàm phu chưa từng biết.
21. Dĩ tri quyền (Aññindriya), là trí biết cái đã từng biết, tức là trí hữu học từ sơ quả đến tứ đạo, trí hữu học này biết cảnh níp-bàn mà trí sơ đạo đã biết rồi.
22. Cụ tri quyền (Aññātāvindriya), là trí biết viên mãn, trí biết đầy đủ toàn diện về phương diện giải thoát. Đây là trí tứ quả hay thánh trí quả A-la-hán.

Hai mươi hai quyền này được trình bày và giải thích đầy đủ trong tạng Vi Diệu Pháp bộ Phân Tích (Vibhaṅga), cũng có trong 2 bộ sớ giải Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) và Thắng Pháp Tập Yếu Luận (Abhidhammatthasaṅgaha). Ở kinh tạng chỉ thấy trình bày trong Tương ưng bộ phẩm Tương ưng quyền (S.v.193-243), nhưng nói từng phần rải rác.

Hai mươi hai quyền này phân theo danh sắc như sau:

- Có 8 quyền thuộc sắc pháp là 1, 2, 3, 4, 5, 7, 8, và 9.

- Có 15 quyền thuộc danh pháp (6, 9, cho đến 22).

- Mạng quyền (số 9) thì gồm cả danh và sắc.

Vbh.122; Vism. 491; Comp.175.

[488] Hai mươi tám sắc pháp (Rūpa):

Sắc pháp là pháp thực tính thuộc vật chất, sắc pháp là sắc uẩn (Rūpakhandha). Sắc pháp gồm 2 phần là 4 sắc đại hiển và 24 sắc y sinh.

4 sắc đại hiển (Mahābhūtarūpa):

1. Đất (Pathavī)
2. Nước (Āpo)
3. Lửa (Tejo)
4. Gió (Vāyo)

24 sắc y sinh (Upādārūpa):

1. Nhãn (Cakkhu)
2. Nhĩ (Sota)
3. Tỷ (Ghāna)
4. Thiệt (Jivhā)
5. Thân (Kāya)

(Năm sắc này gọi là sắc thần kinh).

6. Cảnh sắc (Rūpa)
7. Cảnh thinh (Sadda)
8. Cảnh khí (Gandha)
9. Cảnh vị (Rasa)

(Cảnh xúc: đất, lửa, gió thuộc sắc đại hiển. Bảy sắc này được gọi là sắc cảnh giới hay sắc đối tượng gocararūpa hay visayarūpa).

10. Sắc nữ tính (Itthatta)
11. Sắc nam tính (Purisatta)

(Hai sắc này được gọi là sắc tính hay sắc trạng thái - bhāvarūpa).

12. Sắc ý vật (Hadayavatthu)

(Sắc này cũng gọi là hadayarūpa - sắc trái tim; trong chánh tạng bộ Paṭṭhāna chỉ gọi sắc này là vatthu để nói đến sắc ý vật).

13. Sắc mạng quyền (Jīvitindriya). (Sắc này còn được gọi là jīvitarūpa - sắc mạng).
14. Sắc đoàn thực (Kabaliṅkārāhāra). (Sắc này còn được gọi là āhārarūpa - sắc vật thực).
15. Sắc hư không giới (Ākāsadhātu). (Sắc này còn được gọi là paricchedarūpa - sắc giao giới).
16. Sắc thân biểu tri (Kāyaviññatti)
17. Sắc khẩu biểu tri (Vacīviññatti)

(Hai sắc này gọi chung là sắc biểu tri viññattirūpa).

18. Sắc khinh (Lahutā)
19. Sắc nhu (Mudutā)
20. Sắc thích nghiệp (Kammaññatā)

(Ba sắc này gọi chung là sắc đặc biệt vikāra-rūpa).

21. Sắc sinh, tính tập (Upacaya)
22. Sắc tiến, thừa kế (Santati)
23. Sắc dị, lão mại (Jaratā)
24. Sắc diệt, vô thường (Aniccatā)

(Bốn sắc này gọi chung là sắc tướng hay sắc trạng thái - lakkhanarūpa)

Trong 28 sắc pháp, từ sắc đất cho đến sắc đoàn thực, gọi là 18 sắc thành tựu hay sắc rõ (Nipphannarūpa); từ sắc hư không cho đến sắc diệt, gọi là 10 sắc phi thành tựu hay sắc không rõ (Anipphannarūpa)

Vism.443; Comp. 154, 155.

[489] Ba mươi mốt cõi (Bhūmi):

Cõi là lãnh vực sinh hoạt của chúng sanh, là chỗ nương sống của các loài hữu tình:

1. Cõi địa ngục (Niraya)
2. Cõi bàng sanh (Tiracchānayoni)
3. Cõi ngạ quỉ (Pittivisaya)
4. Cõi atula (Asurakāya)

Bốn cõi này gọi chung là cõi khổ hay đọa xứ (Apāyabhūmi).

5. Cõi nhân loại (Manussa)
6. Cõi tứ đại thiên vương (Catummahārājika)
7. Cõi đao lợi (Tāvatiṃsa, tettiṃsā)
8. Cõi dạ ma (Yāmā)
9. Cõi đâu suất (Tusita)
10. Cõi hóa lạc (Nimmānaratī)
11. Cõi tha hóa tự tại (Paranimmitavasavattī).

Bảy cõi này gọi chung là cõi vui dục giới, (Kāmasugatibhūmi). Bốn cõi khổ và bảy cõi vui dục giới này được gọi là 11 cõi dục giới (Kāmāvacara-bhūmi, hay kāmaloka).

12. Cõi Phạm chúng thiên (Brahmapārisajjā)
13. Cõi Phạm phụ thiên (Brahmapurohitā)
14. Cõi Đại phạm thiên (Mahābrahmā)

Ba cõi này gọi là cõi sơ thiền (Paṭhamajjhānabhūmi).

15. Cõi thiểu quang thiên (Parittābhā)
16. Cõi vô lượng quang thiên (Appamāṇābhā)
17. Cõi quang âm thiên (Ābhassarā)

Ba cõi này gọi là cõi nhị thiền (Dutiyajjhānabhūmi)

18. Cõi thiểu tịnh thiên (Parittasubhā)
19. Cõi vô lượng tịnh thiên (Appamāṇasubhā)
20. Cõi biến tịnh thiên (Subhakiṇhā)

Ba cõi này gọi là cõi tam thiền (Tatiyajjhānabhūmi).

21. Cõi quảng quả thiên (Vehapphalā)
22. Cõi vô tưởng thiên (Asaññīsatta)
23. Cõi vô phiền thiên (Avihā)
24. Cõi vô nhiệt thiên (Atappā)
25. Cõi thiện kiến thiên (Sudassana)
26. Cõi thiện hiện thiên (Sudassī)
27. Cõi sắc cứu cánh thiên (Akiniṭṭhā)

Bảy cõi này gọi là cõi tứ thiền (Catutthajjhānabhūmi). Riêng năm cõi từ vô phiền thiên đến sắc cứu cánh thiên được gọi là cõi tịnh cư (suddhāvāsa), là năm cõi của bậc thánh A-na-hàm sanh lên.

Ba cõi sơ thiền, ba cõi nhị thiền, ba cõi tam thiền và bảy cõi tứ thiền, gọi chung là 16 cõi sắc giới, (Rūpāvācarabhūmi, hay rūpaloka).

28. Cõi không vô biên xứ (Ākāsānañcāyatanabhūmi).
29. Cõi thức vô biên xứ (Viññāṇañcāyatanabhūmi).
30. Cõi vô sở hữu xứ (Ākiñcaññāyatanabhūmi)
31. Cõi phi tưởng phi phi tưởng xứ (Nevasaññānāsaññāyatanabhūmi).

Bốn cõi này được gọi là cõi vô sắc giới (Arūpāvacarabhūmi hay arūpaloka).

Các bậc thánh không có mặt trong cõi vô tưởng và bốn cõi khổ.

Hạng phàm phu và hai bậc hữu học thấp không có mặt trong năm cõi tịnh cư.

Hai mươi mốt cõi phàm vui hữu tâm đều có mặt các hạng phàm và thánh.

Trong trường bộ kinh trình bày sanh vức của loài hữu tình chỉ có 5 cõi là địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ, nhân loại và thiên giới. Cõi thiên giới ở đây gồm cả cõi chư thiên dục giới, cõi phạm thiên sắc giới và cõi phạm thiên vô sắc giới. Sở dĩ trong 5 sanh vức thiếu Atula vì Atula được kể chung vào cõi ngạ quỉ (theo chú giải của Itivuttaka).

Trong 5 sanh vức ấy, địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ là khổ cảnh, nhân loại và thiên giới là nhàn cảnh.

Comp. 137.

[490] Ba mươi hai tướng đại nhân (Mahāpurisalakkhaṇa):

Người có 32 đại nhân tướng này chỉ có hai hạng là bậc Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddho) và vua Chuyển Luân Vương (Cakkavattirājā).

1. Lòng bàn chân bằng phẳng.
2. Dưới lòng bàn chân có chỉ hiện ra hình bánh xe với đầy đủ các bộ phận, vành xe, đùm xe và 1000 căm xe.
3. Gót chân thon dài.
4. Ngón tay ngón chân suông dài.
5. Tay chân mềm mại.
6. Tay chân có chỉ giăng như màn lưới.
7. Mắt cá chân dáng như vỏ sò.
8. Ống chân thon thả như chân hươu.
9. Cánh tay dài có thể đứng thẳng người mà sờ tới gối.
10. Ngọc hành ẩn kín trong bọc da.
11. Da màu sáng như vàng ròng.
12. Da thật láng mịn, bụi bặm không bám.
13. Mỗi lỗ chân lông mọc chỉ một sợi lông.
14. Lông mọc hướng về phía trên, các lông màu xanh đen và ngọn xoáy tròn theo chiều phải.
15. Thân hình ngay thẳng như thân phạm thiên.
16. Trên thân bảy chỗ thịt đầy đặn không khuyết lõm; bảy chỗ là cổ, 2 lưng bàn tay, 2 lưng bàn chân, 2 vai.
17. Nửa thân trên tựa như mình sư tử hẩu.
18. Lưng bằng phẳng.
19. Thân cân đối như cây bàng, thân cao bằng sải tay và sải tay dài bằng thân.
20. Vị giác nhạy bén, lưỡi dễ dàng hấp thụ hương vị thức ăn.
21. Cần cổ tròn trịa, thẳng đều.
22. Cằm tròn như cằm sư tử.
23. Có 40 cái răng, mỗi hàm 20 cái.
24. Răng mọc đều và bằng, không có cao thấp.
25. Răng mọc khít khao, không hở.
26. Bốn cái răng nhọn thật trắng sạch .
27. Lưỡi rộng và dài.
28. Tiếng nói trong và ấm, rõ ràng như tiếng nói phạm thiên, hay như tiếng chim Karavika.
29. Tròng mắt đen huyền.
30. Lông mi dài mịn như mi mắt con bê.
31. Giữa đôi lông mày có chùm lông trắng mềm như bông.
32. Đầu có nhục kế, xương đỉnh đầu nổi vung lên trông như đội mão.

D.III.143. Lakkhaṇasutta.

[491] Ba mươi bảy phẩm bồ-đề (Bodhipakkhiyadhamma):

Gồm có bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, tám thánh đạo. Xem [383]. Bảy nhóm pháp đảng giác.

[492] Ba mươi tám điều kiết tường (Maṅgala) pháp đưa đến sự hạnh phúc, pháp an lành, cũng gọi là điều lành cao thượng (Uttamamaṅgala hay maṅgalamuttama):

Ba mươi tám điều kiết tường này được Đức Phật thuyết thành 10 bài kệ (Gāthā) trong bài kinh (Maṅgalasutta):

Bài kệ 1

1. Không thân cận kẻ ngu (Asevanā ca balānaṃ)
2. Thân cận bậc hiền trí (Paṇḍitānaṃ ca sevanā)
3. Cúng dường bậc đáng cúng (Pūjā ca pūjaniyānaṃ)

Bài kệ 2

4. Cư trú chỗ thích đáng (Paṭirūpadesavāso)
5. Đã từng tạo phước báu (Pubbe ca katapuññatā)
6. Tự lập trường chân chánh (Attasammāpa-nidhi).

Bài kệ 3

7. Có học rộng đa văn (Bāhusaccañca)
8. Có nghề nghiệp tinh thục (Sippañca)
9. Khéo tuân thủ luật lệ (Vinayo ca susikkhito)
10. Lời nói thuộc thiện ngôn (Subhāsitā ca yā vācā).

Bài kệ 4

11. Phụng dưỡng mẹ cha (Mātāpitu upaṭṭhānaṃ)
12. Tiếp độ con (Puttassa saṅgaho)
13. Tiếp độ vợ (Dārassa saṅgaho)
14. Làm việc không tắc trách (Anākulā ca kammantā).

Bài kệ 5

15. Bố thí xả tài (Dānañca)
16. Thực hành thiện pháp (Dhammacariyā)
17. Tiếp độ quyến thuộc (Ñātakānañca saṅgaho)
18. Tạo nghiệp vô tội (Anavajjāni kammāni)

Bài kệ 6

19. Kiêng tránh điều ác (Āratī viratī pāpā)
20. Cai nghiện rượu chè (Majjapaṇā ca saññamo)
21.Không dể duôi thiện pháp (Appamādo ca dhammesu)

Bài kệ 7

22. Kính trọng người (Gāravo ca)
23. Sống khiêm tốn (Nivāto ca)
24. Sống tri túc (Santuṭṭhī ca)
25. Biết tri ân (Kataññū)
26. Nghe pháp đúng thời (Kālena dhammassavanaṃ).

Bài kệ 8

27. Kham nhẫn (Khantī ca)
28. Dễ dạy (Sovacassatā)
29. Diện kiến bậc sa môn (Samaṇānañca dassanaṃ)
30. Luận pháp đúng thời (Kālena dhammasā kacchā).

Bài kệ 9

31. Sống khắc kỷ (Tapo ca)
32. Sống phạm hạnh (Brahmacariyañca)
33. Tỏ ngộ thánh đế (Ariyasaccāna dassanaṃ)
34. Tác chứng níp-bàn (Nibbānasacchikiriyā ca)

Bài kệ 10

35. Tâm không động khi va chạm pháp đời (Phuṭṭhassa lokadhammehi cittaṃ yassa na kampati)
36. Tâm không sầu (Asokaṃ)
37. Tâm vô nhiễm (Virāgaṃ)
38. Tâm tự tại (Khemaṃ).

Ba mươi tám điều kiết tường này nếu được thực hành theo sẽ thắng hoá trong mọi nơi, và sẽ được an lành trong mọi hoàn cảnh. Đó là pháp kiết tường tối thượng ở đời.

Kh.V.3:Sn.259-268.

[493] Bốn mươi nghiệp xứ (Kammaṭṭhāna), đề mục thiền, án xứ cho việc tu thiền chỉ:

- 10 đề mục biến xứ (Kasina), xem [444].

- 10 đề mục bất mỹ (Asubha), xem [464].

- 10 đề mục tùy niệm (Anussati), xem [463].

- 4 đề mục phạm trú (Brahmavihāra), xem [212].

- 1 đề mục tưởng nhàm chán vật thực (Āhāra paṭikūlasaññā), là suy tưởng tính chất đáng nhờm gớm trong thức ăn do quá trình hình thành cho đến tiêu hóa và thải ra.

