Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng: “Nếu ai muốn hiểu rõ được về hết thảy các đức 
		Phật trong ba đời quá khứ, hiện tại và tương lai, thì nên quán xét tánh 
		thật của các pháp trên thế gian này tất cả đều là do tâm tạo thành.” 
		(Nhược nhân dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới 
		tánh, nhất thiết duy tâm tạo.)
		Nói rằng tánh thật của các pháp tất cả đều do tâm tạo thành, có thể là 
		trừu tượng và do đó có phần khó hiểu đối với một số người. Nhưng chính 
		cái “trừu tượng và khó hiểu” này lại là một trong những điểm cốt tủy của 
		đạo Phật, và cũng là phần giáo lý thiết thực nhất có thể mang lại sự 
		giải thoát, an lạc ngay trong hiện tại cho những ai hiểu rõ, tin nhận và 
		hành trì.
		Tuy nhiên, nói là “trừu tượng và khó hiểu”, thật ra chỉ là đối với những 
		ai mới tiếp xúc thoáng qua mà thôi. Nếu có một sự chiêm nghiệm sâu sắc, 
		hầu như bất cứ ai cũng có thể nhận hiểu được ý nghĩa của lời dạy này, 
		cho dù mức độ nhận hiểu và thực hành có thể là khác nhau ở mỗi người.
		Có bao giờ bạn quan sát cuộc sống của những người mù? Đối với họ, ánh 
		sáng, màu sắc, hình ảnh đều không còn có giá trị phân biệt gì nữa. Vì 
		thế, ngày và đêm đối với họ là như nhau, sáng và tối không có gì khác, 
		và hết thảy màu sắc, hình ảnh đều không còn được họ nhận biết. Và nếu là 
		những người mù từ lúc mới sinh ra, thì những khái niệm về màu sắc, ánh 
		sáng, hình ảnh đối với họ chính là những khái niệm không thể nắm bắt, 
		hình dung được!
		Tương tự như vậy, khi một người bị điếc thì mọi âm thanh cũng không còn 
		có giá trị nhận biết, phân biệt. Bạn không thể bàn luận với người ấy về 
		những âm thanh hay, dở, to, nhỏ... bởi vì đối với họ thì tất cả những 
		tính chất ấy xem như không hiện hữu.
		Và nếu chúng ta truy xét đến tận cội nguồn của các giác quan: mắt, tai, 
		mũi, lưỡi, thân, ý, chúng ta sẽ nhận ra rằng sở dĩ mỗi giác quan ấy có 
		thể hoạt động, giúp ta giao tiếp với các đối tượng tương ứng như hình 
		sắc, âm thanh, mùi vị... đó là nhờ có một “năng lực nhận biết” bao trùm 
		tất cả, hiểu được tất cả. Không có “năng lực nhận biết” này, người có 
		mắt sáng cũng như mù, có tai cũng như điếc... bởi thật ra thì hết thảy 
		các giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng đều chỉ là những ứng 
		dụng khác nhau của cái “năng lực nhận biết” đó. Điều này giải thích vì 
		sao khi một người bị mù thì thính giác và xúc giác sẽ tự nhiên phát 
		triển tốt hơn, giúp họ bù đắp lại phần nào khả năng giao tiếp với môi 
		trường, chẳng hạn như để nhận biết đường đi, đối tượng... 
		Khi một người ngủ rất say, cho dù các giác quan của anh ta hoàn toàn 
		bình thường, nhưng lúc đó anh ta sẽ không nhận biết được ánh sáng, âm 
		thanh, mùi hương... ở quanh mình. Vì sao vậy? Vì các giác quan tuy vẫn 
		bình thường, nhưng “năng lực nhận biết” của anh ta đang tạm thời không 
		hiển lộ.
		Như vậy, chính nhờ có năng lực nhận biết này mà chúng ta mới có thể vận 
		dụng được các giác quan trong sự giao tiếp với môi trường. Khi mắt tiếp 
		xúc với hình sắc, sự nhận biết này biểu hiện thành nhãn thức, hay cái 
		biết của mắt. Khi tai tiếp xúc với âm thanh, sự nhận biết này biểu hiện 
		thành nhĩ thức, hay cái biết của tai. Khi mũi tiếp xúc với mùi hương, sự 
		nhận biết này biểu hiện thành tị thức, hay cái biết của mũi. Khi lưỡi 
		tiếp xúc với vị nếm, sự nhận biết này biểu hiện thành thiệt thức, hay 
		cái biết của lưỡi. Khi thân tiếp xúc, đụng cọ với mọi đối tượng mềm, 
		cứng, trơn, nhám... sự nhận biết này biểu hiện thành thân thức, hay cái 
		biết của thân, cũng gọi là xúc giác. Khi ý tiếp xúc với các ý tưởng, các 
		pháp, sự nhận biết này biểu hiện thành ý thức, hay cái biết của ý. 
