Lập mưu hiểm giết hại người,
		Đời đời thọ thân cá voi.
		Lúc đức Như Lai ở thành Xá-vệ, Đại A-la-hán Tôn giả Mục-kiền-liên thường 
		dùng sức thần thông hiện đến các cõi địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, nhân 
		gian, thiên giới để quán sát sự an vui hay thống khổ của chúng sinh 
		trong những cõi đó, ví dụ như sự thống khổ vì lạnh tê người, hay nóng 
		đến cực độ, và nhiều cảnh tàn sát ở chốn địa ngục; ngạ quỉ chịu sự thống 
		khổ vì đói khát; súc sinh chịu sự thống khổ ăn nuốt và hành hạ lẫn nhau; 
		hoặc các nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết ở nhân gian; cho đến nỗi thống 
		khổ trước khi chết của chư thiên. 
		Quán sát như vậy xong, Tôn giả trở về nhân gian kể lại cho mọi người 
		nghe, làm cho ai nấy đều biết được những nỗi thống khổ của chúng sinh 
		trong các cảnh giới khác, nhờ đó liền sinh tâm chán lìa, muốn thoát ly 
		sinh tử luân hồi.
		Ngày kia, Tôn giả Mục-kiền-liên đang ở trong thành Xá-vệ, bỗng nhiên đại 
		chúng không còn nhìn thấy thầy đâu nữa. Thì ra thầy đã bay đến một đại 
		dương trong cõi súc sinh. Biển lớn này chia làm ba tầng:
		Tầng biển thứ nhất nước sâu 28.000 do-tuần, trong đó có loài cá voi lớn, 
		dài đến 700 do-tuần. Những con cá voi lớn này, mỗi khi đói liền há miệng 
		ra, ngay tức khắc nước biển và toàn bộ động vật trong vùng biển đó đều 
		bị nuốt vào bụng chúng. Khi chúng đã no liền phun nước biển trở ra. Loài 
		cá voi lớn này chuyên ăn những sinh vật nhỏ sống trong biển để duy trì 
		mạng sống; mà những sinh vật nhỏ bị nó ăn vào thì quay trở lại ăn nội 
		tạng của nó để sống. 
		Tầng biển thứ hai nước sâu 25.000 do-tuần, cá voi lớn trong đó dài đến 
		1.400 do-tuần. Khi nó đói liền há miệng ra, nuốt toàn bộ sinh vật sống 
		trong tầng biển thứ nhất.
		Tầng biển thứ ba nước sâu 2.500 do-tuần, có cá voi lớn dài 2.100 
		do-tuần. Những con cá voi ở tầng biển này lại chuyên ăn những sinh vật ở 
		tầng biển thứ nhất và thứ hai để sống.
		Trong tầng biển thứ ba có một con cá voi rất lớn, trên thân có rất nhiều 
		loài sinh vật biển đang ăn, cắn nó; thân thể bị xé ra thành từng mảnh 
		từng mảnh, có mảnh lớn, mảnh nhỏ; có mảnh lớn một do-tuần, hai do-tuần; 
		cũng có mảnh bằng một ngọn núi nhỏ... Những vết thương lớn nhỏ này làm 
		nó phải thường xuyên đau đớn tưởng chừng như không thể chịu nổi. 
		Để giảm bớt sự đau đớn, cá voi ấy liền bơi vào bờ. Nhưng vì nghiệp lực 
		nên lúc nào cũng có 500 con quỷ dạ-xoa dùng các loại binh khí, như rìu, 
		búa... chờ sẵn để chặt, cắt thịt trên lưng nó, làm cho máu chảy thành 
		sông... Không thể chịu nổi nữa, nó phải lặn trở lại vào biển, máu loang 
		đỏ cả một vùng biển lớn. 
		Sau khi bơi trở lại biển, các loài sinh vật lớn nhỏ trong biển lại tranh 
		nhau ăn thịt, cắn rỉa, khiến cho nó đau đớn không chịu nổi, đành phải 
		bơi trở lại vào bờ. Nhưng khi vào bờ lại bị bọn quỉ dạ-xoa cắt xẻo...