- 1 đề mục phân định bốn chất (Catudhātuvavaṭṭhāna), là xác định trong thân này có bốn đại, cái gì thuộc về đất, cái gì thuộc về nước, cái gì thuộc về lửa, cái gì thuộc về gió.

- 4 đề mục vô sắc (Arūpa), gồm có đề mục "Không vô biên xứ" (Khái niệm hư không là không giới hạn), đề mục "Thức vô biên xứ" (Khái niệm tâm thức là không giới hạn), đề mục "Vô sở hữu xứ" (Khái niệm phủ nhận sự vô biên của hư không và tâm thức), đề mục "Phi tưởng phi phi tưởng xứ" (Khái niệm vừa phủ nhận vừa chấp nhận sự có mặt của tâm thức).

Sự phân định đề mục theo sự tu thiền, xin xem [117] ba sự tu tiến. Sự phân định đề mục theo cá tính, xem [356] sáu cá tính.

Vism. 110; Comp. 204.

[494] Năm mươi hai tâm sở (Cetasika):

Tâm sở hay sở hữu tâm là những thuộc tính của tâm, luôn luôn đồng sanh - đồng diệt - đồng biết cảnh với tâm, gọi là pháp tương ưng tâm.

1. Xúc (Phassa)
2. Thọ (Vedanā)
3. Tưởng (Saññā)
4. Tư (Cetanā)
5. Nhất hành (Ekaggatā)
6. Mạng quyền (Jīvitindriya)
7. Tác ý (Manasikāra)

Bảy tâm sở này gọi chung là tâm sở biến hành (Sabbacittasādhāraṇacetasika)

8. Tầm (Vitakka)
9. Tứ (Vicāra)
10. Thắng giải (Adhimokkha)
11. Cần (Viriya)
12. Hỷ (Pīti)
13. Dục (Chanda)

Sáu tâm sở này gọi là tâm sở biệt cảnh (Pakiṇṇaka-cetasika).

Bảy tâm sở biến hành và sáu tâm sở biệt cảnh gồm lại gọi là 13 tâm sở tợ tha (Aññasamāna-cetasika).

14. Si (Moha)
15. Vô tàm (Ahirika)
16. Vô quý (Anottappa)
17. Phóng dật (Uddhacca)

Bốn tâm sở này được gọi là tâm sở bất thiện biến hành (Sabbākusalasadhāraṇa-cetasika). Cũng gọi nhóm 4 tâm sở này là tâm sở si phần (Mocatuka-cetasika).

18. Tham (Lobha)
19. Tà kiến (Diṭṭhi)
20. Kiêu mạn (Māna)

Ba tâm sở này gọi là nhóm tham phần (Lotika-cetasika).

21. Sân (Dosa)
22. Tật (Issā)
23. Lận (Macchariya)
24. Hối (Kukkucca)

Bốn tâm sở này gọi là nhóm sân phần (Docatuka-cetasika).

25. Hôn trầm (Thīna)
26. Thụy miên (Middha)

Hai tâm sở này gọi là nhóm hôn phần (Thīduka-cetasika).

27. Hoài nghi (Vicikicchā)

Mười tâm sở kể từ tham phần, sân phần, hôn phần và hoài nghi, được gọi là những tâm sở bất thiện biệt cảnh (Pakiṇṇakākusala-cetasika).

Bốn tâm sở bất thiện biến hành và mười tâm sở bất thiện biệt cảnh gộp chung gọi là 14 tâm sở bất thiện (Akusala-cetasika).

28. Tín (Saddhā)
29. Niệm (Sati)
30. Tàm (Hiri)
31. Quý (Ottappa)
32. Vô tham (Alobha)
33. Vô sân (Adosa)
34. Trung hòa (Tatramajjhattatā)
35. Tịnh thân (Kāyapassaddhi)
36. Tịnh tâm (Cittapassaddhi)
37. Khinh thân (Kāyalahutā)
38. Khinh tâm (Cittalahutā)
39. Nhu thân (Kāyamudutā)
40. Nhu tâm (Cittamudutā)
41. Thích thân (Kāyakammaññatā)
42. Thích tâm (Cittakammaññatā)
43. Thuần thân (Kāyapāguññatā)
44. Thuần tâm (Cittapāguññatā)
45. Chánh thân (Kāyujukatā)
46. Chánh tâm (Cittujukatā)

Mười chín tâm sở này được gọi là tâm sở tịnh hảo biến hành (Sobhaṇasādhāraṇa-cetasika)

47. Chánh ngữ (Sammāvācā)
48. Chánh nghiệp (Sammākammanta)
49. Chánh mạng (Sammā-ājīva)

Ba tâm sở này được gọi là tâm sở giới phần hay ngăn trừ phần (Viratī-cetasika)

50. Bi (Karuṇā)
51. Tùy hỷ (Muditā)

Hai tâm sở này được gọi là tâm sở vô lượng phần (Appamaññā-cetasika).

52. Tuệ quyền (Paññindriya)

Tâm sở này cũng gọi là tâm sở vô si (Amoha-cetasika), hoặc thường gọi là tâm sở trí tuệ (Paññā-cetasika).

Tâm sở giới phần, vô lượng phần và tuệ quyền, gọi là 6 tâm sở tịnh hảo biệt cảnh (Pakiṇṇakasobhana-cetasika).

Mười chín tâm sở tịnh hảo biến hành và sáu tâm sở tịnh hảo biệt cảnh, gộp chung gọi là 25 tâm sở tịnh hảo (Sobhaṇa-cetasika).

Comp. 94

[495] Tám mươi phụ tướng (Anubyañjanā) nét đẹp của Đức Phật:

1. Tóc đen và mượt.
2. Tóc có mùi thơm tự nhiên.
3. Hương tóc luôn thơm tỏa.
4. Tóc xoắn tròn.
5. Tóc luôn luôn xoắn về bên phải.
6. Tóc mịn màng.
7. Tóc mọc không bị rối.
8. Tóc thuần màu đen, không bị hoe hay bạc, dù lúc tuổi già.
9. Tóc lông của Phật luôn luôn mọc ép sát, không dựng lên như người thường.
10. Lông trên thân ngài có màu xanh đen.
11. Các sợi lông đều dài bằng nhau.
12. Lông mọc trật tự không nghiêng ngả.
13. Đôi lông mày của ngài cong hình cánh cung.
14. Đuôi lông mày kéo dài đến tận đuôi mắt.
15. Lông mày lớn và đậm.
16. Lông mày mọc thứ lớp xếp lên nhau.
17. Lông mày rất mịn.
18. Răng sạch sẽ tự nhiên không cáu bợn.
19. Răng trắng bóng như xà cừ.
20. Bốn răng nhọn tròn và sạch.
21. Răng trơn láng, không có dấu hằn khuyết.
22. Da thịt của ngài luôn luôn mát
23. Da thịt của ngài luôn luôn căng đầy, không có nếp nhăn dù ở chạn tuổi nào.
24. Làn da của ngài trơn láng đến mức bụi bặm không bám dính được.
25. Tròng mắt của ngài có năm đồng tử (con ngươi) với năm màu trong suốt (thị lực cực mạnh có thể nhìn thấy một hạt mè ở cách xa 1 do tuần dù trong đêm tối).
26. Hai hố mắt rộng và dài bằng nhau.
27. Lỗ tai trong tròn đều.
28. Vành tai dài và đẹp như cánh sen.
29. Sống mũi cao và thẳng.
30. Cánh mũi kiểu dáng thanh tú.
31. Lưỡi mềm mại và đỏ thắm.
32. Lưỡi có kiểu dáng đẹp nhất.
33. Hơi thở của ngài rất nhẹ nhàng.
34. Đôi môi đều đặn và luôn tươi thắm
35. Đôi môi ngài lúc nào cũng hàm tiếu.
36. Miệng ngài luôn có mùi thơm của hoa sen.
37. Vầng trán ngài rộng cân đối.
38. Trán của ngài là kiểu trán đẹp nhất.
39. Khuôn mặt ngài thon thả một cách cân đối, không mập, không ốm.
40. Lưỡng quyền đầy đặn nhưng khuất kín .
41. Lưỡng quyền của ngài là kiểu lưỡng quyền đẹp nhất.
42. Đầu của ngài trông như chiếc tán lọng bằng ngọc.
43. Nhục kế (đỉnh đầu) phát sáng cả ngày đêm.
44. Ngũ quan của ngài rất thanh khiết.
45. Eo lưng rõ rệt, bụng thót không xệ.
46. Lỗ rún tròn trịa tuyệt đối.
47. Trên da bụng có nếp da xoáy tròn về bên phải.
48. Tay chân ngài đầy đặn tròn trịa.
49. Các ngón tay chân của ngài sáng ánh.
50. Các ngón tay chân thon dài đều đặn.
51. Các ngón tay chân dáng đẹp như được thợ điêu khắc trau chuốt.
52. Các móng tay chân có màu hồng.
53. Các đầu móng tay chân thẳng vút tự nhiên không gãy quặp.
54. Bề mặt móng tay chân nổi tròn bóng láng không bì lằn khuyết.
55. Đầu gối tròn trịa không lộ xương ra dù ở tư thế nào.
56. Bắp chân trông giống như cây chuối vàng, thẳng ngay một cách hoàn chỉnh.
57. Đôi chân bằng nhau tuyệt đối, không chênh lệch lớn nhỏ cao thấp dù chỉ một li.
58. Cánh tay ngài co duỗi uyển chuyển như vòi voi Erāvaṇa của Đế Thích cưỡi.
59. Các đường chỉ tay luôn đỏ hồng.
60. Đường chỉ tay sâu đậm.
61. Đường chỉ tay, đường nào ra đường đó, kéo dài không đứt quãng.
62. Đường chỉ tay chạy thẳng, không gẫy chấp.
63. Ngài có thân tướng nam nhân hoàn hảo, không có một bộ phận hay một cử chỉ nào giống nữ giới.
64. Các bộ phận thân thể của ngài đều tuyệt hảo đến mức độ nhìn tưởng đến pho tượng thẩm mỹ.
65. Trên thân ngài, thịt da được phân bố thích hợp từng chỗ, không thiếu không thừa.
66. Toàn thân ngài không hề có một nốt ruồi hay dấu tàn nhang, dù nhỏ.
67. Thân thể ngài hoàn toàn cân đối.
68. Thân lực (sức mạnh của thân) của Đức Phật bằng sức 10 con voi Chaddanta. Theo chú giải, sức 1 con voi Chaddanta bằng 10 con voi Uposatha, 1 con voi Uposatha bằng 10 con voi Hema, 1 con voi Hema bằng 10 con voi Maṅgala, 1 con voi Maṅgala bằng 10 con voi Gandha, 1 con voi Gandha bằng 10 con voi Piṅgala, 1 con voi Piṅgala bằng 10 con voi Tamaba, 1 con voi Tamaba bằng 10 con voi Paṇḍhara, 1 con voi Paṇḍhara bằng 10 con voi Gaṅgeyya, 1 con voi Gaṅgeyya bằng 10 con voi Kālāvaka, 1 con voi Kālāvaka bằng 10 con voi thường.
69. Báu thân của Đức Phật luôn luôn có vầng sáng tỏa ra trừ khi ngài muốn giấu kín.
70. Thân ngài tự nhiên có hào quang do phước, không phải do thần thông.
71. Thân ngài luôn luôn sung mãn tươi mát dù ở chạn tuổi già.
72. Thân ngài luôn luôn tinh khiết.
73. Thân ngài có mùi thơm tự nhiên.
74Ṭhân ngài không hề có chỗ thô cứng, chai sượng.
75.Khắp châu thân ngài được phủ kín bởi những lông tơ mịn.
76. Khi ngài bước đi, luôn luôn nhấc chân phải trước.
77. Ngài có dáng đi đường bệ kỳ vĩ như voi chúa.
78. Ngài có dáng đi hiên ngang oai dũng như sư tử chúa.
79. Ngài có dáng đi nhẹ nhàng thanh thoát như con hạc chúa.
80. Ngài có dáng đi uy nghiêm chậm rãi như con bò chúa.

Trích từ Paṭhamabodhikathā.

[496] Tám mươi chín tâm (Citta):

Tâm là sự biết cảnh, nhận thức đối tượng; tâm là thành phần thức uẩn, một trong năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức), tâm là một trong bốn pháp chân đế Paramatthasacca (Tâm, Tâm sở, Sắc pháp và Níp-bàn). Tâm có nhiều tên gọi khác nữa như mano (ý), viññāṇā (thức), mānasa (tâm địa), hadaya (tâm tạng), paṇḍara (bạch tịch)... tùy theo chỗ dùng mà gọi.

Tâm nói hẹp có 89 thứ, nói rộng có đến 121 thứ; được phân thành 5 nhóm như sau:

I- Tâm bất thiện (Akusalacitta), gồm 12 thứ

I.1. Tám tâm tham (Lobhamūlacitta) là:

a) Tâm câu hành hỷ hợp tà kiến vô trợ (Somanassasahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

b) Tâm câu hành hỷ hợp tà kiến hữu trợ (Somanassasahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ sasaṅkhāri kaṃ).

c) Tâm câu hành hỷ ly tà kiến vô trợ (Somanassasahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

d) Tâm câu hành hỷ ly tà kiến hữu trợ (Somanassasahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ).

e) Tâm câu hành xả hợp tà kiến vô trợ (Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

f) Tâm câu hành xả hợp tà kiến hữu trợ (Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ)

g) Tâm câu hành xả ly tà kiến vô trợ (Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

h) Tâm câu hành xả ly tà kiến hữu trợ (Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ).

I2. Hai tâm sân căn (Dosamūlacitta):

a) Tâm câu hành ưu hợp phẫn nộ vô trợ (Domanassasahagataṃ paṭighasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

b) Tâm câu hành ưu hợp phẫn nộ hữu trợ (Domanassasahagataṃ paṭighasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ).

I.3 Hai tâm si căn (Mohamūlacitta):

a) Tâm câu hành xả hợp hoài nghi (Upekkhāsahagataṃ vicikicchāsampayuttaṃ).

b) Tâm câu hành xả hợp phóng dật (Upekkhā sahagataṃ uddhaccasampayuttaṃ).

II- Tâm vô nhân (Ahetukacitta) gồm 18 thứ:

II.1. Bảy tâm quả bất thiện (Akusalavipākacitta):

a) Nhãn thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ cakkhuviññāṇaṃ).

b) Nhĩ thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ sotaviññāṇaṃ).

c) Tỷ thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ ghānaviññāṇaṃ).

d) Thiệt thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ jivhāviññāṇaṃ).

e) Thân thức câu hành khổ (Dukkhasahagataṃ kāyaviññāṇaṃ).

f) Tâm tiếp thâu câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ sampaṭicchanacittaṃ).

g) Tâm quan sát câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ santīraṇacittaṃ).

II2. Tám quả thiện vô nhân (Kusalavipāka ahetukacitta):

a) Nhãn thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ cakkhuviññāṇaṃ).

b) Nhĩ thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ sotaviññāṇaṃ).

c) Tỷ thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ ghānaviññāṇaṃ).

d) Thiệt thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ jivhāviññāṇaṃ).

e) Thân thức câu hành lạc (Sukhasahagataṃ kāyaviññāṇaṃ).

f) Tâm tiếp thâu câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ sampaṭicchanacittaṃ).

g) Tâm quan sát câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ santīraṇacittaṃ).

h) Tâm quan sát câu hành hỷ (Somanassasahagataṃ santīraṇacittaṃ).

