Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Kẻ ngốc nghếch truy tìm hạnh phúc ở xa xôi, người khôn ngoan gieo trồng hạnh phúc ngay dưới chân mình.
(The foolish man seeks happiness in the distance, the wise grows it under his feet. )James Oppenheim
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Lo lắng không xua tan bất ổn của ngày mai nhưng hủy hoại bình an trong hiện tại.
(Worrying doesn’t take away tomorrow’s trouble, it takes away today’s peace.)Unknown
Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra.
(It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết.
(Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever.
)Mahatma Gandhi
Thiên tài là khả năng hiện thực hóa những điều bạn nghĩ.
(Genius is the ability to put into effect what is on your mind. )F. Scott Fitzgerald
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Không có sự việc nào tự thân nó được xem là tốt hay xấu, nhưng chính tâm ý ta quyết định điều đó.
(There is nothing either good or bad but thinking makes it so.)William Shakespeare
Phương pháp thực tập chính niệm được trình bày trong quyển sách này, nếu
cố gắng thực hành, chắc chắn sẽ chuyển hóa được đời bạn. Giờ đây, tôi
xin được giới thiệu và nhấn mạnh thêm về một khía cạnh khác của đạo
Phật, con đường này đi song song với chính niệm, đó là metta, hay tâm
từ. Thiếu tâm từ, chỉ riêng chính niệm khó có thể nào phá vỡ được sự
dính mắc và ngã chấp. Và ngược lại, chính niệm là một nhân tố căn bản
cần thiết để phát huy tâm từ. Hai điều này lúc nào cũng phải song hành
với nhau.
Mỗi người trong chúng ta đều có đầy đủ những hạt giống và tiềm năng
thương yêu. Nhưng chỉ với một tâm thức tĩnh lặng, không bị ảnh hưởng bởi
tham lam, sân hận và ganh tỵ, những hạt giống thương yêu này mới có thể
trưởng thành. Nhờ mảnh đất phì nhiêu của chính niệm mà hoa tình thương
được nở rộ. Chúng ta cần nuôi dưỡng những hạt giống thương yêu ấy trong
ta và trong người khác, giúp chúng cắm rễ và trưởng thành.
Tôi có dịp đi rất nhiều nơi trên thế giới để dạy Phật pháp, và vì vậy
tôi phải mất nhiều thời gian ở những sân bay. Một hôm, tôi ngồi ở sân
bay Gatwick gần London để chờ một chuyến bay. Tôi có nhiều thời gian
trống, nhưng đối với tôi điều đó không bao giờ là vấn đề. Thật ra nó là
một niềm vui, vì tôi có cơ hội để thực tập thiền quán. Thế là tôi ngồi
đó giữa phòng đợi của sân bay, chân xếp bằng trên ghế, mắt nhắm lại,
trong khi quanh tôi người ta lũ lượt đến và đi, hối hả đổi chuyến bay.
Trong những hoàn cảnh này, khi ngồi thiền tôi thường thực tập niệm tâm
từ, đem tình thương ban rải đến cho mọi người, ở khắp mọi nơi. Với mỗi
hơi thở, mỗi mạch nhảy, mỗi nhịp tim, tôi để cho toàn thể con người mình
được thấm nhuần và tỏa sáng một tình thương, một tâm từ.
Giữa sân bay náo nhiệt ấy, chìm đắm trong một cảm thụ của tâm từ, tôi
không còn để ý đến sự ồn ào và xô bồ của thế giới chung quanh. Nhưng
bỗng dưng tôi có cảm giác như có một người nào đó đang đến ngồi sát bên
tôi. Tôi vẫn không mở mắt ra, tiếp tục hành thiền và phóng rải tâm từ.
Rồi tôi cảm thấy có hai bàn tay nhỏ xíu ôm choàng lấy cổ tôi. Tôi từ từ
mở mắt ra, và thấy đó là một em bé gái nhỏ thật dễ thương, chắc chỉ độ
chừng hai tuổi. Mắt cháu màu xanh thật sáng, với những lọn tóc vàng,
đang ôm chầm lấy tôi thật sát. Ngồi trong phi trường, trước đây tôi có
thấy cháu đi với mẹ cháu, bàn tay bé nhỏ nắm chặt lấy ngón tay của mẹ.
Có lẽ cháu đã rời mẹ cháu và chạy sang chỗ tôi.
Tôi nhìn lên thì thấy mẹ cháu cũng vừa đuổi tới nơi. Thấy nó đang ôm cổ
tôi, mẹ cháu bảo: “Xin Thầy ban phước cho cháu và để nó đi.” Tôi không
biết đứa bé nói tiếng gì, nhưng tôi bảo cháu bằng tiếng Anh: “Cháu đi
đi. Mẹ cháu có nhiều nụ hôn cho cháu lắm, nhiều đồ chơi và nhiều kẹo nữa
kìa. Còn ta chẳng có gì hết. Cháu đi đi.” Nhưng đứa bé vẫn cứ bá chặt
vào cổ tôi, không chịu buông ra. Và người mẹ lại nhìn tôi, chắp tay lại
và nói với một giọng rất ân cần: “Xin Thầy làm ơn ban phước cho cháu, và
để cho cháu đi.”
Lúc này, những người khác trong phi trường cũng bắt đầu để ý đến chúng
tôi. Có lẽ họ nghĩ tôi quen biết với đứa bé gái, hoặc là tôi với nó có
liên hệ với nhau. Họ tin chắc rằng tôi và đứa bé nhất định phải có một
sự ràng buộc nào đó. Nhưng trước hôm ấy, tôi chưa từng gặp nó bao giờ.
Tôi cũng không rõ cháu nói ngôn ngữ gì nữa. Và tôi lại phải năn nỉ:
“Cháu đi đi. Cháu và mẹ cháu còn phải lên phi cơ cho kịp giờ. Trễ rồi
đó. Mẹ có nhiều đồ chơi với kẹo lắm kìa. Ta đâu có gì đâu. Hãy đi đi.”
Nhưng đứa bé gái vẫn không chút nao núng. Nó lại còn ôm chặt lấy tôi hơn
nữa. Người mẹ thấy vậy đến nhẹ nhàng gỡ tay của đứa bé ra và nhờ tôi ban
phước cho nó. “Cháu ngoan lắm.” Tôi nói: “Mẹ cháu thương cháu lắm. Nhanh
lên. Coi chừng trễ chuyến bay rồi đó. Cháu đi đi.” Nhưng đứa bé gái vẫn
không chịu đi. Nó oà khóc lên. Cuối cùng, mẹ nó phải bế nó lên. Đứa bé
vùng vẫy và la khóc. Nó muốn tụt xuống và chạy lại tôi. Nhưng lần này mẹ
nó cố giữ nó lại và mang nó lên phi cơ. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy cháu
vẫn còn đang cố thoát ra khỏi mẹ cháu để chạy lại với tôi.