		Như vậy, sự biểu hiện của năng lực nhận biết ở sáu căn tạo thành sáu 
		thức, và các đối tượng nhận biết như hình sắc, âm thanh, mùi hương... 
		cho đến các đối tượng của ý được gọi chung là sáu trần. 
		Trong sáu thức vừa kể trên thì ý thức là đặc biệt nhất, bởi tính chất 
		hoạt động của nó liên quan đến tất cả các thức kia. Chẳng hạn, khi mắt 
		nhìn thấy các hình sắc thì hoạt động của nhãn thức chỉ đơn thuần là nhận 
		biết hình sắc ấy mà thôi. Trên cơ sở sự nhận biết của nhãn thức, ý thức 
		mới khởi lên sự phân biệt, đánh giá về đối tượng, chẳng hạn như xanh, 
		đỏ, đẹp, xấu... Chính do nơi sự phân biệt, đánh giá của ý thức mà chúng 
		ta mới hình thành những cảm xúc như sự ưa thích hay chán ghét... đối với 
		đối tượng.
		Vì tính chất bao quát và quan trọng của ý thức, nên chúng ta rất dễ cho 
		rằng ý thức chính là “ông chủ” của mọi hoạt động. Sự thật thì ý thức 
		cũng chỉ là một trong sáu thức, và do đó cũng chỉ tồn tại trong mối quan 
		hệ tương quan giữa căn và trần như trên đã nói. Khi tách rời mọi đối 
		tượng của ý, ta không thể hình dung được sự hoạt động của ý thức. Hơn 
		nữa, ngay trong khi ý thức đang hoạt động, ta vẫn có thể nhận ra được 
		một năng lực nhận biết có khả năng “nhận biết mọi hoạt động của ý thức”.
		
		Để nhận rõ điều này, chúng ta chỉ cần ngồi yên trong một thời gian ngắn, 
		tập trung sự chú ý quan sát của mình vào dòng tư tưởng, vào những ý nghĩ 
		đang diễn ra trong nội tâm. Khi ấy, ta sẽ nhận ra rằng ngoài cái “tôi” 
		đang tư duy, còn có một cái “tôi” có thể tách biệt ra và nhận thức được 
		cái “tôi” đang tư duy kia. 
		Điều này thật ra có ý nghĩa gì? Chính là một bằng chứng cho thấy cái 
		dòng tư tưởng thường ngày vẫn chi phối mọi hoạt động của chúng ta thật 
		ra không phải do ý thức làm chủ. Ý thức cũng chỉ là một trong sáu thức, 
		và vì thế, cũng tương tự như năm thức kia, nó chỉ hoạt động được là nhờ 
		có một năng lực nhận biết biểu hiện ra ở nó.
		Khi chúng ta chưa hiểu được điều này, chúng ta dễ dàng chấp nhận mọi sự 
		thôi thúc, sai khiến do ý thức đưa ra, khiến cho năm thức còn lại đều 
		phải chịu sự chi phối và sai khiến của nó. Sự chi phối và sai khiến ấy 
		diễn ra như thế nào? Khi mắt (căn) tiếp xúc với hình sắc (trần) và sự 
		thấy hình thành, ý thức lập tức nảy sinh sự phân biệt và đánh giá về đối 
		tượng, phân loại đó là đẹp hay xấu, đáng yêu hay dễ ghét... Do nơi sự 
		phân biệt và đánh giá của ý thức, sự nhận biết của nhãn thức liền không 
		còn đơn thuần chỉ là nhận biết nữa, mà nảy sinh sự mê đắm hoặc chán ghét 
		đối với từng đối tượng. Từ đó, chúng ta bắt đầu có sự say mê, yêu thích, 
		chạy theo những hình sắc xinh đẹp, thích ý, và chê chán những hình sắc 
		xấu xí, thô thiển...
		Như vậy, bản thân đối tượng vốn không có những thuộc tính như đáng yêu 
		hay đáng ghét, nhưng qua sự chi phối và sai khiến của ý thức, chúng ta 
		mới rơi vào sự mê đắm hình sắc.