		
		Cứ bơi ra bơi vào mãi như vậy mà không lúc nào được tạm ngớt sự đau đớn, 
		chịu hết thổng khổ này đến thống khổ khác. Nhiều khi nó không chịu đựng 
		được nữa phải gầm rống lên vì đau đớn.
		Tôn giả Mục-kiền-liên sau khi nhìn thấy tình cảnh như vậy, liền dùng trí 
		tuệ Thanh văn của mình, nhập Tứ thiền định để quán sát nhân duyên đời 
		trước của con cá voi này: một đời, hai đời, ba đời... 
		Khi quán sát như vậy, Tôn giả Mục-kiền-liên dùng nhãn quan Thanh văn chỉ 
		thấy được những đời trước của con cá voi này đều là súc sinh. Tôn giả 
		biết sự quán xét như vậy của mình là chưa rốt ráo, và Tôn giả cũng biết 
		chỉ có tuệ nhãn của đức Như Lai mới có khả năng thấu triệt không ngăn 
		ngại. Tôn giả liền trở về thỉnh vấn Như Lai về nhân duyên đời trước của 
		con cá voi lớn kia. Sau khi nghĩ như thế, chỉ trong nháy mắt Tôn giả đã 
		về tới thành Xá-vệ.
		Lúc đó, đức Như Lai đang thuyết giảng giáo pháp giải thoát cho rất nhiều 
		đệ tử. Tôn giả Mục-kiền-liên nhận thấy nếu ngay lúc này thỉnh vấn đức 
		Phật sẽ có thể làm lợi ích cho nhiều chúng sinh. Do đó, Tôn giả liền đến 
		trước Đức Phật, cung kính chắp tay thưa hỏi:
		– Kính bạch đức Thế Tôn! Con thường xuyên vào trong năm đường luân hồi 
		để quán sát các nỗi thống khổ của chúng sinh, rồi trở về nhân gian kể 
		lại cho mọi người nghe, giúp họ sinh khởi tâm ghê sợ, chán lìa luân hồi, 
		đạt được lợi ích lớn. Lần này con đến bên bờ biển, thấy trong biển lớn 
		có một con cá voi dài 2.100 do-tuần, có nhiều sinh vật lớn nhỏ tranh 
		nhau ăn nuốt, cắn rỉa thân thể nó, đau đớn thống khổ không thể chịu nổi, 
		do đó phải bơi vào bờ, nhưng vừa đến bờ lại có 500 quỷ dạ-xoa chực sẵn 
		để cắt xẻo thân nó, máu chảy ra loang đỏ cả nước biển. Con thấy nó phải 
		chịu nhiều thống khổ không chút gián đoạn như vậy, liền dùng tuệ nhãn 
		Thanh văn quán sát nhân duyên đời trước của nó, nhưng chỉ nhìn thấy 
		trước đó một đời, hai đời, ba đời..., vì nhãn quan của hàng Thanh văn 
		không có khả năng quán sát được nhiều đời nhiều kiếp, chỉ thấy các đời 
		trước của nó toàn là làm thân cá voi lớn. 
		Kính bạch đức Thế Tôn! Rốt cuộc con cá voi này trước đây đã gây tạo 
		nghiệp ác gì mà phải chịu quả báo như vậy? Ngưỡng mong đức Phật từ bi 
		nói rõ nhân duyên đó, tất cả chúng con đều rất muốn nghe.