Có thể vì chiếc y tôi mặc mà đứa bé gái này tưởng tôi là ông già Nô-en
hoặc một nhân vật thần thoại nào đó chăng? Nhưng cũng có thể là một lý
do khác. Trong lúc đó tôi đang ngồi trên ghế và thực hành niệm tâm từ,
metta, phóng rải những tư tưởng thương yêu ra khắp nơi với mỗi hơi thở.
Có thể đứa bé gái này cảm nhận được điều đó. Trẻ con rất nhạy cảm trong
lĩnh vực này, tâm thức của chúng dễ dàng hấp thụ được những cảm thụ
chung quanh chúng. Khi bạn giận, chúng cảm nhận được sự rung động ấy, và
khi bạn tràn đầy thương yêu và hạnh phúc, chúng cũng cảm nhận được. Có
thể đứa bé gái ấy muốn đến gần tôi vì nó cảm nhận được một tâm từ. Giữa
tôi và nó có một sự ràng buộc - bởi một sợi dây của tâm từ.
Bốn trạng thái siêu việt
Tâm từ rất nhiệm mầu. Chúng ta ai cũng có khả năng thương yêu cả. Cho dù
ta có nhận biết hay không, năng lượng và hạt giống của thương yêu bao
giờ cũng có mặt trong ta. Tâm từ là một trong bốn trạng thái siêu việt
mà đức Phật có nói đến trong kinh. Ba tâm kia là tâm bi, tâm hỷ và tâm
xả. Bốn trạng thái ấy đều liên kết mật thiết với nhau, ta không thể nào
phát triển một cái này mà lại không cần đến ba cái kia.
Một cách dễ hiểu hơn là lấy ví dụ của tình thương cha mẹ. Khi một người
đàn bà trẻ biết rằng mình đang có thai một đứa bé, cô sẽ cảm thấy có một
tình thương vô bờ bến đối với đứa con trong bụng. Cô ta sẽ sẵn sàng làm
tất cả mọi việc để bảo vệ nó. Cô sẽ cố gắng hết sức mình để cái bào thai
được khỏe mạnh và tốt lành. Người mẹ trẻ ấy có đầy những tư tưởng thương
yêu và hy vọng về đứa con trong bụng mình. Cũng giống như tâm từ, metta,
tình cảm của một người mẹ đối với đứa con là vô bờ bến, bao trùm tất cả
và hoàn toàn vô điều kiện!
Khi đứa bé sinh ra và lớn lên, nó bắt đầu khám phá thế giới chung quanh,
cha mẹ sẽ bắt đầu có tâm bi đối với nó. Mỗi khi đứa bé bị té trầy đầu
gối, u đầu sứt trán, cha mẹ luôn cảm nhận được cái đau của con mình. Có
nhiều bậc cha mẹ còn nói rằng, mỗi khi con mình đau là họ cũng cảm thấy
như chính mình đang bị đau. Nhưng đây không phải là một sự thương hại,
vì lòng thương hại chỉ tạo nên khoảng cách giữa ta và người khác. Tâm bi
là một tâm muốn cho người khác được bớt khổ đau. Tâm bi dẫn ta đến những
hành động thích hợp. Và một hành động thích hợp của tâm bi là muốn làm
sao để sự đau đớn sớm chấm dứt, để con mình không còn khổ nữa.
Thời gian trôi qua, đứa con lớn lên và cắp sách đến trường. Cha mẹ nhìn
con mình kết bạn mới, học hành tiến bộ, tham gia các môn thể thao... Có
thể đứa con học xuất sắc về môn toán, hoặc được nhận vào đội đá banh,
hoặc được bầu làm lớp trưởng... Cha mẹ không bao giờ cảm thấy ganh tỵ về
những thành công của con mình, ngược lại còn hân hoan vui mừng theo nó
nữa. Đó chính là tâm hỷ. Ta mừng vui cho kẻ khác như là niềm vui của
chính ta. Mặc dù người khác có vượt trội hơn ta, may mắn hơn ta, chúng
ta vẫn hoan hỷ với những thành công của họ, mừng vui theo với niềm hạnh
phúc của họ.
Và rồi khi đứa con trưởng thành. Nó ra trường, có sự nghiệp, lập gia
đình và có con cái. Đây là lúc cha mẹ thực tập tâm xả. Lẽ dĩ nhiên, chắc
chắn đây không phải là một thái độ lạnh lùng và dửng dưng. Nó là một sự
bình an, hạnh phúc vì thấy rằng mình đã làm hết những gì cần phải làm
cho con. Ta cũng ý thức được sự giới hạn của mình. Và lẽ dĩ nhiên, cha
mẹ vẫn tiếp tục thương yêu và giúp đỡ con cái, nhưng họ biết rằng mình
không còn kiểm soát được chúng nữa. Đó là sự thực tập tâm xả.
Mục đích tối thượng của thiền tập là nuôi dưỡng và phát triển bốn trạng
thái này của tâm từ, tâm bi, tâm hỷ và tâm xả.
Hạt giống có mặt trong mỗi chúng ta
Mỗi sự vật sẽ phản chiếu ánh sáng mặt trời qua những cách khác nhau.
Cũng vậy, mỗi người biểu lộ tâm từ qua những phương cách khác nhau. Có
người bộc lộ sự nồng nhiệt một cách tự nhiên, có người hơi kín đáo và do
dự khi mở con tim mình ra... Có người thực tập tâm từ một cách khá vất
vả, trong khi có người lại không có khó khăn gì nhiều... Nhưng không một
ai lại hoàn toàn không có tâm từ! Chúng ta đều sinh ra với một bản năng
thương yêu, metta. Bạn hãy nhìn những đứa bé thơ mỉm cười rạng rỡ trước
hình ảnh của một gương mặt người, bất cứ là gương mặt của ai. Tội nghiệp
một điều là có nhiều người không ý thức được khả năng thương yêu của
mình. Tiềm năng thương yêu ấy bị chôn vùi bên dưới những sân hận, giận
hờn, ghét bỏ, mà ta đã huân tập trong một đời - mà có lẽ là rất nhiều
đời - qua những tư tưởng và hành động bất thiện. Nhưng ai trong chúng ta
cũng đều có thể nuôi dưỡng lại con tim biết thương yêu ấy, cho dầu trong
bất cứ một hoàn cảnh nào. Chúng ta vẫn có thể tưới tẩm và nuôi dưỡng hạt
giống từ bi, cho đến ngày hoa tình thương nở rộ và bay về trăm hướng.