		Tương tự, với các đối tượng khác như âm thanh, mùi ngửi, vị nếm, những 
		xúc chạm của thân thể, sự mê đắm của chúng ta đều được hình thành theo 
		cách đó. Trong kinh thường gọi sáu thức là sáu tên giặc (lục tặc), chính 
		là do ý nghĩa này. Và những ai chấp nhận sự chi phối, sai khiến, buông 
		thả sáu căn chạy theo sáu trần được gọi là “nhận giặc làm con” (nhận tặc 
		vi tử). Bởi chính do nơi đây mà chúng ta thực hiện tất cả mọi hành vi 
		tạo tác các nghiệp thiện ác, chính do nơi đây mà chúng ta mê đắm không 
		nhận ra được bản chất thực sự của đời sống.
		Nhưng cũng có thể nói rằng việc kết tội sáu thức là có phần nào oan 
		uổng. Bởi chính sự mê đắm, chạy theo trần cảnh mới là thủ phạm thôi 
		thúc, xúi giục chúng ta tạo nghiệp. Còn bản thân sự nhận biết sáng suốt 
		của sáu thức vốn dĩ không có gì sai trái! Chính là khi hiểu được điều 
		này, ta mới có thể ngay tức thời dừng lại mọi cuộc săn đuổi của sáu 
		thức, buông bỏ mọi đối tượng thuộc về trần cảnh; và ngay khi đó sáu thức 
		trở thành sáng suốt, trong sạch, đồng một thể tánh với cái năng lực nhận 
		biết đã hiển lộ ở nơi chúng. Hay nói khác đi, sáu thức vốn không thực 
		có, mà chỉ là sự biểu hiện của một sự sáng suốt duy nhất mà thôi!
		Vì thế, khi chúng ta mê đắm một đối tượng nào đó thì sự mê đắm ấy là ở 
		nơi ta chứ không phải là thuộc tính của đối tượng. Và cuộc sống của 
		chúng ta thông thường là sự tiếp nối của vô số những đối tượng làm ta mê 
		đắm, nên việc nhận biết được điều này là cực kỳ quan trọng, vì nó có thể 
		giải thoát chúng ta ra khỏi sợi dây ràng buộc từ muôn kiếp, giúp ta trở 
		thành người tự do, tự tại!
		Điều này giải thích vì sao một đối tượng có thể làm cho người nào đó say 
		mê đến điên cuồng nhưng lại chẳng có sức cuốn hút nào đối với một người 
		khác. Bởi vì sự say mê đó vốn dĩ hoàn toàn không phải là thuộc tính của 
		đối tượng.
		Đến đây, chúng ta có thể nhận ra được rằng, đối với mỗi người thì sự 
		hiện hữu của cả thế giới này vốn dĩ chỉ có thể có được nhờ vào năng lực 
		nhận biết. Không có cái “biết” của ta thì thế giới này xem như không 
		hiện hữu đối với ta, cũng như hình sắc không hiện hữu đối với người mù, 
		âm thanh không hiện hữu đối với người điếc...
		Rất có thể bạn sẽ thấy có phần khó hiểu ở điểm này. Người mù không nhận 
		biết hình sắc, nhưng hình sắc vẫn tồn tại đấy thôi! Người điếc không 
		nhận biết âm thanh, nhưng đâu phải vì thế mà âm thanh không hiện hữu? 
		Tương tự, bạn có thể nghĩ rằng, cho dù bản thân ta có “biết” hay “không 
		biết” thì thế giới này vẫn đang hiện hữu chứ không thể vì thế mà biến 
		mất!
		Vấn đề ở đây là, chúng ta đang nói đến sự hiện hữu “đối với” chúng ta, 
		không phải đối với những người khác. Đúng là hình sắc vẫn tồn tại, cho 
		dù một người mù không nhận biết được. Nhưng bạn hãy thử suy nghĩ xem, 
		đối với một người bị mù từ lúc mới sinh ra, cho dù thế giới này có hàng 
		tỷ người sáng mắt, liệu có thể nào làm cho người mù ấy hiểu được thế nào 
		là “màu đỏ” hay chăng? Vậy đối với người mù ấy, màu đỏ có hiện hữu hay 
		chăng? 
		Tương tự, cho dù thế giới mà ta đang sống có vẻ như vẫn luôn hiện hữu 
		bất chấp sự nhận biết hay không của ta, nhưng thật ra thì sự hiện hữu ấy 
		chỉ có giá trị đối với ta một khi ta nhận biết được nó. Và do đó, tính 
		chất thật sự của thế giới ấy bao giờ cũng do chính bản tâm ta tạo ra.
		Khi một đức Phật thành đạo, cả thế giới trở nên trang nghiêm thanh tịnh. 