II3. Ba tâm tố vô nhân (Ahetukakiriyācitta):

a) Tâm khai ngũ môn câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ pañcadvārāvajjanacittaṃ).

b) Tâm khai ý môn câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ manodvārāvajjanacittaṃ).

c) Tâm sinh tiếu câu hành hỷ (Somanassasahagataṃ hasituppādacittaṃ).

12 tâm bất thiện và 18 tâm vô nhân gộp lại gọi là 30 tâm vô tịnh hảo (Asobhanacitta).

III- Tâm dục giới tịnh hảo (Kāmāvacarasobhanacitta) gồm 24 thứ:

III.1. Tám tâm thiện dục giới hữu nhân (Sahetukakāmāvacarakusalacitta), cũng gọi là tâm đại thiện (Mahākusalacitta):

a) Tâm câu hành hỷ hợp trí vô trợ (Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

b) Tâm câu hành hỷ hợp trí hữu trợ (Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ).

c) Tâm câu hành hỷ ly trí vô trợ (Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

d) Tâm câu hành hỷ ly trí hữu trợ (Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ).

e) Tâm câu hành xả hợp trí vô trợ (Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

f) Tâm câu hành xả hợp trí hữu trợ (Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ).

g) Tâm câu hành xả ly trí vô trợ (Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

h) Tâm câu hành xả ly trí hữu trợ (Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ).

III2. Tám tâm quả dục giới hữu nhân hay tâm quả (Sahetukakāmāvacaravipākacitta), cũng gọi là tâm đại quả (Mahāvipākacitta):

a) Tâm câu hành hỷ hợp trí vô trợ (Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ)

... Tám tâm này có tên gọi cũng giống như tâm đại thiện.

III3. Tám tâm tố dục giới hữu nhân đại tố (Sahetukakāmāvacarakiriyācitta), cũng gọi là tâm đại tố (Mahākiriyācitta):

a) Tâm câu hành hỷ hợp trí vô trợ (Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

... Tám tâm tố này có tên gọi cũng giống như tâm đại thiện.

(30 tâm vô tịnh hảo và 24 tâm tịnh hảo dục giới, tịnh hảo gộp lại gọi là 54 tâm dục giới Kāmāvacaracitta).

IV- Tâm sắc giới (Rūpāvacarakusalacitta) gồm 15 thứ:

IV.1. Năm tâm thiện sắc giới (Rūpāvacarakusalacitta):

a) Tâm thiện sơ thiền câu hữu tầm tứ hỷ lạc định (Vitakkavicārapītisukhekaggatāsahitaṃ paṭhamajjhānakusalacittaṃ).

b) Tâm thiện nhị thiền câu hữu tứ hỷ lạc định (Vicārapītisukhekaggatāsahitaṃ dutiyajjhānakusalacittaṃ).

c) Tâm thiện tam thiền câu hữu hỷ lạc định (Pītisukhekaggatāsahitaṃ tatiyajjhānakusalacittaṃ).

d) Tâm thiện tứ thiền câu hữu lạc định (Sukhekaggatāsahitaṃ catutthajjhānakusalacittaṃ).

e) Tâm thiện ngũ thiền câu hữu xả định (Upekkhekaggatāsahitaṃ pañcamajjhānakusalacittaṃ).

IV2. Năm tâm quả sắc giới (Rūpāvacaravipākacitta):

a) Tâm quả sơ thiền câu hữu tầm tứ hỷ lạc định (Vitakkavicārapītisukhekaggatāsahitaṃ paṭhamajjhānavipākacittaṃ).

b) Tâm quả nhị thiền câu hữu tứ hỷ lạc định (Vicārapītisukhekaggatāsahitaṃ dutiyajjhānavipākacittaṃ).

c) Tâm quả tam thiền câu hữu hỷ lạc định (Pītisukhekaggatāsahitaṃ tatiyajjhānavipākacittaṃ).

d) Tâm quả tứ thiền câu hữu lạcđịnh (Sukhekaggatāsahitaṃ catutthajjhānavipākacittaṃ).

e) Tâm quả ngũ thiền câu hữu xả định (Upekkhekaggatāsahitaṃ pañcamajjhānavipākacittaṃ).

IV3. Năm tâm tố sắc giới (Rūpāvacarakiriyācitta):

a) Tâm tố sơ thiền câu hữu tầm tứ hỷ lạc định (Vitakkavicārapītisukhekaggatāsahitaṃ paṭhamajjhā nakiriyācittaṃ).

b) Tâm tố nhị thiền câu hữu tứ hỷ lạc định (Vicārapītisukhekaggatāsahitaṃ dutiyajjhānakiriyā cittaṃ).

c) Tâm tố tam thiền câu hữu hỷ lạc định (Pītisukhekaggatāsahitaṃ tatiyajjhānakiriyā cittaṃ)

d) Tâm tố tứ thiền câu hữu lạc định (Sukhekag gatāsahitaṃ catutthajjhānakiriyā cittaṃ).

e. Tâm tố ngũ thiền câu hữu xả định (Upekkhekaggatāsahitaṃ pañcamajjhānakiriyācittaṃ).

V- Tâm vô sắc giới (Arūpāvacaracitta), gồm 12 thứ:

V.1. Bốn tâm thiện vô sắc giới (Arūpāvacarakusalacitta):

a) Tâm thiện không vô biên xứ (Ākāsānañcā yatanakusalacittaṃ).

b) Tâm thiện thức vô biên xứ (Viññāṇañcā yatanakusalacittaṃ).

c) Tâm thiện vô sở hữu xứ (Ākiñcaññāyatanakusalacittaṃ).

d) Tâm thiện phi tưởng phi phi tưởng xứ (Nevasaññānāsaññāyatanakusalacittaṃ).

V.2. Bốn tâm quả vô sắc giới (Arūpāvacaravipākacitta):

a) Tâm quả không vô biên xứ (Ākāsānañcā yatanavipākacittaṃ).

b) Tâm quả thức vô biên xứ (Viññāṇañcāyatanavipākacittaṃ).

c) Tâm quả vô sở hữu xứ (Ākiñcaññāyatanavipākacittaṃ).

d) Tâm quả phi tưởng phi phi tưởng xứ (Nevasaññānāsaññāyatanavipākacittaṃ).

V.3. Bốn tâm tố vô sắc giới (Arūpāvacarakiriyā citta):

a) Tâm tố không vô biên xứ (Ākāsānañcā yatanakiriyācittaṃ).

b) Tâm tố thức vô biên xứ (Viññāṇañcāyatanakiriyācittaṃ).

c) Tâm tố vô sở hữu xứ (Ākiñcaññā yatanakiriyācittaṃ).

d) Tâm tố phi tưởng phi phi tưởng xứ (Nevasaññānāsaññāyatanakiriyācittaṃ).

(15 tâm sắc giới và 12 tâm vô sắc giới gộp lại gọi là 27 tâm đáo đại - mahaggatacitta).

(54 tâm dục giới và 27 tâm đáo đại gộp lại gọi là 81 tâm hiệp thế - lokiyacitta).

VI- Tâm siêu thế (Lokuttara), gồm có 8 hoặc 40 thứ:

VI.1. Bốn hoặc hai mươi tâm đạo (Maggacitta), còn gọi là thiện siêu thế:

a) Tâm đạo Dự lưu (Sotāpattimaggacittaṃ) hay sơ đạo (paṭhamamagga). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là sơ đạo sơ thiền, sơ đạo nhị thiền, sơ đạo tam thiền, sơ đạo tứ thiền và sơ đạo ngũ thiền.

b) Tâm đạo Nhất lai (Sakadāgāmimaggacittaṃ) hay nhị đạo (dutiyamagga). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là nhị đạo sơ thiền, nhị đạo nhị thiền, nhị đạo tam thiền, nhị đạo tứ thiền và nhị đạo ngũ thiền.

c) Tâm đạo Bất lai (Anāgāmimaggacittaṃ) hay tam đạo (tatiyamagga). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là tam đạo sơ thiền, tam đạo nhị thiền, tam đạo tam thiền, tam đạo tứ thiền và tam đạo ngũ thiền.

d) Tâm đạo Alahán (Arahattamaggacittaṃ) hay tứ đạo (catutthamagga). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là tứ đạo sơ thiền, tứ đạo nhị thiền, tứ đạo tam thiền, tứ đạo tứ thiền và tứ đạo ngũ thiền.

VI2. Bốn hoặc hai mươi tâm quả (Phalacitta), còn gọi là quả siêu thế (Lokuttaravipākacitta):

a) Tâm quả Dự lưu (Sotāpattiphalacittaṃ) hay sơ quả (paṭhamaphala). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là sơ quả sơ thiền, sơ quả nhị thiền, sơ quả tam thiền, sơ quả tứ thiền, sơ quả ngũ thiền.

b) Tâm quả Nhất lai (Sakadāgāmiphalacittaṃ) hay nhị quả (dutiyaphala). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là nhị quả sơ thiền, nhị quả nhị thiền, nhị quả tam thiền, nhị quả tứ thiền, nhị quả ngũ thiền.

c) Tâm quả Bất lai (Anāgāmiphalacittaṃ) hay tam quả (tatiyaphala). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là tam quả sơ thiền, tam quả nhị thiền, tam quả tam thiền, tam quả tứ thiền, tam quả ngũ thiền.

d) Tâm quả Alahán (arahattaphalacittaṃ) hay tứ quả (catutthaphala). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là tứ quả sơ thiền, tứ quả nhị thiền, tứ quả tam thiền, tứ quả tứ thiền, tứ quả ngũ thiền.

(81 tâm hiệp thế và 8 hoặc 40 tâm siêu thế gộp lại gọi là 89 hoặc 121 tâm, như vậy tâm có 89 hoặc 121 thứ là bởi tâm siêu thế hẹp có 8 thứ, rộng có 40 thứ).

Comp. 81-93.

[497] Một trăm lẻ tám ái (Taṇhā):

Ái được kể có 108, không phải là nêu ra thứ lớp, mà tính nhân rộng mới ra con số này.

Trước hết là lấy sáu thân ái (taṇhākāya), tức sắc ái, thinh ái, hương ái, vị ái, xúc ái và pháp ái (Vbh. 944).

Có trường hợp thân ái đó chỉ là ái nhiễm bình thường gọi là dục ái, có trường hợp thân ái sanh khởi đi kèm với thường kiến đó gọi là hữu ái, có trường hợp thân ái sanh khởi đi kèm với đoạn kiến, thì gọi là phi hữu ái. Như vậy 6 thân ái nhân 3 trường hợp thành 18 ái.

Mười tám ái này lại tính theo hai khía cạnh, nội thân (ajjhattika) và ngoại thân (bahiddhā), thành ra 36 ái.

Ba mươi sáu ái này lại tính theo 3 thời quá khứ, hiện tại và vị lai, thành ra 108 ái.

Vism. 568

Một trăm lẻ tám ái còn được tính theo cách khác nữa.

Lấy 18 ái du (taṇhāvicarita) nương nội uẩn cộng với 18 ái du (taṇhāvicarita) nương ngoại uẩn (Vbh. 393), thành ra 36 ái.

Lấy 36 ái đó nhân cho 3 thời quá khứ, hiện tại, vị lai, thì có được 108 ái.

A.II.212; Vbh.393

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục |
Một Pháp: 1-10 | Hai Pháp: 11-71 | Ba Pháp: 72-163 | Bốn Pháp: 164-259 | Năm Pháp: 260-337 |
Sáu Pháp: 338-369 | Bảy Pháp: 370-398 | Tám Pháp: 399-423 | Chín Pháp: 424-442 | Mười Pháp: 443-476 |
Trên Mười Pháp: 477-497

 

Chân thành cám ơn Tỳ khưu Giác Giới và Tỳ khưu Thiện Minh đã gửi tặng bản vi tính
(Bình Anson, 06-2002, 06-2005)

[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 01-06-2005

Kho Tang Phap Hoc - Ty kheo Giac Gioi
Trang gốc

Trang web BuddhaSasana

VU Times font

 

THERAVĀDA
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

KHO TÀNG PHÁP HỌC

Tỳ Khưu Giác Giới
biên soạn

Lưu ý: Ðọc với phông chữ VU Times (Viet-Pali Unicode)


CHƯƠNG PHÁP TRÊN MƯỜI CHI

[477] Mười hai loại nghiệp (Kamma):

Nghiệp là hành động có tạo quả dị thục, cũng còn gọi là nghiệp dị thời (Nānākhaṇikakamma). Nghiệp đây chính là Tư (Cetanā), thiện hay bất thiện.

Nghiệp nói có 12 loại là phân loại theo ba khía cạnh: theo chức năng, theo phương thức trổ quả, và theo thời gian trổ quả. Trong mỗi khía cạnh được phân loại gồm có 4 thứ nghiệp, nên thành 12 loại nghiệp.

A- Bốn loại nghiệp theo chức năng (Kiccavasena):

1. Sanh nghiệp (Janakakamma), là nghiệp có khả năng tạo quả thức tái sanh.

2. Trì nghiệp (Upatthambhakakamma), là nghiệp có khả năng bảo trì kết quả đã thành tựu để kéo dài thọ vui hay khổ.

3. Chướng nghiệp (Upapīḷakakamma), là nghiệp có khả năng cản trở hay làm giảm bớt mãnh lực của nghiệp khác, làm cho nghiệp khác suy yếu trổ quả nhẹ.

4. Đoạn nghiệp (Upaghātakamma), là nghiệp có khả năng phá vỡ hiệu lực trổ quả của nghiệp khác, làm cho nghiệp khác mất hiệu quả.

B- Bốn loại nghiệp theo phương thức trổ quả (Pākadānapariyāyena):

1. Trọng nghiệp (Garukakamma), là nghiệp có mãnh lực trổ quả chắc chắn, nghiệp có công suất mạnh hơn các nghiệp thông thường. Trọng nghiệp thiện là tám thiền chứng, trọng nghiệp ác là năm tội vô gián.

2. Thường nghiệp (Bahukakamma hay āciṇṇakamma), là nghiệp quen làm, thường làm, trở thành tập quán, nghiệp này cũng có thiện có ác, tạo ra quả bằng cách thường cận y duyên.

3. Cận tử nghiệp (Āsannakamma), là loại nghiệp được hình thành trước lúc chết, do bất chợt bị chi phối bởi cảnh tượng tốt hoặc xấu lúc sắp lâm chung rồi khởi tâm thiện hay bất thiện để tạo quả tái sanh.

4. Khinh tác nghiệp (Katattākamma), là nghiệp tạo tình cờ trong bình nhật với tư niệm yếu ớt, không chủ ý lắm, nghiệp này ít khi trổ quả, không quan trọng như trọng nghiệp, thường nghiệp và cận tử nghiệp.

C- Bốn loại nghiệp theo thời gian trổ quả (Pākakālavasena):

1. Hiện báo nghiệp (Diṭṭhadhammavedanīyakamma), là nghiệp có khả năng tạo quả dị thục trong đời hiện tại, sau khi làm. Nghiệp này chính do tâm đổng lực thiện hoặc bất thiện, sát na thứ nhất. Nếu sát na đổng lực này quá đời hiện tại sẽ là vô hiệu nghiệp.