Vào thời đức Phật, có một người tên là Aṅgulimla (Ương-quật-ma-la). Anh
ta là một kẻ sát nhân giết hại rất nhiều người. Anh ta tàn ác đến nỗi
đeo trên cổ mình một xâu chuỗi làm bằng ngón tay của những người anh đã
giết. Và anh có ý định chọn đức Phật để làm nạn nhân thứ một ngàn của
anh! Mặc dù đứng trước những lời đồn và bề ngoài dữ tợn của Aṅgulimla,
đức Phật vẫn có thể nhận thấy được tiềm năng thương yêu của anh. Và nhờ
khơi dậy được tiềm năng đó trong chính anh ta mà đức Phật đã cảm hoá
được anh, và giảng Pháp cho kẻ giết người không gớm tay này. Sau khi
nghe lời giảng của đức Phật, Aṅgulimla đã buông gươm xuống và quy y
Phật. Anh ta xin xuất gia và đi theo tăng đoàn của ngài.
Trong kinh kể rằng, nhiều năm về trước, Aṅgulimla bắt đầu đi giết hại
nhiều người vì tin theo lời chỉ bảo của một đạo sĩ mà anh nhận làm thầy.
Bản chất của Aṅgulimla không phải là tàn bạo, cũng không phải là ác độc.
Thật ra, khi còn nhỏ anh là một cậu bé rất hiền lành. Trong tim anh có
đầy sự thương yêu, dịu dàng và thân thiện. Sau khi xuất gia, những tiềm
năng ấy trong anh lại được hiển bày, và chỉ trong một thời gian ngắn anh
đã đạt được sự giác ngộ.
Câu chuyện về Aṅgulimla nhắc nhở ta một điều. Đôi khi con người có thể
có những hành động rất nhẫn tâm và tàn bạo, nhưng ta nên hiểu rằng đó
không phải là tự tính của họ. Có thể vì hoàn cảnh, điều kiện trong cuộc
đời đã khiến họ có những cách hành xử bất thiện ấy. Trong trường hợp của
Aṅgulimla, đó là vì anh hoàn toàn tin tưởng theo lời hướng dẫn của thầy
mình. Và đối với tất cả chúng ta, không phải chỉ riêng gì những kẻ tội
phạm, có rất nhiều lý do và điều kiện khác nhau - thiện và bất thiện -
đã đưa đẩy làm cho ta có cách hành xử như ngày hôm nay.
Cùng với những bài thiền tập đã trình bày trong sách này, tôi xin được
giới thiệu thêm một bài thiền tập niệm tâm từ. Trước hết, bạn bắt đầu
bằng cách loại bỏ hết những tư tưởng tự ghét bỏ hoặc tự trách móc mình.
Bắt đầu mỗi thời ngồi thiền, bạn hãy tự niệm thầm những câu sau đây, và
phải thật sự cảm nhận được sự chân thành của mình:
“Mong sao cho tâm tôi có đầy những tư tưởng từ, bi, hỷ và xả. Mong sao
cho tôi được nhiều rộng lượng. Mong sao cho tôi được thoải mái. Mong sao
cho tôi được vui vẻ và hạnh phúc. Mong sao cho tôi được khỏe mạnh. Mong
sao cho con tim tôi được dịu dàng. Mong sao cho tôi luôn nói lời ái ngữ.
Mong sao cho tôi luôn hành động tử tế.
“Mong sao cho những gì tôi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm và suy nghĩ
sẽ giúp cho tôi nuôi dưỡng thêm tâm từ, bi, hỷ và xả. Mong sao cho chúng
giúp tôi được thêm rộng lượng và tử tế. Mong sao cho chúng giúp tôi được
nghỉ ngơi. Mong sao cho chúng làm khơi dậy những hành động thân ái trong
tôi. Mong sao cho những kinh nghiệm ấy là sẽ nguồn suối của hạnh phúc và
an vui. Mong sao cho chúng sẽ giúp tôi giải thoát ra khỏi mọi sự sợ hãi,
căng thẳng, lo lắng và bất an.
“Bất cứ nơi nào tôi đến trên thế gian này, trong bất cứ một phương nào,
mong sao cho tôi luôn tiếp xúc với mọi người bằng một niềm an vui và
thân thiện. Mọng sao cho tôi được bảo vệ trong mười phương khỏi những
tham lam, sân hận, ghen tỵ, nhỏ nhen và sợ hãi.”
Khi chúng ta phát triển tâm từ trong ta, ta sẽ thấy rằng nó cũng có mặt
trong người khác - cho dù có bị vùi lấp đến đâu. Đôi khi ta phải đào
thật sâu, và đôi khi nó hiển nhiên ngay trên bề mặt.
Nhìn xuyên qua những vết dơ bẩn
Đức Phật có kể câu chuyện về một thầy nọ tìm thấy một miếng vải dơ trên
đường. Tấm giẻ rách ấy bẩn thỉu đến nỗi thầy ấy không dám sờ tới. Ông ta
lấy chân đá nó một hồi cho những thứ dơ bẩn ấy rơi ra bớt. Kinh tởm, ông
ta lấy hết can đảm dùng hai ngón tay cẩn thận cầm nó lên đưa ra xa, sợ
chạm vào người mình. Dầu vậy, vị thầy ấy vẫn nhận thấy được tiềm năng và
giá trị của miếng vải ấy, ông ta mang về và giặt rửa thật nhiều lần cho
thật sạch. Cuối cùng, nước giặt trở nên trong, và phía dưới những lớp
bẩn thỉu, dơ dáy ấy là một chất liệu có thể sử dụng ích lợi. Vị thầy ấy
thấy rằng, nếu ông có thể tìm được thêm những miếng vải như vậy, ông có
thể may được cho mình một chiếc y thật tốt.
Cũng vậy, vì một người nào đó có những lời lẽ lỗ mãng và ác độc, người
ấy có thể được xem như là hoàn toàn vô dụng. Ta khó có thể nào thấy được
những hạt giống và tiềm năng thương yêu trong họ. Nhưng đây chính là chỗ
ta nên thực tập sử dụng những phương tiện thiện xảo. Bên dưới lớp vỏ thô
lỗ và cục cằn của người ấy, bạn vẫn có thể tìm thấy được một hạt châu
sáng chói và tỏa chiếu, nó chính là chân tính của họ.