		Đức Như Lai nhìn đại chúng một lượt, rồi đáp lời Mục-kiền-liên:
		– Đây đều là do nghiệp lực từ rất nhiều đời trước của nó. Vào thời đức 
		Sơn Vương Như Lai còn trụ thế, có một vị cư sĩ phát tâm quay về nương 
		tựa Ba ngôi báu và thọ trì năm giới cấm trong giáo pháp của đức Sơn 
		Vương Như Lai. Một hôm, vị cư sĩ đó nói với vợ:
		– Hiền thê! Nàng đã xinh đẹp lại hiền đức giỏi giang, chúng ta cũng đã 
		có được cuộc sống hết sức sung túc hạnh phúc. Nhưng bây giờ ta đã phát 
		tâm quay về nương tựa Ba ngôi báu và thọ trì năm giới cấm trong giáo 
		pháp của đức Sơn Vương Như Lai, cho nên từ đây về sau chỉ có thể chăm 
		sóc cuộc sống ăn mặc của nàng mà thôi chứ không thể có cuộc sống ái ân 
		như trước, vì làm như vậy sẽ phạm vào giới cấm. Hay là ta cho phép nàng 
		tìm người đàn ông khác để cùng sinh sống nhé!
		Người vợ không chút do dự, bình thản đáp:
		– Thưa phu quân! Chàng đã phát tâm quay về nương tựa Ba ngôi báu và thọ 
		trì năm nguyên tắc giới cấm, thiếp cũng không muốn chung sống với người 
		khác, do đó thiếp nguyện vẫn mãi mãi theo hầu hạ bên chàng.
		Thế là, hai vợ chồng họ cùng nhau sống cuộc đời thanh tịnh.
		Do nhan sắc của người vợ quá đẹp, cho nên có một vị đại thần là Đại Tị 
		Tử rắp tâm mơ tưởng, muốn chiếm hữu nàng. 
		Một hôm, đại thần Đại Tị Tử dẫn theo một người, mang rất nhiều vàng bạc 
		châu báu đến nhà vị cư sĩ, nói với chàng:
		– Hôm nay có việc xin làm phiền anh! Số vàng bạc châu báu này xin nhờ 
		anh giữ hộ vì tôi sắp phải đi gặp vua nhận nhiệm vụ, nếu mang theo bên 
		mình e không tiện lắm, cho nên để lại đây, khi nào xong việc tôi sẽ trở 
		lại lấy!
		Vị cư sĩ rất thật thà nhận lời. Đại thần Đại Tị Tử còn cố ý chỉ vào 
		người mình dẫn đến làm nhân chứng về việc đưa vàng bạc châu báu cho vị 
		cư sĩ.
		Qua một thời gian sau, đại thần Đại Tị Tử một mình đến nói với cư sĩ:
		– Mấy hôm trước tôi có gửi vàng bạc châu báu nhờ anh giữ hộ, bây giờ cho 
		tôi xin lại, thật cảm tạ ơn đức của anh.
		Vị cư sĩ thật thà chất phác chẳng biết gì cả, bèn đem y nguyên số tiền 
		ông ta gửi đưa trả lại, không ngờ rằng bên trong lại có uẩn khúc.
		Lại qua một thời gian nữa, đại thần Đại Tị Tử dẫn người làm chứng hôm 
		trước đến nhà cư sĩ, nói với anh:
		– Hôm nay, tôi dẫn người làm chứng đến xin lại số vàng bạc châu báu gửi 
		anh hôm trước, xin anh vui lòng trả lại cho.
		Vị cư sĩ kinh ngạc hỏi:
		– Cái gì? Chẳng phải tôi đã trả lại cho quan lớn rồi sao?
		Đại thần Đại Tị Tử giả bộ tức giận chửi mắng:
		– Không ngờ ông là người như vậy hay sao? Hôm đó, rõ ràng hai người 
		chúng tôi có đưa cho ông một số vàng bạc châu báu, hôm nay đến lấy, 
		chẳng những ông không trả lại, mà còn nói dối là đã trả lại rồi. Nếu đã 
		trả rồi, sao tôi còn đến đây nữa, thật là vô lý!
		Hai người họ tranh luận mãi vẫn không ngã ngũ, cuối cùng đưa nhau lên 
		vua, thỉnh cầu quốc vương xét xử. Song, Đại Tị Tử là quan đại thần, lại 
		có nhân chứng rõ ràng, nên vị cư sĩ thật thà cuối cùng thua kiện. 