2. Sanh báo nghiệp (Upapajjavedanīyakamma), là nghiệp có khả năng tạo quả dị thục trong đời sống kế kiếp đây. Nghiệp này chính do đổng lực thiện hoặc bất thiện, sát na thứ bảy. Nếu qua đời kế tục thì sẽ là vô hiệu nghiệp.

3. Hậu báo nghiệp (Aparāpariyavedanīyakamma), là nghiệp có khả năng tạo quả dị thục trong những đời sống sau nữa, mãi cho đến khi viên tịch níp-bàn mới là vô hiệu. Chính là đổng lực thiện hay bất thiện, năm sát na giữa.

4. Vô hiệu nghiệp (Ahosikamma), là nghiệp không còn khả năng trổ quả, tức là sự mất hiệu lực của hiện báo nghiệp, sanh báo nghiệp và hậu báo nghiệp.

Mười hai loại nghiệp này được nói đến trong các sớ giải do các vị A-xà-lê góp nhặt rải rác trong kinh tạng.

Vism.601; Comp.144.

[478] Mười hai pháp y tương sinh, thập nhị nhân duyên (Paṭiccasamuppāda):

1. Vô minh (Avijjā), sự si mê, sự tối tăm, thiếu trí tuệ, không biết pháp đáng biết. Xem [409].

2. Hành do duyên vô minh (Avijjāpaccayā saṅkhārā), là phi phúc hành, phúc hành và bất động hành. Xem [104].

3. Thức do duyên hành (Saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ). Là sáu quả thức do nghiệp hành tạo ra, là thức uẩn quả hiệp thế.

4. Danh sắc do duyên thức (Viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ). Danh là ba uẩn sở hữu tâm đồng sanh với thức uẩn quả. Sắc ở đây là sắc nghiệp tục sinh.

5. Lục nhập do duyên danh sắc (Nāmarūpa-paccayā saḷāyatanaṃ), lục nhập hay còn gọi là sáu nội xứ: nhãn xứ, nhĩ xứ, tỷ xứ, thiệt xứ, thân xứ, và ý xứ.

6. Xúc do duyên lục nhập (Saḷāyatanapaccayā phasso), là sự đối chiếu giữa căn với cảnh và thức, gồm có nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc.

7. Thọ do duyên xúc (Phassapaccayā vedanā). Thọ ở đây là cảm giác hưởng cảnh, như khổ, lạc và phi khổ, phi lạc, hoặc khổ, lạc, ưu, hỷ và xả. Ba thọ hoặc năm thọ. Xúc duyên thọ có hai cách: câu sanh duyên và thường cận y duyên.

8. Ái do duyên thọ (Vedanāpaccayā taṇhā). Ái ở đây là dục ái, hữu ái và phi hữu ái. Xem [75].

9. Thủ do duyên ái (Taṇhāpaccayā upādānaṃ). Thủ ở đây là dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã chấp thủ. Xem [242].

10. Hữu do duyên thủ (Upādānapaccayā bhavo). Hữu ở đây là nghiệp hữu, tức là thân nghiệp, khẩu nghiệp, và ý nghiệp có thiện và bất thiện.

11. Sanh do duyên hữu (Bhavapaccayā jāti). Sanh ở đây là sanh hữu, cõi sống của chúng sanh như là dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu, hoặc ngũ uẩn hữu, tứ uẩn hữu và nhất uẩn hữu.

12. Lão, tử, sầu, bi, khổ, ưu, ai do duyên sanh (Jātipaccayā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhado-manassupādāyāsā), tức là đời sống bị già chết, bị buồn rầu uất ức khổ đau phiền muộn... chính bởi do sanh hữu.

Mười hai duyên sinh này cũng được gọi là hữu luân (bhavacakka); nghĩa là bánh xe sanh tử, các mắt xích trợ duyên lẫn nhau, sanh khởi liên quan nhau, tạo ra kiếp sống luân hồi triền miên.

Muốn hiểu rõ bánh xe duyên sinh phải phân tích qua 6 khía cạnh:

A- Ba thời (Addhā):

1. Quá khứ: gồm hai chi là vô minh và hành.
2. Hiện tại: gồm tám chi là thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu.
3. Vị lai: gồm hai chi là sanh, Lão-tử, (sầu - bi - khổ - ưu - ai).

B- Bốn yếu lược (Saṅkhepa):

1. Nhân quá khứ: vô minh, hành.
2. Quả hiện tại: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.
3. Nhân hiện tại: ái, thủ, hữu.
4. Quả vị lai: sanh, lão-tử-sầu-bi-khổ-ưu-ai.

C- Ba tục đoan (Sandhi)

1. Mối nối nhân quá khứ với quả hiện tại: Hành duyên thức.
2. Mối nối quả hiện tại với nhân hiện tại: Thọ duyên ái.
3. Mối nối nhân hiện tại với quả vị lai: Hữu duyên sanh...

D- Hai mươi hành tướng (Ākāra):

a) 5 nhân quá khứ: vô minh, hành, ái, thủ, hữu.
b) 5 quả hiện tại: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.
c) 5 nhân hiện tại: vô minh, hành, ái, thủ, hữu.
d) 5 quả vị lai: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ.

E- Ba luân (Vaṭṭa):

1. Phiền não luân: vô minh, ái, thủ.
2. Nghiệp luân: hành và hữu.
3. Quả luân: thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, sanh, lão-tử-sầu-bi-khổ-ưu-ai.

F- Hai căn (Mūla):

1. Căn quá khứ: vô minh.
2. Căn hiện tại: ái.

Việc trình bày pháp duyên sinh theo 6 khía cạnh: thời, yếu lược, tục đoan, hành tướng, luân, căn. Đây là sự giải thích trong sớ giải như bộ Abhidhammatthasaṅgaha (Vi diệu pháp tập yếu).

Mặt khác, nên biết thêm về cách thuyết giảng pháp y tương sinh mà Đức Phật đã thuyết. Có 2 cách:

a) Thuyết thuận chiều (Anuloma), là trình bày theo khía cạnh tập khởi của khổ uẩn (Dukkhakkhandhassa samudayo hoti). Như là "Avijjāpaccayā saṅkhārā (Vô minh duyên hành) v.v...

Cách thuyết duyên sinh thuận chiều là để thấy rõ khổ tập thánh đế.

b) Thuyết nghịch chiều (Paṭiloma), là trình bày theo khía cạnh đoạn diệt của khổ uẩn (dukkhak-khandhassa nirodho hoti). Như là Avijjāya tveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho (do sự đoạn diệt vô nhiễm hoàn toàn đối với vô minh nên hành diệt) v.v..."

Cách thuyết duyên sinh nghịch chiều là để thấy rõ khổ diệt thánh đế.

Về tên gọi của pháp y tương sinh, có ba tên gọi nữa là:

1. Idappaccayatā, thử duyên tánh, là pháp có do duyên cái này.

2. Dhammaniyāma, cố nhiên pháp, là pháp có qui luật nhất định.

3. Paccayākāra, duyên hành tướng, là pháp có điều kiện trợ sanh. Tên gọi này rất thường được nói đế trong tạng Vi Diệu Pháp và chú giải.

Vin.I.1; S.II.1; Vbh.135; Vism.517; Comp.188.

[479] Mười hai xứ (Āyatana) hay nhập, chỗ cho tâm thức sanh khởi:

1. Nhãn xứ (Cakkhāyatana)
2. Nhĩ xứ (Sotāyatana)
3. Tỷ xứ (Ghānāyatana)
4. Thiệt xứ (Jivhāyatana)
5. Thân xứ (Kāyāyatana)
6. Ý xứ (Manāyatana)
7. Sắc xứ (Rūpāyatana)
8. Thinh xứ (Saddāyatana)
9. Khí xứ (Gandhāyatana)
10. Vị xứ (Rasāyatana)
11. Xúc xứ (Phoṭṭhabbāyatana)
12. Pháp xứ (Dhammāyatana)

Xem [340] Sáu nội xứ, và [360] Sáu ngoại xứ.

Vbh.70

[480] Mười hai tánh hạnh của Chuyển Luân Vương (Cakkavattivatta):

Xem [ 208] Bốn tánh hạnh của vị Chuyển Luân Vương ở phần sau.

[481] Mười ba chi đầu đà, pháp tẩy trừ phiền não (Dhutaṅga):

1. Hạnh mặc phấn tảo y (Paṃsukūlikaṅga), tức là chỉ mặc y bằng vải quăng bỏ chỗ bẩn thỉu như đống rác, bãi tha ma... Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Gahapaticīvaraṃ paṭikkhipāmi, paṃkūlikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ y của gia chủ cúng, tôi nguyện thọ trì hạnh mặc phấn tảo y".

2. Hạnh mặc tam y (Tecīvarikaṅga), tức là chỉ giữ mặc ba y mà Đức Phật cho phép. (Y tăng-già-lê, y uất-đà-la-tăng, y an-đà-hội). Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Catutthacīvaraṃ paṭikkhipāmi, tecīvarikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ chiếc y thứ tư, tôi nguyện thọ trì hạnh mặc tam y" .

3. Hạnh đi khất thực (Piṇḍapātikaṅga), tức là chỉ sống bằng cách cầm bát đi xin ăn. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Atirekalābhaṃ paṭikkhipāmi piṇḍapātikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ lợi lộc ngoại lệ, tôi nguyện thọ trì hạnh đi khất thực".

4. Hạnh thứ lớp khất thực (Sapadānacārikaṅga), tức là đi khất thực tuần tự theo từng nhà, không chọn lựa địa điểm. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Lohuppacāraṃ paṭikkhipāmi, sapadānacārikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi xin khước từ việc đi theo ý muốn, tôi nguyện thọ trì hạnh thứ lớp khất thực".

5. Hạnh chỉ ăn tại một chỗ ngồi (Ekāsanikaṅga), tức là một ngày chỉ ăn một lần, khi đứng lên khỏi chỗ ngồi thì không ăn nữa. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Nānāsanabhojanaṃ paṭikkhipāmi, ekāsanikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ sự ăn ở chỗ khác, tôi nguyện thọ trì hạnh ăn tại một chỗ ngồi".

6. Hạnh ăn trong một bát (Pattapiṇḍikaṅga), tức là chỉ ăn thức ăn có trong bát, không ăn thức ăn khác ngoài bát. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Dutiyabhājanaṃ paṭikkhipāmi, pattapiṇḍikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi xin khước từ thức ăn cái thứ hai, tôi xin thọ trì hạnh ăn trong một bát".

7. Hạnh không ăn hậu thời (Khalupacchābhattikaṅga), tức là khi đã dừng bữa ăn rồi thì không ăn thêm thức ăn khác sau đó nữa. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Atirittabhojanaṃ paṭikkhipāmi, khalupacchābhattikaṅga", nghĩa là: "Tôi xin khước từ tàn thực, tôi nguyện thọ trì hạnh không ăn hậu thời".

8. Hạnh trú ở rừng (Āraññikaṅga), tức là chỉ sống tại khu rừng xa vắng, không cư ngụ ở làng mạc, phố thị. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Gāmantasenāsanaṃ paṭikkhipāmi, āraññikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ trú xứ trong làng mạc, tôi nguyện thọ trì hạnh trú ở rừng".

9. Hạnh cư ngụ gốc cây (Rukkhamūlikaṅga), tức là chỉ sống dưới gốc cây, không ở trong chỗ có che lợp, xây dựng như liêu cốc, tịnh thất, tịnh xá, tự viện... Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Channaṃ paṭikkhipāmi, rukkhamūlikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ chỗ có che lợp, tôi nguyện thọ trì hạnh cư ngụ gốc cây".

10. Hạnh cư ngụ ngoài trống (Abbhokāsikaṅga), tức là chỉ ở ngoài trống không có mái che, cũng không có bóng cây. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Channañca rukkhamūlañca paṭikkhipāmi, abbhokāsikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ chỗ có mái che và gốc cây, tôi nguyện thọ trì hạnh cư ngụ ngoài trống".

11. Hạnh cư ngụ mộ địa (Sosānikaṅga), tức là chỉ ở nơi nghĩa địa, bãi tha ma. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Asusānaṃ paṭikkhipāmi sosānikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ nơi chẳng phải mộ địa, tôi nguyện thọ trì hạnh cư ngụ mộ địa".

12. Hạnh theo chỗ chỉ định (Yathā santhatikaṅga), tức là chấp nhận bất cứ trú xứ nào mà tăng chỉ định, không kén chọn tìm chỗ ở vừa lòng. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Senāsanaloluppaṃ paṭikkhipāmi yathāsanthatikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi khước từ sự ham muốn trú xứ, tôi nguyện thọ trì hạnh theo chỗ chỉ định".

13. Hạnh ngồi (Nesajjikaṅga), tức là chỉ trú với oai nghi ngồi, chỉ trú với oai nghi đi, không nằm. Lời nguyện thọ trì hạnh đầu đà này như sau: "Seyyaṃ paṭikkhipāmi nesajjikaṅgaṃ samādiyāmi", nghĩa là: "Tôi ngăn oai nghi nằm, tôi nguyện thọ trì hạnh ngồi".

Trình bày các khía cạnh của pháp đầu đà:

A- Nói theo tính chất:

- Ba hạnh tiêu biểu: "Hạnh thứ lớp khất thực" (tiêu biểu cho cả hạnh đi khất thực); "Hạnh ăn tại một chỗ ngồi" (tiêu biểu cho cả hạnh ăn trong một bát và hạnh không ăn hậu thời); "Hạnh cư ngụ ngoài trống" (tiêu biểu cho cả hạnh cư ngụ gốc cây và hạnh theo chỗ chỉ định. Vì một người ngụ ở ngoài trống thì không cần đến trú xứ che lợp và trú xứ chỉ định)

- Năm chi riêng biệt: Hạnh trú ở rừng, hạnh mặc phấn tảo y, hạnh mặc tam y, hạnh cư ngụ mộ địa, và hạnh ngồi.

B- Nói theo sự y cứ:

- Y cứ vật dụng (Paccayanissita) gồm 12 chi trước.

- Y cứ tinh tấn (Viriyanissita) chỉ có 1 chi cuối là hạnh ngồi.

C. Nói theo sự liên quan:

- Hạnh liên quan y phục (Cīvarapaṭisaṃyuttā) gồm 2 chi là hạnh mặc phấn tảo y và hạnh mặc tam y.

- Hạnh liên quan vật thực (Piṇḍapātapaṭisaṃyuttā) gồm 5 chi là hạnh đi khất thực, hạnh thứ lớp khất thực, hạnh ăn tại một chỗ ngồi, hạnh ăn trong một bát, và hạnh không ăn hậu thời.

- Hạnh liên quan trú xứ (Senāsanapaṭisaṃyuttā) gồm 5 chi là hạnh trú ở rừng, hạnh cư ngụ gốc cây, hạnh cư ngụ ngoài trống, hạnh cư ngụ mộ địa, và hạnh theo chỗ chỉ định.

- Hạnh liên quan tinh tấn (Viriyapaṭisaṃyuttā) chỉ có 1 chi là hạnh ngồi.

D- Phân theo thời gian:

- Có giới hạn thời gian: Hạnh cư ngụ gốc cây và hạnh cư ngụ ngoài trống, hai hạnh này chỉ cho phép thọ trì trong thời gian mùa khô (bốn tháng mùa mưa phải tìm trú xứ có che lợp kín đáo).