Một người có thể dùng những lời lẽ thô lỗ đối với người khác, nhưng đôi
khi vẫn hành xử rất thương yêu và dịu dàng. Họ có thể là những người
“khẩu xà tâm Phật”. Đức Phật so sánh hạng người này với một ao nước bị
rong rêu phủ kín. Muốn dùng nước ấy, bạn phải biết dùng tay gạt những
rong rêu sang một bên. Cũng vậy, đôi khi chúng ta cũng cần phải bỏ qua
những sơ xuất bề ngoài của một người, và nhìn thấy con tim chân thành
của họ.
Nhưng nếu một người có lời nói không dễ thương và cử chỉ, hành động cũng
không dễ thương thì sao? Hạng người này cũng vẫn có một con tim chân
thật. Thử tưởng tượng bạn đang đi trên sa mạc. Bạn không mang theo nước,
và chung quanh cũng không có nước. Bạn mệt và khát. Mỗi bước đi làm bạn
khát thêm và lại càng khát thêm. Bạn tuyệt vọng, cầu mong cho có nước
uống. Và lúc ấy, bạn tìm thấy một dấu chân trâu. Trong dấu chân trâu có
một chút nước, nhưng không nhiều lắm vì lỗ rất cạn. Nếu bạn lấy tay vốc
nước lên, nó sẽ nổi bùn. Trong cơn khát, bạn quỳ và cúi xuống. Từ từ,
bạn đưa miệng mình kề sát xuống và húp từ ngụm nhỏ, chầm chậm, không để
cho bùn dơ bị khuấy lên. Mặc dù bùn dơ có mặt nhưng nước vẫn được trong.
Bạn có thể làm hết cơn khát của mình. Cũng với cùng một thái độ cố gắng
ấy, bạn có thể tìm thấy được một con tim chân thành trong một người mà
hoàn toàn có vẻ như không có chút gì muốn hối cải.
Thiền viện của tôi nằm ở một miền đồi núi thuộc vùng đồng quê tiểu bang
West Virginia. Khi trung tâm thiền tập này mới mở, có một ông hàng xóm ở
cuối đường tỏ vẻ dường như không có thiện cảm với chúng tôi. Mỗi ngày
tôi thường đi bộ rất lâu, và mỗi khi thấy ông ta, tôi vẫy tay chào,
nhưng lần nào ông cũng nhíu mày và quay đi nơi khác. Dù vậy, lần nào gặp
ông tôi cũng đưa tay vẫy chào và phóng gởi những tư tưởng từ bi, tốt
lành đến cho ông. Tôi không hề nản lòng trước thái độ của ông ta, tôi
không bao giờ bỏ cuộc với ông. Mỗi khi gặp ông, tôi vẫy tay chào. Sau
chừng một năm trời, thái độ của ông bắt đầu thay đổi. Ông ta không còn
nhíu mày nữa. Tôi cảm thấy rất vui. Sự thực tập ban rải tâm từ có lẽ bắt
đầu có hoa trái.
Một năm sau nữa, khi tôi đi ngang ông trong lúc đi bộ, có một phép lạ
xảy ra. Ông lái xe đi ngang qua và đưa một ngón tay lên khỏi tay cầm
lái. Và tôi nghĩ: “Ồ, thật là tuyệt vời! Từ bi quán có hiệu quả quá!” Và
rồi lại một năm nữa trôi qua, mỗi lần gặp ông tôi vẫn vẫy tay chào và
chúc lành cho ông. Năm thứ ba, ông giơ hai ngón tay lên về hướng tôi. Và
rồi năm kế đó, ông dở lên cả bốn ngón tay khỏi tay cầm lái. Thời gian
vẫn trôi qua. Một ngày nọ tôi đang đi trên đường và gặp ông đang cho xe
vào ngõ nhà mình. Lần này ông dở hẳn tay mình lên khỏi tay cầm lái, đưa
ra bên ngoài cửa xe, và vẫy lại tôi.
Sau đó không lâu, một ngày nọ, tôi gặp ông đậu xe bên một con đường rừng
nhỏ. Ông ta ngồi bên phía tay lái và đang hút thuốc lá. Tôi đến cạnh bên
ông và chúng tôi bắt chuyện. Lúc đầu chúng tôi nói về chuyện thời tiết,
và dần dần, ông bắt đầu kể câu chuyện của ông. Mấy năm trước đây ông bị
một tai nạn rất nặng, một cây to ngã đè lên chiếc xe tải của ông. Ông bị
gãy hết phần lớn xương trong người và bị hôn mê trong một thời gian rất
lâu. Lần đầu tiên tôi gặp ông trên đường, lúc ấy ông cũng mới vừa bắt
đầu bình phục. Ông không vẫy tay chào lại tôi không phải vì ông là một
người khó chịu, nhưng vì ông không thể cử động hết những ngón tay. Nếu
tôi bỏ cuộc thì có lẽ tôi sẽ không bao giờ biết được ông là một người
tốt như thế nào! Có một ngày nọ, khi tôi phải đi xa, ông có ghé sang
trung tâm để tìm tôi. Ông lo lắng vì đã nhiều ngày không thấy tôi đi bộ.
Bây giờ chúng tôi là bạn.
Thực hành niệm tâm từ
Đức Phật dạy: “Ta đem tâm ta quán chiếu khắp thế gian này, và ta không
thấy một ai mà lại thương người khác hơn thương chính mình. Vì vậy những
ai thương mình nên thực hành niệm tâm từ.” Chúng ta thực hành ban rải
tâm từ đến chính mình trước, với chủ ý chia sẻ những tư tưởng thương yêu
ấy đến cho người khác. Phát triển cảm thụ ấy. Hãy tử tế với chính mình
cho thật trọn vẹn. Chấp nhận mình là như vậy. Làm hòa với những khuyết
điểm của ta. Ôm ấp và chấp nhận những yếu kém của mình. Hãy từ tốn và
tha thứ cho chính mình ngay trong giây phút này. Nếu có tư tưởng khởi
lên, rằng ta phải là như thế này hoặc như thế khác, hãy buông bỏ chúng
đi. Hãy để cho những cảm thụ thương yêu và tha thứ này ăn sâu vào trong
ta. Để cho năng lực của tâm từ dâng tràn khắp thân và tâm mình. An nghỉ
trong sự ấm áp và tỏa sáng của nó. Và rồi nới rộng cảm thụ này đến với
người mình thương, người không quen biết, hoặc cũng không thương không
ghét - và ngay cả đến những người thù ghét mình nữa!