		Đại thần Đại Tị Tử lợi dụng cơ hội đó dùng dây trói và đánh vị cư sĩ một 
		cách dã man, cho đến chết, sau đó cắt thịt của cư sĩ ra thành từng miếng 
		từng miếng, cuối cùng lấy búa chặt đầu và xương ra từng phần riêng biệt. 
		Tuy thống khổ khôn cùng, nhưng nhờ có được năng lượng tu tập nên chàng 
		vẫn luôn nhớ nghĩ đến Phật, Pháp, Tăng, nhờ đó được sinh về cảnh giới 
		lành.
		Sau đó, đại thần Đại Tị Tử đến nói với vợ cư sĩ:
		– Tất cả những gì ta làm đều là vì muốn chiếm được nàng. Chồng nàng đã 
		chết, vậy hãy đồng ý lấy ta nhé! Ta hứa nhất định sẽ đối xử tốt với 
		nàng, chúng ta có thể vui vẻ sung sướng cả đời.
		Lúc đó, người vợ cư sĩ cố nén nỗi căm phẫn, nói với hắn:
		– Đợi thiếp hỏa táng thi thể của chồng xong, rồi chúng ta sẽ cùng chung 
		sống.
		Đương nhiên đại thần Đại Tị Tử vui vẻ đồng ý, lại giả bộ làm ra vẻ nhân 
		từ giúp nàng đưa thi thể cư sĩ vào rừng Thi-đà hỏa táng. Chờ lúc lửa 
		cháy dữ dội nhất, thấy hắn không để ý, nàng lao mình vào lửa đỏ chết 
		theo chồng để thủ tiết. 
		Khi đó, đại thần Đại Tị Tử không những chẳng có được người phụ nữ mình 
		thầm thương trộm nhớ và tốn nhiều công sức, ngược lại tạo ra ác nghiệp 
		cực lớn, hối hận không kịp.
		– Này các tỳ-kheo! Đại thần Đại Tị Tử thuở ấy chính là con cá voi lớn 
		đang thọ báo ngày nay. Trước tiên nó đã phải chịu khổ báo cực lớn trong 
		vô lượng kiếp ở địa ngục, sau đó mới chuyển sinh làm cá voi lớn, đến 
		ngày nay vẫn còn phải thọ khổ liên tục như vậy.
		Tôn giả Mục-kiền-liên liền thưa hỏi:
		– Kính bạch đức Thế Tôn! Con cá voi lớn đó đến lúc nào mới có thể thoát 
		được ác báo này?
		– Sau này, vào thời đức Đạo sư thiên nhân, Như Lai, Chính Đẳng Chính 
		Giác, Thiện Ý Thế Tôn thị hiện ra đời nó mới được chuyển sinh làm người, 
		được xuất gia sống đời tỉnh thức trong giáo pháp của đức Thiện Ý Như 
		Lai, chứng đắc quả A-la-hán.
		Rất nhiều vị đệ tử có mặt khi ấy được nghe đức Như Lai nói rõ nhân quả 
		như vậy, tất cả đều sinh tâm xa lìa, chán ghét, sợ hãi đối với cuộc luân 
		hồi. Đức Thế Tôn quán sát biết trong đại chúng này có nhiều vị có thể 
		trở thành những bậc tài ba lỗi lạc trong việc hoằng pháp lợi sinh sau 
		này, bèn thuyết dạy những giáo pháp giải thoát thích hợp với họ. Nhờ đó, 
		có nhiều vị đạt được Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế đệ nhất pháp của Gia hạnh 
		đạo;
[25] có những vị đắc quả Dự lưu, Nhất lai, Bất 
		hoàn, A-la-hán; có người được vương vị Kim luân; có người được giai vị 
		Phạm thiên và Đế-thích thiên; có những vị chứng được quả vị Duyên giác; 
		có vị gieo trồng nhân Vô thượng Bồ-đề; tất cả những người còn lại đều 
		phát khởi niềm tin thanh tịnh, chân thật vào Ba ngôi báu và phát tâm 
		quay về nương tựa Ba ngôi báu.