- Không giới hạn thời gian: Mười hạnh đầu đà, ngoài ra hai hạnh trên, được phép thọ trì bất cứ thời gian nào trong ba mùa (mùa nóng, mùa mưa và mùa lạnh).

E- Phân thứ bậc:

- Đầu đà bậc thượng, là sự thực hành đầu đà tuyệt đối nghiêm khắc, không chấp nhận một điều kiện dễ dãi nào.

- Đầu đà bậc trung, là sự thực hành đầu đà tương đối nghiêm khắc, có thể chấp nhận một trong những điều kiện dễ dãi khi thọ trì gặp khó khăn.

- Đầu đà bậc hạ, là sự thọ trì pháp hành đầu đà tương đối thoải mái, có thể chấp nhận nhiều điều kiện dễ dãi khi thọ trì gặp khó khăn.

F. Mục đích thọ trì:

- Nếu thọ trì hạnh đầu đà mà không giúp cho tiến triển án xứ thiền, trái lại còn làm cho thiện pháp suy giảm, bất thiện pháp tăng trưởng, thì không nên thọ trì.

- Nếu thọ trì hạnh đầu đà mà giúp cho án xứ thiền tiến triển, hoặc có làm cho thiện pháp tăng trưởng, bất thiện pháp suy giảm thì nên thọ trì.

- Nếu thọ trì hạnh đầu đà với tác ý để gieo duyên lành cho kiếp sau, như thế thọ trì cũng tốt.

- Các bậc lậu tận A-la-hán cũng trì hạnh đầu đà, nhưng không phải vì mục đích để khử trừ bất thiện vì các vị A-la-hán đã đoạn trừ phiền não, các vị A-la-hán trì hạnh đầu đà là để làm gương cho người khác.

G- Phân hạng người thọ trì:

- Hàng tỳ-kheo thọ trì được cả 13 hạnh đầu đà.

- Hàng tỳ-kheo ni chỉ thọ trì được 8 hạnh đầu đà, ngoại trừ 5 hạnh là không ăn hậu thời, trú ở rừng, cư ngụ gốc cây, cư ngụ ngoài trống, cư ngụ mộ địa.

- Hàng sa-di thọ trì được 12 hạnh đầu đà, ngoại trừ hạnh mặc tam y.

- Học nữ và sa-di-ni thọ trì được 7 hạnh đầu đà như tỳ-kheo ni, chỉ trừ hạnh mặc tam y.

- Hàng cư sĩ thiện tín chỉ thọ trì được 2 hạnh đầu đà là hạnh ăn tại một chỗ ngồi và hạnh ăn trong một bát.

H- Xuất xứ:

Mười ba pháp đầu đà này có xuất xứ trong chánh tạng và chú giải như sau:

- M.III. 40 có nêu 9 hạnh đầu đà, ngoại trừ hạnh mặc tam y, hạnh thứ lớp khất thực, hạnh ăn trong một bát, hạnh không ăn hậu thời.

- A.V. 219 có nêu 10 hạnh đầu đà, ngoại trừ hạnh mặc tam y, hạnh đi khất thực, hạnh thứ lớp khất thực.

- Nd1. 188 có nêu 8 hạnh đầu đa, ngoại trừ hạnh chỉ ăn tại một chỗ ngồi, hạnh ăn trong một bát, hạnh cư ngụ gốc cây, hạnh cư ngụ ngoài trống, hạnh cư ngụ mộ địa.

- Vin.v. 131,198 có nêu đủ 13 hạnh đầu đà, nhưng chỉ nêu đầu đề.

- Vism. 59-83 giải thích chi tiết 13 pháp đầu đà.

[482] Mười bốn chức năng của thức (Viññāṇakicca), hay phận sự của tâm:

1. Chức năng tục sinh (Paṭisandhi), là việc tái tạo đời sống mới, tâm khởi đầu của kiếp sống mới. Có 19 thứ tâm làm việc tục sinh là 2 tâm thẩm tấn thọ xả, 8 tâm đại quả, 5 tâm quả sắc giới, 4 tâm quả vô sắc.

2. Chức năng hộ kiếp hay hữu phần (Bhavaṅga), là những tâm làm việc tiếp nối duy trì dòng tâm thức trong đời sống; tâm hộ kiếp sẽ hiện khởi khi không có lộ tâm khách quan. Có 19 thứ tâm làm việc hộ kiếp, đó là 19 thứ tâm tục sinh, tâm nào làm việc tục sinh cho đời sống ấy thì chính tâm đó làm việc hộ kiếp cho đời sống ấy.

3. Chức năng tử (Cuti), là tâm làm việc chết hay mạng chung của kiếp sống, hiện khởi sau cùng kiếp sống. Có 19 thứ tâm mạng chung, đó là 19 thứ tâm hộ kiếp, tâm nào làm việc hộ kiếp cho đời sống ấy thì chính tâm đó làm việc tử cho đời sống ấy.

4. Chức năng khai môn (Āvajjana), là phận sự khai mở lộ tâm khách quan để bắt cảnh mới. Có hai thứ tâm làm chức năng này, tâm khai ngũ môn và tâm khai ý môn. Tâm khai ngũ môn khai mở lộ tâm bắt cảnh sắc - thinh - khí - vị - xúc, tâm khai ý môn khai mở lộ tâm bắt cảnh pháp.

5. Chức năng thấy (Dassana), là phận sự biết cảnh sắc. Có 2 tâm làm việc thấy là 2 tâm nhãn thức.

6. Chức năng nghe (Savana), là phận sự biết cảnh thinh. Có 2 tâm làm việc nghe là 2 tâm nhĩ thức.

7. Chức năng ngửi (Ghāyana), là phận sự biết cảnh khí. Có 2 tâm làm việc ngửi là 2 tâm tỷ thức.

8. Chức năng nếm (Sāyana), là phận sự biết cảnh vị. Có 2 thứ là 2 tâm thiệt thức.

9. Chức năng đụng (Phusana), tâm biết cảnh xúc. Có 2 tâm làm việc đụng là 2 tâm thân thức.

10. Chức năng tiếp thâu (Sampaṭicchana), là phận sự nhận giữ cảnh cho lộ tâm ngũ môn. Có 2 tâm làm việc tiếp thâu là 2 tâm tiếp thâu (tên gọi theo phận sự).

11. Chức năng quan sát (Santīrana), là phận sự thẩm tra đối tượng. Có 3 tâm làm việc quan sát là 3 tâm quan sát (tên gọi theo phận sự).

12. Chức năng phân đoán hay đoán định (Voṭṭhapana), là phận sự phân định tính chất của đối tượng. Có 1 tâm làm việc phân đoán là tâm khai ý môn.

13. Chức năng đổng lực (Javana), là phận sự xử lý đối tượng. Có 55 hoặc 87 tâm làm việc đổng lực là 12 tâm bất thiện, 21 hoặc 37 tâm thiện, 18 tâm tố trừ tâm khai môn, 4 hoặc 20 tâm siêu thế. Tâm đổng lực có chức năng rất quan trọng, chính những tâm đổng lực thiện và bất thiện sẽ tác thành nghiệp dị thời sanh quả dị thục, ngoại trừ đổng lực tố và đổng lực quả siêu thế là không thành nghiệp.

14. Chức năng na cảnh (Tadālambana), là phận sự xử lý cảnh dư khi lộ tâm có cảnh rất lớn, rất rõ. Có 11 tâm làm việc na cảnh là 3 tâm quan sát và 8 tâm đại quả. Mặc dù cũng có chức năng xử lý đối tượng như tâm đổng lực nhưng tâm na cảnh không thành nghiệp dị thời.

Mười bốn chức năng của thức khi hiện khởi trong một diễn trình tâm thì chỉ có 10 vị trí (hay gọi là sở thức - Viññānaṭhāna), và trình tự thứ lớp:

Tục sinh - hộ kiếp - khai môn - thấy hoặc nghe hoặc ngửi hoặc nếm hoặc đụng - tiếp thâu - quan sát - phân đoán - đổng lực - na cảnh - tử.

Tục sinh - hộ kiếp - tử là trình tự của tâm chủ quan trong đời sống.

Khai môn - ngũ thức - tiếp thâu - quan sát - phân đoán - đổng lực - na cảnh (có trường hợp chỉ là khai môn - đổng lực - na cảnh), đó là trình tự của tâm khách quan.

Mười bốn sự này trong sớ giải Thanh Tịnh Đạo gọi là thể trạng thức bình nhật (Viññāṇapavatti ākāra).

Vism.457; Comp. 114.

[483] Mười lăm hạnh của Đức Phật (Caraṇa):

1. Đầy đủ giới hạnh (Sīlasampadā)
2. Thu thúc lục căn (Indriyasaṃvara)
3. Tiết độ ẩm thực (Bhojanamattaññutā)
4. Tỉnh thức luôn khi (Jagariyānuyogo)
5. Có đức tin (Saddho)
6. Có tàm (Hirimā)
7. Có quý (Ottappī)
8. Đa văn (Bahussuto)
9. Tinh cần (Āraddhaviriyo)
10. Trú niệm (Upaṭṭhitasati)
11. Có trí tuệ (Paññavā)
12. Chứng sơ thiền (Paṭhamajjhāna)
13. Chứng nhị thiền (Dutiyajjhāna)
14. Chứng tam thiền (Tatiyajjhāna)
15. Chứng tứ thiền (Catutthajjhāna).

Mười lăm hạnh này là pháp tánh của Đức Phật, một vị Phật là vị có hồng danh Minh Hạnh Túc (Vijjacaranasampanno), hạnh túc ở đây là đủ 15 hạnh tự nhiên như vậy.

Mười lăm hạnh này trong kinh còn gọi là Hữu học hạnh (Sekhapaṭipadā), là pháp hành của bậc hữu học để đạt đến giải thoát.

Trong mười lăm hạnh này, hạnh 2, 3, 4 gọi là Pháp hành bất vạy (Apaṇṇakapatipadā), hạnh 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 gọi là Diệu pháp (Saddhamma); hạnh 12, 13, 14, 15 gọi Pháp thiền (Jhāna).

M.I.354.

[484] Mười sáu trí (Soḷasañāṇa) hay tuệ Minh Sát (Vipassanāñāṇa):

1. Tuệ phân biệt danh sắc (Nāmarūpaparicchedañāṇa), trí biết rõ cái gọi là chúng sanh chỉ gồm danh và sắc; đồng thời phân định được cái gì là danh cái gì là sắc.

2. Tuệ duyên đạt (Paccayapariggahañāṇa), trí biết rõ duyên khởi của danh sắc, biết rõ danh sắc có mặt do y tương sinh, hay do nghiệp sanh.

3. Tuệ phổ cập tướng (Sammasanañāṇa), trí biết rõ danh sắc có thực trạng vô thường tướng, khổ tướng và vô ngã tướng.

4-12. Xem chín tuệ quán [438].

13. Tuệ chuyển tộc (Gotrabhūñāṇa), trí khởi lên là giao điểm giữa phàm tánh và thánh tánh, đây vẫn còn là phàm trí.

14. Tuệ đạo (Maggañāṇa), thánh trí siêu thế có mãnh lực sát trừ phiền não.

15. Tuệ quả (Phalañāṇa), thánh trí siêu thế do thánh đạo sanh, có công năng chứng ngộ níp-bàn.

16. Tuệ phản khán (Paccavekkhanañāṇa), là trí dục giới của bậc đã đắc đạo quả quán xét lại các phiền não đã tuyệt trừ, quán xét lại đạo quả đã đắc, quán xét lại níp-bàn đã tỏ ngộ.

Trong 16 tuệ minh sát này, chỉ có tuệ đạo và tuệ quả là trí siêu thế; 14 tuệ minh sát còn lại là trí hiệp thế.

Việc trình bày 16 tuệ minh sát với tên gọi xếp thứ tự như vậy không có xuất xứ trong chánh tạng, mà do các vị Axàlê thiền sư đã truyền dạy bằng cách thu thập ý nghĩa từ bộ Vô Ngại Giải đạo (Paṭisambhidāmagga) và bộ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga).

Ps.1: Vism. 587-678.

[485] Mười sáu cấu uế của tâm (Cittūpakilesa)

1. Tham lam (Abhijjhā, visamalobha)
2. Sân hận (Byāpāda, dosa)
3. Phẫn nộ (Kodha)
4. Oán thù (Upanāha)
5. Phản phúc (Makkha)
6. Hiểm độc (Palāsa)
7. Ganh tỵ (Issā)
8. Bỏn xẻn (Macchariya)
9. Man trá (Māyā)
10. Xảo quyệt (Sātheyya)
11. Ương ngạnh (Thambha)
12. Hiếu tranh (Sārambha)
13. Ngã mạn (Māna)
14. Quá mạn (Atimāna)
15. Kiêu ngạo (Mada)
16. Cẩu thả (Pamāda).

M.I.36.

[486] Mười tám giới, bản chất (Dhātu):

1. Nhãn giới (Cakkhudhātu), là thần kinh nhãn hay mắt.
2. Sắc giới (Rūpadhātu), là cảnh sắc, đối tượng của mắt.
3. Nhãn thức giới (Cakkhuviññāṇadhātu), là tâm nhãn thức, cái biết của mắt.

4. Nhĩ giới (Sotadhātu), là thần kinh nhĩ hay tai.
5. Thinh giới (Saddadhātu), là cảnh thinh, đối tượng của tai.
6. Nhĩ thức giới (Sotaviññāṇadhātu), là tâm nhĩ thức, cái biết của tai.

7. Tỷ giới (Ghānadhātu), là thần kinh tỷ hay mũi.
8. Khí giới (Gandhadhātu), là cảnh khí, đối tượng của mũi.
9. Tỷ thức giới (Ghānaviññāṇadhātu), là tâm tỷ thức, cái biết của mũi.

10. Thiệt giới (Jivhādhātu), là thần kinh thiệt hay lưỡi.
11. Vị giới (Rasadhātu), là cảnh vị, đối tượng của lưỡi.
12. Thiệt thức giới (Jivhāviññāṇadhātu), là tâm thiệt thức, cái biết của lưỡi.

13. Thân giới (Kāyadhātu), là thần kinh thân hay thân thể.
14. Xúc giới (Phoṭṭhabbadhātu), là cảnh xúc, đối tượng của thân.
15. Thân thức giới (Kāyaviññāṇadhātu), là tâm thân thức, cái biết của thân.

16. Ý giới (Manodhātu), là tâm môi giới cho sáu thức, gồm có 2 tâm tiếp thâu và tâm khai ngũ môn.
17. Pháp giới (Dhammadhātu), chính là pháp xứ, là những pháp thực tính có bản chất cá biệt vi tế, gồm 52 tâm sở, 16 sắc tế và níp-bàn. Pháp giới không phải là cảnh pháp (dhammārammaṇa), bởi cảnh pháp gồm cả 121 tâm, 12 sắc thô và chế định, còn pháp giới và pháp xứ thì hạn chế chi pháp.
18. Ý thức giới (Manoviññāṇadhātu), là những tâm ngoài ngũ song thức và 3 tâm ý giới. Có đến 108 ý thức giới.

Vbh.87; Vism.484; Comp.183.

[487] Hai mươi hai quyền (Indriya):

Quyền là khả năng trong một lĩnh vực, pháp nào có chức năng riêng, tính năng đặc biệt, pháp ấy gọi là quyền.