Tất cả chúng ta hãy tưởng tượng rằng tâm mình được giải thoát ra khỏi
mọi ham muốn, sân hận, ganh tỵ và sợ hãi. Để cho những tư tưởng của tâm
từ ôm ấp ta và phủ kín ta. Để cho mỗi tế bào, mỗi giọt máu, mỗi nguyên
tử, mỗi nguyên tố của thân và tâm ta được thấm nhuần trong tâm từ. Hãy
buông thư cơ thể. Hãy buông thư tâm mình. Hãy để cho thân và tâm ta được
ngập tràn những ý nghĩ thương yêu. Hãy để cho sự an vui và tĩnh lặng của
tâm từ thâm nhập toàn thân ta!
Mong sao cho mọi người, mọi loài trong khắp mọi phương, trong khắp cõi
thế giới, đều có trái tim thương yêu. Hãy cầu cho họ có hạnh phúc, hãy
cầu cho họ được nhiều may mắn, hãy cầu cho họ được tốt lành, hãy cầu cho
họ có được những người bạn tốt và chân thành. Mong sao cho mọi người và
mọi loài đều được sống trong cảm thụ của tâm từ - tràn đầy, cao thượng
và vô biên. Mong sao cho tất cả không bị ai thù nghịch, không bị lo âu
và sầu khổ. Mong sao cho mọi người luôn sống trong hạnh phúc!
Cũng như việc ta đi bộ, chạy bộ, hoặc bơi lội để giúp cho cơ thể được
tráng kiện, sự thực tập niệm tâm từ một cách đều đặn sẽ làm con tim mình
được vững mạnh. Lúc đầu, nó có thể như là sự thực hành của ta chỉ ở bề
ngoài mà thôi. Nhưng khi ta cứ tiếp tục liên tưởng đến những ý nghĩ từ
bi một cách đều đặn, nó sẽ trở thành một thói quen, một thói quen rất
tốt lành. Theo thời gian, con tim ta sẽ trở nên mạnh mẽ hơn, và phản ứng
thương yêu của ta sẽ trở nên tự động. Và khi con tim mình đã được vững
chãi rồi, ta có thể dễ dàng ban rải tư tưởng từ bi, thương yêu đến những
người khó tính nhất.
Mong sao cho những người thù ghét tôi luôn được khỏe mạnh, vui vẻ và an
lành. Mong sao cho họ không gặp điều nguy hại nào, không gặp một khó
khăn nào. Mong sao cho họ không bao giờ bị đau đớn. Mong sao lúc nào họ
cũng được thành công.
“Thành công?” Có người sẽ hỏi: “Làm sao ta có thể cầu mong cho kẻ thù
ghét mình thành công được? Nếu như họ muốn giết hại mình thì sao?” Khi
chúng ta mong cầu cho người thù ghét mình được thành công, ta không có ý
nói về một thứ thành công của thế gian, hoặc thành công trong những việc
làm bất thiện hay thiếu đạo đức. Chúng ta có ý nói đến sự thành công
thuộc về lĩnh vực tâm linh. Rõ ràng là kẻ thù ghét ta không hề thành
công về tâm linh, bằng không họ đã không làm những điều gì có thể gây
hại cho ta!
Khi chúng ta nguyện cho kẻ thù ghét mình “Mong cho họ được thành công,”
là ta muốn nói rằng “Mong sao cho người thù ghét tôi được thoát khỏi
những sân hận, tham lam và ganh ghét. Mong sao cho họ được an vui, dễ
chịu và hạnh phúc.” Tại sao một người lại có những hành động tàn nhẫn
hoặc không dễ thương? Có lẽ vì người ấy đã lớn lên trong những hoàn cảnh
khó khăn hoặc thiếu may mắn. Có lẽ do những nguyên nhân sâu xa nào đó
trong cuộc đời người ấy, mà ta không biết đến, đã khiến họ hành xử khó
thương như vậy. Đức Phật khuyên ta nên nghĩ đến họ giống như là những
người đang bị cơn bệnh khốn đốn hành hạ. Chúng ta có bao giờ bực tức hay
giận hờn một người mắc bệnh không? Hay là ta có lòng thương và muốn giúp
đỡ người ấy? Có lẽ kẻ thù ghét ta cần nhiều tình thương của ta hơn là
những người thân, vì khổ đau của họ lớn hơn gấp bội phần. Vì vậy, họ là
những người cần tâm từ của ta nhiều nhất. Chúng ta nên giữ họ trong trái
tim mình, như những người thân thương nhất của ta.
Mong sao cho những ai đã làm hại ta sẽ được giải thoát khỏi những ham
muốn, sân hận, ganh tỵ và sợ hãi. Hãy để cho những tư tưởng của tâm từ
ôm ấp họ và phủ kín họ. Hãy để cho mỗi tế bào, mỗi giọt máu, mỗi nguyên
tử, mỗi nguyên tố của thân và tâm họ được thấm nhuần trong tâm từ. Hãy
cầu cho họ buông thư cơ thể của mình. Hãy cầu cho họ buông thư tâm mình.
Hãy để cho thân và tâm họ được ngập tràn những ý nghĩ thương yêu. Hãy
cầu cho sự an vui và tĩnh lặng của tâm từ thâm nhập toàn thân của họ!
Thực tập niệm tâm từ có thể thay đổi được những đường lối suy nghĩ tiêu
cực của mình, và củng cố lại những tư tưởng tích cực. Khi ta thực tập
niệm tâm từ, tâm ta sẽ được ngập tràn hạnh phúc và an vui. Ta sẽ được an
nghỉ. Tâm ta được định. Và khi tâm ta trở nên tĩnh lặng và an vui, mọi
sự ghét bỏ, sân hận, và thù hằn sẽ phai mờ đi mất. Nhưng tâm từ không
phải chỉ giới hạn trong tư tưởng. Chúng cần phải được biểu lộ ra thành
lời nói và hành động của mình. Ta không thể phát triển tâm từ bằng cách
cô lập mình với thế giới chung quanh.
Bạn có thể bắt đầu bằng cách nghĩ những tư tưởng tốt lành về tất cả mọi
người bạn tiếp xúc mỗi ngày. Nếu có chính niệm, bạn có thể thực hành
điều này trong mỗi giây phút bạn tiếp xúc với kẻ khác. Khi bạn gặp một
người nào, bạn ý thức rằng, cũng như bạn, người ấy muốn có hạnh phúc và
không thích bị khổ đau. Chúng ta ai cũng mong ước điều ấy. Mọi chúng
sinh đều muốn điều ấy. Cho đến một con côn trùng nhỏ bé nhất cũng muốn
trốn tránh đớn đau. Ý thức được điểm tương đồng này, ta sẽ thấy rằng tất
cả mọi sự sống đều rất gần gũi với nhau. Người đàn bà đứng sau quầy hàng
trả tiền, người đàn ông bạn qua mặt trên xa lộ, cặp tình nhân trẻ nắm
tay nhau băng qua đường, cụ già ngồi trong chiếc ghế công viên cho bồ
câu ăn... Mỗi khi bạn gặp một người nào, loài nào, bất cứ một sinh vật
nào, hãy ghi nhớ một điều ấy. Hãy mong ước cho họ được hạnh phúc, an
vui, và được gặp mọi điều tốt lành. Đó là một sự thực tập có thể thay
đổi cuộc đời bạn, và cả những cuộc đời khác chung quanh bạn.