		Tuy nhiên, đối với những chúng sinh còn mê tối thì thế giới vẫn đầy dẫy 
		những điều cấu uế, bất tịnh. Trong kinh Duy-ma-cật, Phật bảo ngài 
		Xá-lỵ-phất rằng:
		“Xá-lỵ-phất! Do tội của chúng sinh, nên họ chẳng thấy quốc độ của Như 
		Lai trang nghiêm thanh tịnh, chẳng phải lỗi của Như Lai. Xá-lỵ-phất! Cõi 
		thế giới này của ta là thanh tịnh, nhưng ngươi chẳng thấy được như vậy.”
		Và ý nghĩa này được tóm gọn vào một câu cũng trong kinh Duy-ma-cật: “Tùy 
		tâm thanh tịnh, ắt cõi Phật thanh tịnh.” (Tùy kỳ tâm tịnh tắc Phật độ 
		tịnh.)
		Cõi Phật ở đây chính là thế giới mà mỗi chúng ta đang cảm nhận, nhìn 
		thấy trong đời sống. Một khi tâm thức ta được thanh tịnh, thế giới ấy sẽ 
		được thanh tịnh. Như vậy, rõ ràng là “thanh tịnh” hay “bất tịnh” đều 
		không phải là những thuộc tính vốn có của thế giới. Những tính chất ấy 
		đều do nơi tâm thức của ta mà có. Và chính do đây mà chúng ta có thể 
		hiểu được thế nào là “nhất thiết duy tâm tạo”.
		Và cái “tâm” mà chúng ta đang nói đến thật ra không phải là gì khác mà 
		chính là cái năng lực nhận biết sáng suốt đã hiển lộ qua sáu căn thành 
		sáu thức. Trong nhiều kinh sách, cái gọi là “năng lực nhận biết” này 
		được gọi bằng rất nhiều tên khác nhau, đơn giản chỉ là vì không một tên 
		gọi nào có thể được xem là hoàn toàn nói rõ được nó, mà tất cả đều chỉ 
		được tạm dùng trong những trường hợp nhất định để mô tả về một điều vốn 
		thật ra là chỉ có thể nhận hiểu mà không thể mô tả được. Những tên gọi 
		khác nhau ấy có thể là “cái biết”, có thể là “chân như”, có thể là “thật 
		tánh”, có thể là “chân tâm”, có thể là “chân tánh”... và rất nhiều tên 
		gọi khác nữa. Tuy nhiên, dù gọi bằng bất cứ tên gọi nào, điều đó cũng 
		không quan trọng. Vấn đề quan trọng nhất chính là nhận biết và tách rời 
		được nó ra khỏi ý thức hư vọng vốn luôn là cái bóng của pháp trần. Và 
		khi chúng ta có thể làm được điều đó, thì ngay chính ý thức tự nó cũng 
		không còn tồn tại, mà sẽ trở thành sự hiển lộ sáng suốt của chân tâm.
		
		Sự phân biệt giữa ý thức hư vọng và chân tâm chính là giới hạn mà khoa 
		học chưa thể vượt qua. Bởi vì mỗi sự nhận biết của giác quan đều có một 
		“trú xứ” cụ thể, chẳng hạn như sự nhận biết của mắt hay nhãn thức nằm ở 
		mắt, sự nhận biết của tai hay nhĩ thức nằm ở tai... Cho đến sự nhận biết 
		của ý hay ý thức vẫn được xem là nằm ở bộ óc. Trong khi đó, năng lực 
		nhận biết hay chân tâm mà chúng ta vừa đề cập đến quả thật không có một 
		“trú xứ” nhất định, nhưng đồng thời mắt, tai, mũi, lưỡi... lại đều có 
		thể xem là trú xứ của nó, bởi đó chính là sự hiển lộ của nó chứ không 
		phải là gì khác.
		Vì không nhận biết được sự hiện hữu của một chân tâm, nên việc tin nhận 
		về một sự tồn tại sau khi chết là điều rất khó. Bởi vì khi mắt, tai, 
		mũi... cho đến bộ óc đều hư hoại sau khi chết, thì dựa vào đâu để có 
		được một sự tồn tại? Ngược lại, nếu chúng ta nhận biết rằng nhãn thức 
		cho đến ý thức vốn không thật có, chỉ là sự hiển lộ của một chân tâm 
		sáng suốt, thì sự hoại diệt của chúng hoàn toàn không thể đồng nghĩa với 
		sự hoại diệt của chân tâm. Tuy nhiên, làm thế nào để nhận biết được sự 
		hiện hữu của chân tâm, hay nói theo ngôn ngữ của nhà thiền là “kiến 
		tánh”, lại là một chủ đề khá rộng. Vì thế, điều tất nhiên là chúng ta 
		không thể đề cập đến trong phạm vi của tập sách này.