1. Nhãn quyền (Cakkhundriya), là chức năng bắt cảnh sắc, tức là thần kinh nhãn.
2. Nhĩ quyền (Sotindriya), là chức năng bắt cảnh thinh, tức là thần kinh nhĩ.
3. Tỷ quyền (Ghānindriya), là chức năng bắt cảnh khí, tức là thần kinh tỷ.
4. Thiệt quyền (Jivhindriya), là chức năng bắt cảnh vị, tức là thần kinh thiệt.
5. Thân quyền (Kāyindriya), là chức năng bắt cảnh xúc, tức là thần kinh thân.
6. Ý quyền (Manindriya), là chức năng biết cảnh hay nhận thức đối tượng, tức là tất cả tâm.

7. Nữ quyền (Itthindriya), là chức năng thể hiện tính cách của giống cái, tức là sắc nữ tính.
8. Nam quyền (Purisindriya), là chức năng thể hiện tính cách của giống đực, tức là sắc nam tính.
9. Mạng quyền (Jīvitindriya), là chức năng duy trì sự sống còn của danh pháp đồng sanh và sắc pháp, đây chỉ cho tâm sở mạng quyền, sắc mạng quyền.

10. Lạc quyền (Sukhindriya), là chức năng làm cho thân được cảm giác thoải mái, tức là tâm sở lạc thọ.
11. Khổ quyền (Dukkhindriya), là chức năng làm cho thân bị cảm giác khó chịu, tức là tâm sở khổ thọ.
12. Hỷ quyền (Somanassindriya), là chức năng làm cho tâm sảng khoái, tức là tâm sở hỷ thọ.
13. Ưu quyền (Domanassindriya), là chức năng làm cho tâm bực bội, tức là tâm sở ưu thọ.
14. Xả quyền (Upekkhindriya), là chức năng làm cho tâm có cảm giác thản nhiên, tức là tâm sở xả thọ.

15. Tín quyền (Saddhindriya), là chức năng thanh lọc, làm cho tâm trở nên trong sáng, tức là tâm sở tín.
16. Tấn quyền (Viriyindriya), là chức năng kích động, làm cho tâm hăng hái, tức là tâm sở cần.
17. Niệm quyền (Satindriya), là chức năng ghi nhớ, làm cho tâm chú ý đối tượng, tức là tâm sở niệm.
18. Định quyền (Samādhindriya), là chức năng tập trung, làm cho tâm trụ vào đối tượng, tức là tâm sở nhất hành.
19. Tuệ quyền (Paññindriya), là chức năng thẩm thấu, làm cho tâm sáng suốt biết cảnh, tức là tâm sở tuệ.

20. Tri vị tri quyền (Anaññataññassāmītindriya), là trí biết điều chưa từng biết, tức là trí sơ đạo, vì đây là thánh trí đầu tiên biết cảnh níp-bàn mà trí phàm phu chưa từng biết.
21. Dĩ tri quyền (Aññindriya), là trí biết cái đã từng biết, tức là trí hữu học từ sơ quả đến tứ đạo, trí hữu học này biết cảnh níp-bàn mà trí sơ đạo đã biết rồi.
22. Cụ tri quyền (Aññātāvindriya), là trí biết viên mãn, trí biết đầy đủ toàn diện về phương diện giải thoát. Đây là trí tứ quả hay thánh trí quả A-la-hán.

Hai mươi hai quyền này được trình bày và giải thích đầy đủ trong tạng Vi Diệu Pháp bộ Phân Tích (Vibhaṅga), cũng có trong 2 bộ sớ giải Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) và Thắng Pháp Tập Yếu Luận (Abhidhammatthasaṅgaha). Ở kinh tạng chỉ thấy trình bày trong Tương ưng bộ phẩm Tương ưng quyền (S.v.193-243), nhưng nói từng phần rải rác.

Hai mươi hai quyền này phân theo danh sắc như sau:

- Có 8 quyền thuộc sắc pháp là 1, 2, 3, 4, 5, 7, 8, và 9.

- Có 15 quyền thuộc danh pháp (6, 9, cho đến 22).

- Mạng quyền (số 9) thì gồm cả danh và sắc.

Vbh.122; Vism. 491; Comp.175.

[488] Hai mươi tám sắc pháp (Rūpa):

Sắc pháp là pháp thực tính thuộc vật chất, sắc pháp là sắc uẩn (Rūpakhandha). Sắc pháp gồm 2 phần là 4 sắc đại hiển và 24 sắc y sinh.

4 sắc đại hiển (Mahābhūtarūpa):

1. Đất (Pathavī)
2. Nước (Āpo)
3. Lửa (Tejo)
4. Gió (Vāyo)

24 sắc y sinh (Upādārūpa):

1. Nhãn (Cakkhu)
2. Nhĩ (Sota)
3. Tỷ (Ghāna)
4. Thiệt (Jivhā)
5. Thân (Kāya)

(Năm sắc này gọi là sắc thần kinh).

6. Cảnh sắc (Rūpa)
7. Cảnh thinh (Sadda)
8. Cảnh khí (Gandha)
9. Cảnh vị (Rasa)

(Cảnh xúc: đất, lửa, gió thuộc sắc đại hiển. Bảy sắc này được gọi là sắc cảnh giới hay sắc đối tượng gocararūpa hay visayarūpa).

10. Sắc nữ tính (Itthatta)
11. Sắc nam tính (Purisatta)

(Hai sắc này được gọi là sắc tính hay sắc trạng thái - bhāvarūpa).

12. Sắc ý vật (Hadayavatthu)

(Sắc này cũng gọi là hadayarūpa - sắc trái tim; trong chánh tạng bộ Paṭṭhāna chỉ gọi sắc này là vatthu để nói đến sắc ý vật).

13. Sắc mạng quyền (Jīvitindriya). (Sắc này còn được gọi là jīvitarūpa - sắc mạng).
14. Sắc đoàn thực (Kabaliṅkārāhāra). (Sắc này còn được gọi là āhārarūpa - sắc vật thực).
15. Sắc hư không giới (Ākāsadhātu). (Sắc này còn được gọi là paricchedarūpa - sắc giao giới).
16. Sắc thân biểu tri (Kāyaviññatti)
17. Sắc khẩu biểu tri (Vacīviññatti)

(Hai sắc này gọi chung là sắc biểu tri viññattirūpa).

18. Sắc khinh (Lahutā)
19. Sắc nhu (Mudutā)
20. Sắc thích nghiệp (Kammaññatā)

(Ba sắc này gọi chung là sắc đặc biệt vikāra-rūpa).

21. Sắc sinh, tính tập (Upacaya)
22. Sắc tiến, thừa kế (Santati)
23. Sắc dị, lão mại (Jaratā)
24. Sắc diệt, vô thường (Aniccatā)

(Bốn sắc này gọi chung là sắc tướng hay sắc trạng thái - lakkhanarūpa)

Trong 28 sắc pháp, từ sắc đất cho đến sắc đoàn thực, gọi là 18 sắc thành tựu hay sắc rõ (Nipphannarūpa); từ sắc hư không cho đến sắc diệt, gọi là 10 sắc phi thành tựu hay sắc không rõ (Anipphannarūpa)

Vism.443; Comp. 154, 155.

[489] Ba mươi mốt cõi (Bhūmi):

Cõi là lãnh vực sinh hoạt của chúng sanh, là chỗ nương sống của các loài hữu tình:

1. Cõi địa ngục (Niraya)
2. Cõi bàng sanh (Tiracchānayoni)
3. Cõi ngạ quỉ (Pittivisaya)
4. Cõi atula (Asurakāya)

Bốn cõi này gọi chung là cõi khổ hay đọa xứ (Apāyabhūmi).

5. Cõi nhân loại (Manussa)
6. Cõi tứ đại thiên vương (Catummahārājika)
7. Cõi đao lợi (Tāvatiṃsa, tettiṃsā)
8. Cõi dạ ma (Yāmā)
9. Cõi đâu suất (Tusita)
10. Cõi hóa lạc (Nimmānaratī)
11. Cõi tha hóa tự tại (Paranimmitavasavattī).

Bảy cõi này gọi chung là cõi vui dục giới, (Kāmasugatibhūmi). Bốn cõi khổ và bảy cõi vui dục giới này được gọi là 11 cõi dục giới (Kāmāvacara-bhūmi, hay kāmaloka).

12. Cõi Phạm chúng thiên (Brahmapārisajjā)
13. Cõi Phạm phụ thiên (Brahmapurohitā)
14. Cõi Đại phạm thiên (Mahābrahmā)

Ba cõi này gọi là cõi sơ thiền (Paṭhamajjhānabhūmi).

15. Cõi thiểu quang thiên (Parittābhā)
16. Cõi vô lượng quang thiên (Appamāṇābhā)
17. Cõi quang âm thiên (Ābhassarā)

Ba cõi này gọi là cõi nhị thiền (Dutiyajjhānabhūmi)

18. Cõi thiểu tịnh thiên (Parittasubhā)
19. Cõi vô lượng tịnh thiên (Appamāṇasubhā)
20. Cõi biến tịnh thiên (Subhakiṇhā)

Ba cõi này gọi là cõi tam thiền (Tatiyajjhānabhūmi).

21. Cõi quảng quả thiên (Vehapphalā)
22. Cõi vô tưởng thiên (Asaññīsatta)
23. Cõi vô phiền thiên (Avihā)
24. Cõi vô nhiệt thiên (Atappā)
25. Cõi thiện kiến thiên (Sudassana)
26. Cõi thiện hiện thiên (Sudassī)
27. Cõi sắc cứu cánh thiên (Akiniṭṭhā)

Bảy cõi này gọi là cõi tứ thiền (Catutthajjhānabhūmi). Riêng năm cõi từ vô phiền thiên đến sắc cứu cánh thiên được gọi là cõi tịnh cư (suddhāvāsa), là năm cõi của bậc thánh A-na-hàm sanh lên.

Ba cõi sơ thiền, ba cõi nhị thiền, ba cõi tam thiền và bảy cõi tứ thiền, gọi chung là 16 cõi sắc giới, (Rūpāvācarabhūmi, hay rūpaloka).

28. Cõi không vô biên xứ (Ākāsānañcāyatanabhūmi).
29. Cõi thức vô biên xứ (Viññāṇañcāyatanabhūmi).
30. Cõi vô sở hữu xứ (Ākiñcaññāyatanabhūmi)
31. Cõi phi tưởng phi phi tưởng xứ (Nevasaññānāsaññāyatanabhūmi).

Bốn cõi này được gọi là cõi vô sắc giới (Arūpāvacarabhūmi hay arūpaloka).

Các bậc thánh không có mặt trong cõi vô tưởng và bốn cõi khổ.

Hạng phàm phu và hai bậc hữu học thấp không có mặt trong năm cõi tịnh cư.

Hai mươi mốt cõi phàm vui hữu tâm đều có mặt các hạng phàm và thánh.

Trong trường bộ kinh trình bày sanh vức của loài hữu tình chỉ có 5 cõi là địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ, nhân loại và thiên giới. Cõi thiên giới ở đây gồm cả cõi chư thiên dục giới, cõi phạm thiên sắc giới và cõi phạm thiên vô sắc giới. Sở dĩ trong 5 sanh vức thiếu Atula vì Atula được kể chung vào cõi ngạ quỉ (theo chú giải của Itivuttaka).

Trong 5 sanh vức ấy, địa ngục, bàng sanh, ngạ quỉ là khổ cảnh, nhân loại và thiên giới là nhàn cảnh.

Comp. 137.

[490] Ba mươi hai tướng đại nhân (Mahāpurisalakkhaṇa):

Người có 32 đại nhân tướng này chỉ có hai hạng là bậc Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddho) và vua Chuyển Luân Vương (Cakkavattirājā).

1. Lòng bàn chân bằng phẳng.
2. Dưới lòng bàn chân có chỉ hiện ra hình bánh xe với đầy đủ các bộ phận, vành xe, đùm xe và 1000 căm xe.
3. Gót chân thon dài.
4. Ngón tay ngón chân suông dài.
5. Tay chân mềm mại.
6. Tay chân có chỉ giăng như màn lưới.
7. Mắt cá chân dáng như vỏ sò.
8. Ống chân thon thả như chân hươu.
9. Cánh tay dài có thể đứng thẳng người mà sờ tới gối.
10. Ngọc hành ẩn kín trong bọc da.
11. Da màu sáng như vàng ròng.
12. Da thật láng mịn, bụi bặm không bám.
13. Mỗi lỗ chân lông mọc chỉ một sợi lông.
14. Lông mọc hướng về phía trên, các lông màu xanh đen và ngọn xoáy tròn theo chiều phải.
15. Thân hình ngay thẳng như thân phạm thiên.
16. Trên thân bảy chỗ thịt đầy đặn không khuyết lõm; bảy chỗ là cổ, 2 lưng bàn tay, 2 lưng bàn chân, 2 vai.
17. Nửa thân trên tựa như mình sư tử hẩu.
18. Lưng bằng phẳng.
19. Thân cân đối như cây bàng, thân cao bằng sải tay và sải tay dài bằng thân.
20. Vị giác nhạy bén, lưỡi dễ dàng hấp thụ hương vị thức ăn.
21. Cần cổ tròn trịa, thẳng đều.
22. Cằm tròn như cằm sư tử.
23. Có 40 cái răng, mỗi hàm 20 cái.
24. Răng mọc đều và bằng, không có cao thấp.
25. Răng mọc khít khao, không hở.
26. Bốn cái răng nhọn thật trắng sạch .
27. Lưỡi rộng và dài.
28. Tiếng nói trong và ấm, rõ ràng như tiếng nói phạm thiên, hay như tiếng chim Karavika.
29. Tròng mắt đen huyền.
30. Lông mi dài mịn như mi mắt con bê.
31. Giữa đôi lông mày có chùm lông trắng mềm như bông.
32. Đầu có nhục kế, xương đỉnh đầu nổi vung lên trông như đội mão.

D.III.143. Lakkhaṇasutta.

[491] Ba mươi bảy phẩm bồ-đề (Bodhipakkhiyadhamma):

Gồm có bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm quyền, năm lực, bảy giác chi, tám thánh đạo. Xem [383]. Bảy nhóm pháp đảng giác.

[492] Ba mươi tám điều kiết tường (Maṅgala) pháp đưa đến sự hạnh phúc, pháp an lành, cũng gọi là điều lành cao thượng (Uttamamaṅgala hay maṅgalamuttama):

Ba mươi tám điều kiết tường này được Đức Phật thuyết thành 10 bài kệ (Gāthā) trong bài kinh (Maṅgalasutta):

Bài kệ 1

1. Không thân cận kẻ ngu (Asevanā ca balānaṃ)
2. Thân cận bậc hiền trí (Paṇḍitānaṃ ca sevanā)
3. Cúng dường bậc đáng cúng (Pūjā ca pūjaniyānaṃ)

Bài kệ 2

4. Cư trú chỗ thích đáng (Paṭirūpadesavāso)
5. Đã từng tạo phước báu (Pubbe ca katapuññatā)
6. Tự lập trường chân chánh (Attasammāpa-nidhi).

Bài kệ 3

7. Có học rộng đa văn (Bāhusaccañca)
8. Có nghề nghiệp tinh thục (Sippañca)
9. Khéo tuân thủ luật lệ (Vinayo ca susikkhito)
10. Lời nói thuộc thiện ngôn (Subhāsitā ca yā vācā).