Lúc đầu, có thể bạn sẽ cảm thấy có một sự chống cự lại sự thực tập này.
Sự thực tập dường như hơi gượng ép và giả tạo. Có lẽ bạn không thể nào
cảm nhận được những loại tư tưởng ấy. Có lẽ bạn cảm thấy mình có thể dễ
dàng phóng tâm từ đến một số người này, và lại cảm thấy rất khó khăn đối
với một số người khác. Ví dụ, những đứa bé thơ bao giờ cũng dễ khơi dậy
lòng thương yêu trong ta, trong khi những người khác lại khó khăn hơn.
Hãy quán sát thói quen ấy trong tâm ta. Hãy học nhận diện những tình cảm
tiêu cực của mình và chuyển hóa chúng. Với chính niệm, từ từ từng chút
một ta có thể làm thay đổi được những phản ứng của mình.
Phóng gửi tư tưởng từ bi đến một người nào, có thật sự thay đổi được
người ấy không? Thực tập niệm tâm từ có thể thay đổi được thế giới này
không? Khi bạn phóng tâm từ đến những người ở xa hoặc những người mình
không quen biết, lẽ dĩ nhiên bạn sẽ không thể nào biết được ảnh hưởng
của nó. Nhưng bạn có thể nhận thấy được ảnh hưởng của việc niệm tâm từ
trên sự an vui của mình. Điều quan trọng là sự chân thành trong lời mong
cầu hạnh phúc của ta cho kẻ khác. Sự thật là ảnh hưởng ấy xảy ra tức
thì. Nhưng chỉ có một cách duy nhất để biết được điều này là tự chính
mình hãy thử lấy.
Thực tập niệm tâm từ không có nghĩa là ta sẽ hoàn toàn làm ngơ trước
những hành động bất thiện của kẻ khác. Nó chỉ đơn giản có nghĩa là ta sẽ
đáp ứng lại những hành động ấy bằng một đường lối thích hợp.
Có một vị hoàng tử tên là Abharaja Kumara, một hôm tìm đến gặp Phật và
hỏi là có bao giờ đức Phật đối xử khắt khe với một người khác hay không.
Lúc ấy, vị hoàng tử đang bế đứa con nhỏ của mình ngồi trong lòng. Đức
Phật hỏi: “Này hoàng tử, giả sử như đứa con này của hoàng tử lấy một
miếng gỗ nhỏ bỏ vào miệng và ngậm lại, hoàng tử sẽ làm gì?”
Vị hoàng tử đáp: “Nếu nó bỏ một miếng gỗ vào miệng nó, tôi sẽ giữ lấy nó
thật chặt và dùng những ngón tay móc vào miệng nó để lấy ra. Dầu nó có
khóc la và vùng vẫy mấy đi nữa, tôi cũng sẽ móc cho bằng được miếng gỗ
ấy ra khỏi miệng, cho dù nó có bị chảy máu.”
“Tại sao hoàng tử lại làm như vậy?”
“Bởi vì tôi rất thương con của tôi. Tôi muốn cứu lấy mạng sống của nó.”
Đức Phật nói: “Cũng vậy đó, hoàng tử! Đôi khi ta cũng phải khắt khe đối
với đệ tử của mình, không phải vì ghét bỏ, mà vì tình thương của ta đối
với họ.”
Như vậy là tình thương, chứ không phải lòng sân hận, đã thúc đẩy hành
động của ngài. Đức Phật đã cung cấp cho ta năm phương cách để giúp ta
đối xử tốt lành với kẻ khác. Đó là năm giới quý báu. Có người cho rằng
giới luật làm cản ngăn và giới hạn sự tự do. Nhưng thật ra, chính giới
luật đã giải thoát chúng ta. Giới luật giúp ta tránh được những khổ đau
mà ta thường gây ra cho chính mình và người khác khi hành xử thiếu chính
niệm. Giới luật giúp ta bảo vệ người khác khỏi bị hại, và khi ta bảo vệ
người khác là ta cũng đang bảo vệ chính ta! Năm giới quý báu ngăn ngừa
chúng ta không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối
hoặc nói lời cay độc, và không sử dụng những chất gây say khiến ta hành
xử thiếu chính niệm.
Phát triển chính niệm qua thiền tập cũng có thể giúp ta đối xử với người
khác bằng tâm từ. Trên tọa cụ, chúng ta theo dõi tâm mình khi có những
sự thương ghét khởi lên. Chúng ta học cách thư giãn tâm mình khi các tư
tưởng ấy khởi lên. Chúng ta học nhìn những thương ghét chỉ là những
trạng thái tạm thời, và rồi buông bỏ chúng. Thiền tập giúp ta nhìn cuộc
đời dưới một ánh sáng mới và cho ta một lối thoát. Càng thực tập sâu sắc
bao nhiêu, ta sẽ càng trở nên khôn khéo bấy nhiêu!
Đối trị phiền giận
Khi chúng ta giận ai, ta thường trở nên cố chấp và chỉ nhìn thấy được
một khía cạnh nhỏ hẹp nào đó của người ấy. Thường thì chỉ trong chừng
một vài giây cũng đã đủ để cho ta nói vài lời cay độc, một cái nhìn ghê
tởm, một hành động thiếu suy nghĩ... Trong tâm ta, những khía cạnh tốt
đẹp khác của người ấy đều bị tiêu tán hết. Tất cả còn lại chỉ là cái
phần của người ấy mà đã khơi dậy cơn giận của ta. Khi ta làm điều này là
ta đã chấp giữ và cô lập một phần rất nhỏ nhoi, luôn thay đổi, của một
con người toàn vẹn, và rồi xem đó là thật, là cố định. Chúng ta không
nhìn thấy hết mọi yếu tố và năng lực đã cấu thành con người ấy. Chúng ta
chỉ tập trung vào một khía cạnh duy nhất của người đó - cái phần mà đã
làm chúng ta nổi giận!
Trong nhiều năm qua, tôi có nhận được nhiều lá thư gửi ra từ trong tù,
từ những phạm nhân muốn tìm học Phật pháp. Có nhiều người đã phạm những
tội rất nặng, như là giết người. Dù vậy, bây giờ họ đã có một cái nhìn
khác biệt và muốn thay đổi đời mình. Tôi có nhận được một lá thư chất
chứa nhiều tuệ giác và đã làm tôi xúc cảm rất sâu đậm. Trong lá thư,
người ấy kể lại những phạm nhân khác thường hay la hét và chế giễu như
thế nào mỗi khi thấy người lính canh xuất hiện. Anh ta cố gắng giải
thích cho những tù nhân khác rằng người lính ấy cũng là một con người!
Nhưng họ đã bị sự căm thù làm mờ mắt. Tất cả những gì họ thấy chỉ là bộ
đồ lính của anh ta, chứ không thấy được một con người phía dưới lớp quần
áo ấy!
Khi chúng ta nổi giận đối với một người nào, ta có thể tự hỏi mình như
sau: “Có phải tôi đang giận những sợi tóc trên đầu người đó không? Tôi
giận da của người ấy? Hay răng của người ấy? Bộ óc của anh ta? Trái tim
của anh? Tính hài hước của anh? Sự dịu dàng của anh? Tính rộng rãi của
anh? Nụ cười của anh?...” Và khi chúng ta chịu bỏ thì giờ ra để xem xét
hết tất cả những yếu tố và tiến trình cấu thành người ấy, cơn giận của
ta tự nhiên sẽ nhẹ xuống.
Bằng sự thực tập chính niệm, chúng ta học cách nhìn lại mình và người
khác được rõ ràng hơn. Sự hiểu biết ấy sẽ giúp chúng ta đối xử với kẻ
khác bằng một tình thương. Trong mỗi chúng ta là một cốt lõi của sự tốt
lành. Trong nhiều trường hợp, như trường hợp của Aṅgulimla, chúng ta
không thể nào nhìn thấy được chân tính của họ. Hiểu được ý niệm về vô
ngã sẽ giúp con tim ta được nhẹ nhàng hơn, và giúp ta dễ tha thứ hơn cho
những hành động khó thương của người khác. Chúng ta sẽ biết đối xử với
chính mình và kẻ khác bằng tâm từ.
Nhưng nếu người khác muốn làm hại ta thì sao? Nếu người khác lăng mạ, sỉ
nhục ta thì sao? Có thể bạn sẽ muốn trả đũa lại - và đó cũng chỉ là một
phản ứng bình thường thôi. Nhưng rồi nó sẽ dẫn đến đâu? Kệ số 5 kinh
Pháp Cú dạy rằng: “Hận thù không thể tiêu diệt được hận thù.” Một phản
ứng sân hận chỉ đưa đến thêm nhiều sân hận. Và nếu bạn đem từ bi đáp lại
cho hận thù, sự sân hận của người kia sẽ không thể nào tăng trưởng. Dần
dần nó sẽ phai mờ đi. Cũng bài kệ trên trong kinh Pháp Cú viết tiếp:
“Chỉ có tình thương mới diệt được hận thù.”
Một người luôn để tâm thù nghịch đức Phật là Devadatta (Đề-bà-đạt-đa) có
bày mưu để giết ngài. Ông ta xúi giục vua Ajtasattu (A-xà-thế) cho một
con voi uống rượu say và thả nó chạy đến nơi mà ông biết đức Phật đang
có mặt. Mọi người trên đường thấy con voi say hung hăng như điên cuồng
đều hoảng sợ bỏ chạy. Gặp đức Phật đang đi trên đường, họ báo cho ngài
hay và bảo ngài nên tránh đi. Nhưng đức Phật vẫn tiếp tục đi tới. Thấy
vậy, thầy nanda, thị giả của Phật, nghĩ rằng mình phải ngăn chặn con voi
điên ấy lại. Khi thầy nanda bước ra chặn phía trước đức Phật để bảo vệ
ngài, đức Phật bảo nanda hãy tránh sang một bên. Sức mạnh của thầy nanda
không thể nào ngăn chận được con voi say ấy!
Khi con voi say tiến đến gần đức Phật, nó nhấc cao đầu lên, hai tai mở
to như hai cánh quạt, vòi nó đưa lên cao một cách điên cuồng. Đức Phật
chỉ đứng yên ngay trước mặt nó và phóng rải tâm từ của ngài đến con thú
ấy - và con voi say đứng sựng lại. Đức Phật dịu dàng đưa bàn tay của
ngài lên, lòng bàn tay hướng về phía con thú dữ, ban phóng tình thương
của ngài đến cho nó. Con voi từ từ qùy xuống, khuất phục ngoan ngoãn như
một con cừu. Chỉ bằng năng lực của tâm từ, đức Phật đã có thể khuất phục
được một con thú dữ điên cuồng!
Phản ứng sân hận đối lại với sân hận là một phản ứng có điều kiện. Nó là
kết quả của một sự huấn luyện hơn là một bản chất tự nhiên của ta. Nếu
khi còn thơ, chúng ta được huấn luyện thực tập kiên nhẫn, dịu dàng và từ
tốn, thì tâm từ sẽ trở thành một phần của đời mình. Nó trở thành một
thói quen. Bằng không, sân hận trở thành thói quen. Nhưng dù vậy, dầu đã
trưởng thành, chúng ta vẫn có thể thay đổi được cái thói quen phản ứng
của mình. Chúng ta vẫn có thể tập cho mình phản ứng theo một cách khác.
Có một câu chuyện khác về cuộc đời đức Phật có thể dạy cho chúng ta cách
đáp lại những lời nặng nề và sự sỉ nhục của kẻ khác. Có một người thù
nghịch với đức Phật, mua chuộc một cô gái điếm tên là Cinca đến để bêu
xấu và làm nhục Phật. Cinca bó những thanh gỗ nhỏ lại và độn vào trong
bụng, phía dưới áo, để trông giống như một người đang mang bụng chửa.
Trong khi đức Phật đang giảng Pháp cho một thính chúng vài trăm người,
cô bước ra trước đức Phật và nói: “Này ông lừa đảo kia. Ông làm bộ như
mình là một người thánh thiện để giảng đạo cho hàng trăm người này.
Nhưng hãy nhìn xem ông đã làm gì với tôi! Tôi mang cái bụng này là do
ông đó.” Đức Phật vẫn điềm tĩnh, không chút tức giận, không thù ghét.