Bài kệ 4

11. Phụng dưỡng mẹ cha (Mātāpitu upaṭṭhānaṃ)
12. Tiếp độ con (Puttassa saṅgaho)
13. Tiếp độ vợ (Dārassa saṅgaho)
14. Làm việc không tắc trách (Anākulā ca kammantā).

Bài kệ 5

15. Bố thí xả tài (Dānañca)
16. Thực hành thiện pháp (Dhammacariyā)
17. Tiếp độ quyến thuộc (Ñātakānañca saṅgaho)
18. Tạo nghiệp vô tội (Anavajjāni kammāni)

Bài kệ 6

19. Kiêng tránh điều ác (Āratī viratī pāpā)
20. Cai nghiện rượu chè (Majjapaṇā ca saññamo)
21.Không dể duôi thiện pháp (Appamādo ca dhammesu)

Bài kệ 7

22. Kính trọng người (Gāravo ca)
23. Sống khiêm tốn (Nivāto ca)
24. Sống tri túc (Santuṭṭhī ca)
25. Biết tri ân (Kataññū)
26. Nghe pháp đúng thời (Kālena dhammassavanaṃ).

Bài kệ 8

27. Kham nhẫn (Khantī ca)
28. Dễ dạy (Sovacassatā)
29. Diện kiến bậc sa môn (Samaṇānañca dassanaṃ)
30. Luận pháp đúng thời (Kālena dhammasā kacchā).

Bài kệ 9

31. Sống khắc kỷ (Tapo ca)
32. Sống phạm hạnh (Brahmacariyañca)
33. Tỏ ngộ thánh đế (Ariyasaccāna dassanaṃ)
34. Tác chứng níp-bàn (Nibbānasacchikiriyā ca)

Bài kệ 10

35. Tâm không động khi va chạm pháp đời (Phuṭṭhassa lokadhammehi cittaṃ yassa na kampati)
36. Tâm không sầu (Asokaṃ)
37. Tâm vô nhiễm (Virāgaṃ)
38. Tâm tự tại (Khemaṃ).

Ba mươi tám điều kiết tường này nếu được thực hành theo sẽ thắng hoá trong mọi nơi, và sẽ được an lành trong mọi hoàn cảnh. Đó là pháp kiết tường tối thượng ở đời.

Kh.V.3:Sn.259-268.

[493] Bốn mươi nghiệp xứ (Kammaṭṭhāna), đề mục thiền, án xứ cho việc tu thiền chỉ:

- 10 đề mục biến xứ (Kasina), xem [444].

- 10 đề mục bất mỹ (Asubha), xem [464].

- 10 đề mục tùy niệm (Anussati), xem [463].

- 4 đề mục phạm trú (Brahmavihāra), xem [212].

- 1 đề mục tưởng nhàm chán vật thực (Āhāra paṭikūlasaññā), là suy tưởng tính chất đáng nhờm gớm trong thức ăn do quá trình hình thành cho đến tiêu hóa và thải ra.

- 1 đề mục phân định bốn chất (Catudhātuvavaṭṭhāna), là xác định trong thân này có bốn đại, cái gì thuộc về đất, cái gì thuộc về nước, cái gì thuộc về lửa, cái gì thuộc về gió.

- 4 đề mục vô sắc (Arūpa), gồm có đề mục "Không vô biên xứ" (Khái niệm hư không là không giới hạn), đề mục "Thức vô biên xứ" (Khái niệm tâm thức là không giới hạn), đề mục "Vô sở hữu xứ" (Khái niệm phủ nhận sự vô biên của hư không và tâm thức), đề mục "Phi tưởng phi phi tưởng xứ" (Khái niệm vừa phủ nhận vừa chấp nhận sự có mặt của tâm thức).

Sự phân định đề mục theo sự tu thiền, xin xem [117] ba sự tu tiến. Sự phân định đề mục theo cá tính, xem [356] sáu cá tính.

Vism. 110; Comp. 204.

[494] Năm mươi hai tâm sở (Cetasika):

Tâm sở hay sở hữu tâm là những thuộc tính của tâm, luôn luôn đồng sanh - đồng diệt - đồng biết cảnh với tâm, gọi là pháp tương ưng tâm.

1. Xúc (Phassa)
2. Thọ (Vedanā)
3. Tưởng (Saññā)
4. Tư (Cetanā)
5. Nhất hành (Ekaggatā)
6. Mạng quyền (Jīvitindriya)
7. Tác ý (Manasikāra)

Bảy tâm sở này gọi chung là tâm sở biến hành (Sabbacittasādhāraṇacetasika)

8. Tầm (Vitakka)
9. Tứ (Vicāra)
10. Thắng giải (Adhimokkha)
11. Cần (Viriya)
12. Hỷ (Pīti)
13. Dục (Chanda)

Sáu tâm sở này gọi là tâm sở biệt cảnh (Pakiṇṇaka-cetasika).

Bảy tâm sở biến hành và sáu tâm sở biệt cảnh gồm lại gọi là 13 tâm sở tợ tha (Aññasamāna-cetasika).

14. Si (Moha)
15. Vô tàm (Ahirika)
16. Vô quý (Anottappa)
17. Phóng dật (Uddhacca)

Bốn tâm sở này được gọi là tâm sở bất thiện biến hành (Sabbākusalasadhāraṇa-cetasika). Cũng gọi nhóm 4 tâm sở này là tâm sở si phần (Mocatuka-cetasika).

18. Tham (Lobha)
19. Tà kiến (Diṭṭhi)
20. Kiêu mạn (Māna)

Ba tâm sở này gọi là nhóm tham phần (Lotika-cetasika).

21. Sân (Dosa)
22. Tật (Issā)
23. Lận (Macchariya)
24. Hối (Kukkucca)

Bốn tâm sở này gọi là nhóm sân phần (Docatuka-cetasika).

25. Hôn trầm (Thīna)
26. Thụy miên (Middha)

Hai tâm sở này gọi là nhóm hôn phần (Thīduka-cetasika).

27. Hoài nghi (Vicikicchā)

Mười tâm sở kể từ tham phần, sân phần, hôn phần và hoài nghi, được gọi là những tâm sở bất thiện biệt cảnh (Pakiṇṇakākusala-cetasika).

Bốn tâm sở bất thiện biến hành và mười tâm sở bất thiện biệt cảnh gộp chung gọi là 14 tâm sở bất thiện (Akusala-cetasika).

28. Tín (Saddhā)
29. Niệm (Sati)
30. Tàm (Hiri)
31. Quý (Ottappa)
32. Vô tham (Alobha)
33. Vô sân (Adosa)
34. Trung hòa (Tatramajjhattatā)
35. Tịnh thân (Kāyapassaddhi)
36. Tịnh tâm (Cittapassaddhi)
37. Khinh thân (Kāyalahutā)
38. Khinh tâm (Cittalahutā)
39. Nhu thân (Kāyamudutā)
40. Nhu tâm (Cittamudutā)
41. Thích thân (Kāyakammaññatā)
42. Thích tâm (Cittakammaññatā)
43. Thuần thân (Kāyapāguññatā)
44. Thuần tâm (Cittapāguññatā)
45. Chánh thân (Kāyujukatā)
46. Chánh tâm (Cittujukatā)

Mười chín tâm sở này được gọi là tâm sở tịnh hảo biến hành (Sobhaṇasādhāraṇa-cetasika)

47. Chánh ngữ (Sammāvācā)
48. Chánh nghiệp (Sammākammanta)
49. Chánh mạng (Sammā-ājīva)

Ba tâm sở này được gọi là tâm sở giới phần hay ngăn trừ phần (Viratī-cetasika)

50. Bi (Karuṇā)
51. Tùy hỷ (Muditā)

Hai tâm sở này được gọi là tâm sở vô lượng phần (Appamaññā-cetasika).

52. Tuệ quyền (Paññindriya)

Tâm sở này cũng gọi là tâm sở vô si (Amoha-cetasika), hoặc thường gọi là tâm sở trí tuệ (Paññā-cetasika).

Tâm sở giới phần, vô lượng phần và tuệ quyền, gọi là 6 tâm sở tịnh hảo biệt cảnh (Pakiṇṇakasobhana-cetasika).

Mười chín tâm sở tịnh hảo biến hành và sáu tâm sở tịnh hảo biệt cảnh, gộp chung gọi là 25 tâm sở tịnh hảo (Sobhaṇa-cetasika).

Comp. 94

[495] Tám mươi phụ tướng (Anubyañjanā) nét đẹp của Đức Phật:

1. Tóc đen và mượt.
2. Tóc có mùi thơm tự nhiên.
3. Hương tóc luôn thơm tỏa.
4. Tóc xoắn tròn.
5. Tóc luôn luôn xoắn về bên phải.
6. Tóc mịn màng.
7. Tóc mọc không bị rối.
8. Tóc thuần màu đen, không bị hoe hay bạc, dù lúc tuổi già.
9. Tóc lông của Phật luôn luôn mọc ép sát, không dựng lên như người thường.
10. Lông trên thân ngài có màu xanh đen.
11. Các sợi lông đều dài bằng nhau.
12. Lông mọc trật tự không nghiêng ngả.
13. Đôi lông mày của ngài cong hình cánh cung.
14. Đuôi lông mày kéo dài đến tận đuôi mắt.
15. Lông mày lớn và đậm.
16. Lông mày mọc thứ lớp xếp lên nhau.
17. Lông mày rất mịn.
18. Răng sạch sẽ tự nhiên không cáu bợn.
19. Răng trắng bóng như xà cừ.
20. Bốn răng nhọn tròn và sạch.
21. Răng trơn láng, không có dấu hằn khuyết.
22. Da thịt của ngài luôn luôn mát
23. Da thịt của ngài luôn luôn căng đầy, không có nếp nhăn dù ở chạn tuổi nào.
24. Làn da của ngài trơn láng đến mức bụi bặm không bám dính được.
25. Tròng mắt của ngài có năm đồng tử (con ngươi) với năm màu trong suốt (thị lực cực mạnh có thể nhìn thấy một hạt mè ở cách xa 1 do tuần dù trong đêm tối).
26. Hai hố mắt rộng và dài bằng nhau.
27. Lỗ tai trong tròn đều.
28. Vành tai dài và đẹp như cánh sen.
29. Sống mũi cao và thẳng.
30. Cánh mũi kiểu dáng thanh tú.
31. Lưỡi mềm mại và đỏ thắm.
32. Lưỡi có kiểu dáng đẹp nhất.
33. Hơi thở của ngài rất nhẹ nhàng.
34. Đôi môi đều đặn và luôn tươi thắm
35. Đôi môi ngài lúc nào cũng hàm tiếu.
36. Miệng ngài luôn có mùi thơm của hoa sen.
37. Vầng trán ngài rộng cân đối.
38. Trán của ngài là kiểu trán đẹp nhất.
39. Khuôn mặt ngài thon thả một cách cân đối, không mập, không ốm.
40. Lưỡng quyền đầy đặn nhưng khuất kín .
41. Lưỡng quyền của ngài là kiểu lưỡng quyền đẹp nhất.
42. Đầu của ngài trông như chiếc tán lọng bằng ngọc.
43. Nhục kế (đỉnh đầu) phát sáng cả ngày đêm.
44. Ngũ quan của ngài rất thanh khiết.
45. Eo lưng rõ rệt, bụng thót không xệ.
46. Lỗ rún tròn trịa tuyệt đối.
47. Trên da bụng có nếp da xoáy tròn về bên phải.
48. Tay chân ngài đầy đặn tròn trịa.
49. Các ngón tay chân của ngài sáng ánh.
50. Các ngón tay chân thon dài đều đặn.
51. Các ngón tay chân dáng đẹp như được thợ điêu khắc trau chuốt.
52. Các móng tay chân có màu hồng.
53. Các đầu móng tay chân thẳng vút tự nhiên không gãy quặp.
54. Bề mặt móng tay chân nổi tròn bóng láng không bì lằn khuyết.
55. Đầu gối tròn trịa không lộ xương ra dù ở tư thế nào.
56. Bắp chân trông giống như cây chuối vàng, thẳng ngay một cách hoàn chỉnh.
57. Đôi chân bằng nhau tuyệt đối, không chênh lệch lớn nhỏ cao thấp dù chỉ một li.
58. Cánh tay ngài co duỗi uyển chuyển như vòi voi Erāvaṇa của Đế Thích cưỡi.
59. Các đường chỉ tay luôn đỏ hồng.
60. Đường chỉ tay sâu đậm.
61. Đường chỉ tay, đường nào ra đường đó, kéo dài không đứt quãng.
62. Đường chỉ tay chạy thẳng, không gẫy chấp.
63. Ngài có thân tướng nam nhân hoàn hảo, không có một bộ phận hay một cử chỉ nào giống nữ giới.
64. Các bộ phận thân thể của ngài đều tuyệt hảo đến mức độ nhìn tưởng đến pho tượng thẩm mỹ.
65. Trên thân ngài, thịt da được phân bố thích hợp từng chỗ, không thiếu không thừa.
66. Toàn thân ngài không hề có một nốt ruồi hay dấu tàn nhang, dù nhỏ.
67. Thân thể ngài hoàn toàn cân đối.
68. Thân lực (sức mạnh của thân) của Đức Phật bằng sức 10 con voi Chaddanta. Theo chú giải, sức 1 con voi Chaddanta bằng 10 con voi Uposatha, 1 con voi Uposatha bằng 10 con voi Hema, 1 con voi Hema bằng 10 con voi Maṅgala, 1 con voi Maṅgala bằng 10 con voi Gandha, 1 con voi Gandha bằng 10 con voi Piṅgala, 1 con voi Piṅgala bằng 10 con voi Tamaba, 1 con voi Tamaba bằng 10 con voi Paṇḍhara, 1 con voi Paṇḍhara bằng 10 con voi Gaṅgeyya, 1 con voi Gaṅgeyya bằng 10 con voi Kālāvaka, 1 con voi Kālāvaka bằng 10 con voi thường.
69. Báu thân của Đức Phật luôn luôn có vầng sáng tỏa ra trừ khi ngài muốn giấu kín.
70. Thân ngài tự nhiên có hào quang do phước, không phải do thần thông.
71. Thân ngài luôn luôn sung mãn tươi mát dù ở chạn tuổi già.
72. Thân ngài luôn luôn tinh khiết.
73. Thân ngài có mùi thơm tự nhiên.
74Ṭhân ngài không hề có chỗ thô cứng, chai sượng.
75.Khắp châu thân ngài được phủ kín bởi những lông tơ mịn.
76. Khi ngài bước đi, luôn luôn nhấc chân phải trước.
77. Ngài có dáng đi đường bệ kỳ vĩ như voi chúa.
78. Ngài có dáng đi hiên ngang oai dũng như sư tử chúa.
79. Ngài có dáng đi nhẹ nhàng thanh thoát như con hạc chúa.
80. Ngài có dáng đi uy nghiêm chậm rãi như con bò chúa.

Trích từ Paṭhamabodhikathā.

[496] Tám mươi chín tâm (Citta):

Tâm là sự biết cảnh, nhận thức đối tượng; tâm là thành phần thức uẩn, một trong năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành và thức), tâm là một trong bốn pháp chân đế Paramatthasacca (Tâm, Tâm sở, Sắc pháp và Níp-bàn). Tâm có nhiều tên gọi khác nữa như mano (ý), viññāṇā (thức), mānasa (tâm địa), hadaya (tâm tạng), paṇḍara (bạch tịch)... tùy theo chỗ dùng mà gọi.

Tâm nói hẹp có 89 thứ, nói rộng có đến 121 thứ; được phân thành 5 nhóm như sau:

I- Tâm bất thiện (Akusalacitta), gồm 12 thứ

I.1. Tám tâm tham (Lobhamūlacitta) là:

a) Tâm câu hành hỷ hợp tà kiến vô trợ (Somanassasahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

b) Tâm câu hành hỷ hợp tà kiến hữu trợ (Somanassasahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ sasaṅkhāri kaṃ).

c) Tâm câu hành hỷ ly tà kiến vô trợ (Somanassasahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

d) Tâm câu hành hỷ ly tà kiến hữu trợ (Somanassasahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ).

e) Tâm câu hành xả hợp tà kiến vô trợ (Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

f) Tâm câu hành xả hợp tà kiến hữu trợ (Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ)

g) Tâm câu hành xả ly tà kiến vô trợ (Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

h) Tâm câu hành xả ly tà kiến hữu trợ (Upekkhāsahagataṃ diṭṭhigatavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ).

I2. Hai tâm sân căn (Dosamūlacitta):

a) Tâm câu hành ưu hợp phẫn nộ vô trợ (Domanassasahagataṃ paṭighasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

b) Tâm câu hành ưu hợp phẫn nộ hữu trợ (Domanassasahagataṃ paṭighasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ).

I.3 Hai tâm si căn (Mohamūlacitta):

a) Tâm câu hành xả hợp hoài nghi (Upekkhāsahagataṃ vicikicchāsampayuttaṃ).

b) Tâm câu hành xả hợp phóng dật (Upekkhā sahagataṃ uddhaccasampayuttaṃ).

II- Tâm vô nhân (Ahetukacitta) gồm 18 thứ:

II.1. Bảy tâm quả bất thiện (Akusalavipākacitta):

a) Nhãn thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ cakkhuviññāṇaṃ).

b) Nhĩ thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ sotaviññāṇaṃ).

c) Tỷ thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ ghānaviññāṇaṃ).

d) Thiệt thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ jivhāviññāṇaṃ).

e) Thân thức câu hành khổ (Dukkhasahagataṃ kāyaviññāṇaṃ).

f) Tâm tiếp thâu câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ sampaṭicchanacittaṃ).

g) Tâm quan sát câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ santīraṇacittaṃ).

II2. Tám quả thiện vô nhân (Kusalavipāka ahetukacitta):

a) Nhãn thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ cakkhuviññāṇaṃ).

b) Nhĩ thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ sotaviññāṇaṃ).

c) Tỷ thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ ghānaviññāṇaṃ).

d) Thiệt thức câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ jivhāviññāṇaṃ).

e) Thân thức câu hành lạc (Sukhasahagataṃ kāyaviññāṇaṃ).

f) Tâm tiếp thâu câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ sampaṭicchanacittaṃ).

g) Tâm quan sát câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ santīraṇacittaṃ).

h) Tâm quan sát câu hành hỷ (Somanassasahagataṃ santīraṇacittaṃ).

II3. Ba tâm tố vô nhân (Ahetukakiriyācitta):

a) Tâm khai ngũ môn câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ pañcadvārāvajjanacittaṃ).

b) Tâm khai ý môn câu hành xả (Upekkhāsahagataṃ manodvārāvajjanacittaṃ).

c) Tâm sinh tiếu câu hành hỷ (Somanassasahagataṃ hasituppādacittaṃ).

12 tâm bất thiện và 18 tâm vô nhân gộp lại gọi là 30 tâm vô tịnh hảo (Asobhanacitta).

III- Tâm dục giới tịnh hảo (Kāmāvacarasobhanacitta) gồm 24 thứ:

III.1. Tám tâm thiện dục giới hữu nhân (Sahetukakāmāvacarakusalacitta), cũng gọi là tâm đại thiện (Mahākusalacitta):

a) Tâm câu hành hỷ hợp trí vô trợ (Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

b) Tâm câu hành hỷ hợp trí hữu trợ (Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ).

c) Tâm câu hành hỷ ly trí vô trợ (Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

d) Tâm câu hành hỷ ly trí hữu trợ (Somanassasahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ).

e) Tâm câu hành xả hợp trí vô trợ (Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

f) Tâm câu hành xả hợp trí hữu trợ (Upekkhāsahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ).

g) Tâm câu hành xả ly trí vô trợ (Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

h) Tâm câu hành xả ly trí hữu trợ (Upekkhāsahagataṃ ñāṇavippayuttaṃ sasaṅkhārikaṃ).

III2. Tám tâm quả dục giới hữu nhân hay tâm quả (Sahetukakāmāvacaravipākacitta), cũng gọi là tâm đại quả (Mahāvipākacitta):

a) Tâm câu hành hỷ hợp trí vô trợ (Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ)

... Tám tâm này có tên gọi cũng giống như tâm đại thiện.

III3. Tám tâm tố dục giới hữu nhân đại tố (Sahetukakāmāvacarakiriyācitta), cũng gọi là tâm đại tố (Mahākiriyācitta):

a) Tâm câu hành hỷ hợp trí vô trợ (Somanassasahagataṃ ñāṇasampayuttaṃ asaṅkhārikaṃ).

... Tám tâm tố này có tên gọi cũng giống như tâm đại thiện.

(30 tâm vô tịnh hảo và 24 tâm tịnh hảo dục giới, tịnh hảo gộp lại gọi là 54 tâm dục giới Kāmāvacaracitta).

IV- Tâm sắc giới (Rūpāvacarakusalacitta) gồm 15 thứ:

IV.1. Năm tâm thiện sắc giới (Rūpāvacarakusalacitta):

a) Tâm thiện sơ thiền câu hữu tầm tứ hỷ lạc định (Vitakkavicārapītisukhekaggatāsahitaṃ paṭhamajjhānakusalacittaṃ).

b) Tâm thiện nhị thiền câu hữu tứ hỷ lạc định (Vicārapītisukhekaggatāsahitaṃ dutiyajjhānakusalacittaṃ).

c) Tâm thiện tam thiền câu hữu hỷ lạc định (Pītisukhekaggatāsahitaṃ tatiyajjhānakusalacittaṃ).

d) Tâm thiện tứ thiền câu hữu lạc định (Sukhekaggatāsahitaṃ catutthajjhānakusalacittaṃ).

e) Tâm thiện ngũ thiền câu hữu xả định (Upekkhekaggatāsahitaṃ pañcamajjhānakusalacittaṃ).

IV2. Năm tâm quả sắc giới (Rūpāvacaravipākacitta):

a) Tâm quả sơ thiền câu hữu tầm tứ hỷ lạc định (Vitakkavicārapītisukhekaggatāsahitaṃ paṭhamajjhānavipākacittaṃ).

b) Tâm quả nhị thiền câu hữu tứ hỷ lạc định (Vicārapītisukhekaggatāsahitaṃ dutiyajjhānavipākacittaṃ).

c) Tâm quả tam thiền câu hữu hỷ lạc định (Pītisukhekaggatāsahitaṃ tatiyajjhānavipākacittaṃ).

d) Tâm quả tứ thiền câu hữu lạcđịnh (Sukhekaggatāsahitaṃ catutthajjhānavipākacittaṃ).

e) Tâm quả ngũ thiền câu hữu xả định (Upekkhekaggatāsahitaṃ pañcamajjhānavipākacittaṃ).

IV3. Năm tâm tố sắc giới (Rūpāvacarakiriyācitta):

a) Tâm tố sơ thiền câu hữu tầm tứ hỷ lạc định (Vitakkavicārapītisukhekaggatāsahitaṃ paṭhamajjhā nakiriyācittaṃ).

b) Tâm tố nhị thiền câu hữu tứ hỷ lạc định (Vicārapītisukhekaggatāsahitaṃ dutiyajjhānakiriyā cittaṃ).

c) Tâm tố tam thiền câu hữu hỷ lạc định (Pītisukhekaggatāsahitaṃ tatiyajjhānakiriyā cittaṃ)

d) Tâm tố tứ thiền câu hữu lạc định (Sukhekag gatāsahitaṃ catutthajjhānakiriyā cittaṃ).

e. Tâm tố ngũ thiền câu hữu xả định (Upekkhekaggatāsahitaṃ pañcamajjhānakiriyācittaṃ).

V- Tâm vô sắc giới (Arūpāvacaracitta), gồm 12 thứ:

V.1. Bốn tâm thiện vô sắc giới (Arūpāvacarakusalacitta):

a) Tâm thiện không vô biên xứ (Ākāsānañcā yatanakusalacittaṃ).

b) Tâm thiện thức vô biên xứ (Viññāṇañcā yatanakusalacittaṃ).

c) Tâm thiện vô sở hữu xứ (Ākiñcaññāyatanakusalacittaṃ).

d) Tâm thiện phi tưởng phi phi tưởng xứ (Nevasaññānāsaññāyatanakusalacittaṃ).

V.2. Bốn tâm quả vô sắc giới (Arūpāvacaravipākacitta):

a) Tâm quả không vô biên xứ (Ākāsānañcā yatanavipākacittaṃ).

b) Tâm quả thức vô biên xứ (Viññāṇañcāyatanavipākacittaṃ).

c) Tâm quả vô sở hữu xứ (Ākiñcaññāyatanavipākacittaṃ).

d) Tâm quả phi tưởng phi phi tưởng xứ (Nevasaññānāsaññāyatanavipākacittaṃ).

V.3. Bốn tâm tố vô sắc giới (Arūpāvacarakiriyā citta):

a) Tâm tố không vô biên xứ (Ākāsānañcā yatanakiriyācittaṃ).

b) Tâm tố thức vô biên xứ (Viññāṇañcāyatanakiriyācittaṃ).

c) Tâm tố vô sở hữu xứ (Ākiñcaññā yatanakiriyācittaṃ).

d) Tâm tố phi tưởng phi phi tưởng xứ (Nevasaññānāsaññāyatanakiriyācittaṃ).

(15 tâm sắc giới và 12 tâm vô sắc giới gộp lại gọi là 27 tâm đáo đại - mahaggatacitta).

(54 tâm dục giới và 27 tâm đáo đại gộp lại gọi là 81 tâm hiệp thế - lokiyacitta).

VI- Tâm siêu thế (Lokuttara), gồm có 8 hoặc 40 thứ:

VI.1. Bốn hoặc hai mươi tâm đạo (Maggacitta), còn gọi là thiện siêu thế:

a) Tâm đạo Dự lưu (Sotāpattimaggacittaṃ) hay sơ đạo (paṭhamamagga). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là sơ đạo sơ thiền, sơ đạo nhị thiền, sơ đạo tam thiền, sơ đạo tứ thiền và sơ đạo ngũ thiền.

b) Tâm đạo Nhất lai (Sakadāgāmimaggacittaṃ) hay nhị đạo (dutiyamagga). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là nhị đạo sơ thiền, nhị đạo nhị thiền, nhị đạo tam thiền, nhị đạo tứ thiền và nhị đạo ngũ thiền.

c) Tâm đạo Bất lai (Anāgāmimaggacittaṃ) hay tam đạo (tatiyamagga). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là tam đạo sơ thiền, tam đạo nhị thiền, tam đạo tam thiền, tam đạo tứ thiền và tam đạo ngũ thiền.

d) Tâm đạo Alahán (Arahattamaggacittaṃ) hay tứ đạo (catutthamagga). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là tứ đạo sơ thiền, tứ đạo nhị thiền, tứ đạo tam thiền, tứ đạo tứ thiền và tứ đạo ngũ thiền.

VI2. Bốn hoặc hai mươi tâm quả (Phalacitta), còn gọi là quả siêu thế (Lokuttaravipākacitta):

a) Tâm quả Dự lưu (Sotāpattiphalacittaṃ) hay sơ quả (paṭhamaphala). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là sơ quả sơ thiền, sơ quả nhị thiền, sơ quả tam thiền, sơ quả tứ thiền, sơ quả ngũ thiền.

b) Tâm quả Nhất lai (Sakadāgāmiphalacittaṃ) hay nhị quả (dutiyaphala). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là nhị quả sơ thiền, nhị quả nhị thiền, nhị quả tam thiền, nhị quả tứ thiền, nhị quả ngũ thiền.

c) Tâm quả Bất lai (Anāgāmiphalacittaṃ) hay tam quả (tatiyaphala). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là tam quả sơ thiền, tam quả nhị thiền, tam quả tam thiền, tam quả tứ thiền, tam quả ngũ thiền.

d) Tâm quả Alahán (arahattaphalacittaṃ) hay tứ quả (catutthaphala). Tính rộng theo bậc thiền thì có 5 là tứ quả sơ thiền, tứ quả nhị thiền, tứ quả tam thiền, tứ quả tứ thiền, tứ quả ngũ thiền.

(81 tâm hiệp thế và 8 hoặc 40 tâm siêu thế gộp lại gọi là 89 hoặc 121 tâm, như vậy tâm có 89 hoặc 121 thứ là bởi tâm siêu thế hẹp có 8 thứ, rộng có 40 thứ).

Comp. 81-93.

[497] Một trăm lẻ tám ái (Taṇhā):

Ái được kể có 108, không phải là nêu ra thứ lớp, mà tính nhân rộng mới ra con số này.

Trước hết là lấy sáu thân ái (taṇhākāya), tức sắc ái, thinh ái, hương ái, vị ái, xúc ái và pháp ái (Vbh. 944).

Có trường hợp thân ái đó chỉ là ái nhiễm bình thường gọi là dục ái, có trường hợp thân ái sanh khởi đi kèm với thường kiến đó gọi là hữu ái, có trường hợp thân ái sanh khởi đi kèm với đoạn kiến, thì gọi là phi hữu ái. Như vậy 6 thân ái nhân 3 trường hợp thành 18 ái.

Mười tám ái này lại tính theo hai khía cạnh, nội thân (ajjhattika) và ngoại thân (bahiddhā), thành ra 36 ái.

Ba mươi sáu ái này lại tính theo 3 thời quá khứ, hiện tại và vị lai, thành ra 108 ái.

Vism. 568

Một trăm lẻ tám ái còn được tính theo cách khác nữa.

Lấy 18 ái du (taṇhāvicarita) nương nội uẩn cộng với 18 ái du (taṇhāvicarita) nương ngoại uẩn (Vbh. 393), thành ra 36 ái.

Lấy 36 ái đó nhân cho 3 thời quá khứ, hiện tại, vị lai, thì có được 108 ái.

A.II.212; Vbh.393

-ooOoo-

Ðầu trang | Mục lục |
Một Pháp: 1-10 | Hai Pháp: 11-71 | Ba Pháp: 72-163 | Bốn Pháp: 164-259 | Năm Pháp: 260-337 |
Sáu Pháp: 338-369 | Bảy Pháp: 370-398 | Tám Pháp: 399-423 | Chín Pháp: 424-442 | Mười Pháp: 443-476 |
Trên Mười Pháp: 477-497

 

Chân thành cám ơn Tỳ khưu Giác Giới và Tỳ khưu Thiện Minh đã gửi tặng bản vi tính
(Bình Anson, 06-2002, 06-2005)

[Trở về trang Thư Mục]
last updated: 01-06-2005