Với một giọng đầy từ bi và thương yêu, đức Phật nói với Cinca: “Này cô
kia, ở đây chỉ có cô và tôi là biết được việc gì đã xảy ra.” Cinca bị
bất ngờ khi nghe câu trả lời của đức Phật. Vì quá lúng túng nên khi bước
ra cô bị vấp té. Sợi dây bó những thanh gỗ bị đứt tung và chúng rơi
xuống đất. Bụng cô nhỏ lại, và mọi người đều thấy được cái mưu chước
gian dối của cô. Vài người trong đám đông muốn đánh phạt cô, nhưng đức
Phật ngăn lại: “Đừng làm như vậy! Đó không phải là cách ta đối xử với cô
ta. Ta nên đem giáo lý để chỉ dạy cho cô ta. Và đó mới là điều thích
hợp.” Sau khi nghe đức Phật giảng dạy, tâm tính của cô Cinca hoàn toàn
thay đổi. Cô trở nên hiền lành, dễ thương và lòng đầy tâm từ.
Khi có một người nào muốn làm cho bạn tức giận hoặc làm gì để hại bạn,
hãy giữ những tư tưởng tốt lành của mình đối với người ấy. Đức Phật dạy:
Một người trong tâm tràn ngập những tư tưởng từ bi cũng giống như mặt
đất. Người ta có cố gắng làm tiêu hoại đất bằng cách dùng cuốc để đào
xới lên, nhưng đó chỉ là những việc làm vô ích. Cho dù họ có đào xới
trọn đời mình, hoặc nhiều đời đi chăng nữa, mặt đất này vẫn không suy
suyễn. Quả đất này vẫn nguyên vẹn, vẫn tròn đầy. Cũng giống như đất, đối
với một người có tâm từ sự tức giận sẽ không thể nào chạm tới được.
Trong một câu chuyện khác về cuộc đời của đức Phật, có một người tên là
Akkosina, có nghĩa là “không còn sân hận”. Nhưng thật ra anh ta lại hoàn
toàn ngược lại: anh rất nóng tính. Khi anh ta nghe nói rằng đức Phật
không bao giờ nổi giận với bất cứ ai, anh quyết định tìm gặp. Khi thấy
đức Phật, anh ta đến trước mặt ngài và bắt đầu chửi rủa thậm tệ, anh
dùng đủ mọi từ ngữ xấu xa để sỉ nhục đức Phật. Sau một hồi, anh ta im
lặng vì thấm mệt. Khi ấy, đức Phật hỏi anh có người thân hay bạn bè gì
không. Anh trả lời: “Có chứ.”. Ngài lại hỏi: “Khi anh đến thăm những
người ấy, anh có thường mang quà tặng họ không?” Anh đáp: “Lẽ dĩ nhiên,
lúc nào ta cũng mang theo quà.” Đức Phật hỏi: “Nhưng nếu họ không nhận
quà của anh thì anh làm gì?” “À, thì ta mang về nhà cho mình và gia đình
mình hưởng thụ.”
Đức Phật nói: “Cũng giống như vậy, hôm nay anh đến đây và mang cho tôi
những món quà, nhưng tôi không nhận. Anh hãy mang chúng về nhà cho gia
đình của anh.”
Với sự kiên nhẫn, khôn khéo và từ bi, đức Phật kêu gọi chúng ta hãy thay
đổi lối suy nghĩ của mình về những “món quà” tức giận của kẻ khác.
Nếu chúng ta đáp lại những lời lẽ sỉ nhục, giận dữ bằng chính niệm và
tâm từ, ta sẽ có thể nhìn được vấn đề một cách trọn vẹn và rõ rệt hơn.
Có thể người kia không hề ý thức được những gì mình nói. Có thể những
lời ấy không hề có ác ý gì đối với ta. Chúng có thể hết sức thật thà và
vô tình. Có lẽ vì tâm trạng của ta lúc nghe những lời ấy không được tốt
đẹp lắm. Có lẽ ta không nghe rõ được tất cả hoặc là hiểu lầm ý của người
kia. Cẩn thận xem xét lại những gì họ nói cũng là một điều rất cần
thiết. Nếu chúng ta vội nổi giận, ta sẽ không thể nào thấy được cái
thông điệp phía sau những lời ấy. Có thể người ấy muốn nêu lên một điều
gì đó, mà ta cũng cần lắng nghe.
Chúng ta, ai cũng đều có gặp những hạng người chuyên “chọc tức” mình.
Thiếu chính niệm và tâm từ, chúng ta sẽ tự động phản ứng bằng sân hận
hoặc ghét bỏ. Với chính niệm, chúng ta có thể thấy được rõ những phản
ứng của tâm mình đối với một số lời nói và hành động. Cũng giống như lúc
đang ngồi trên tọa cụ, ta có thể theo dõi sự khởi lên của những ham muốn
và ghét bỏ. Chính niệm cũng giống như một tấm lưới an toàn, bảo vệ ta
khỏi những hành động bất thiện. Chính niệm giúp cho ta có thì giờ, và
thì giờ sẽ giúp cho ta có sự chọn lựa. Chúng ta không cần để cho những
cảm thụ của mình lôi cuốn đi. Ta có thể đáp ứng bằng tuệ giác thay vì là
si mê.
Niệm tâm từ
Niệm tâm từ không phải là những gì chúng ta làm khi ngồi yên một chỗ
trên tọa cụ: suy nghĩ, suy nghĩ và suy nghĩ... Chúng ta cần phải để cho
năng lực của tâm từ biểu lộ ra trong mỗi sự tiếp xúc của mình với kẻ
khác. Tâm từ là một nguyên lý nền tảng của mọi tư tưởng, lời nói và hành
động tốt lành. Với tâm từ, ta sẽ nhận thấy rõ được những nhu cầu của kẻ
khác và sẵn sàng để giúp họ. Với tâm từ, ta cảm nhận được một niềm vui
chân thật trước sự thành công của kẻ khác. Chúng ta cần có tâm từ để
sống và làm việc hài hòa với những người chung quanh. Tâm từ sẽ bảo vệ
chúng ta khỏi những khổ đau do lòng sân hận và ganh tỵ gây nên. Khi
chúng ta nuôi dưỡng được tâm từ, tâm bi, tâm hỷ và tâm xả, không những
ta sẽ làm cho cuộc sống của những người chung quanh được dễ chịu hơn, mà
chính cuộc đời ta cũng sẽ trở nên an vui và hạnh phúc hơn. Năng lực của
tâm từ, cũng giống như ánh sáng mặt trời tỏa chiếu, tác dụng của nó là
vô biên và vô tận.
Mong sao cho tất cả những ai đang bị giam cầm, dầu hợp pháp hay không
hợp pháp, đang ở trong sự kiềm chế của cảnh sát, trên khắp thế giới, sẽ
được đối xử hạnh phúc và an vui. Mong sao cho họ thoát khỏi mọi tham
lam, sân hận, thù hằn, ganh tỵ và sợ hãi. Hãy cho thân và tâm họ được
tràn ngập những tư tưởng từ bi. Hãy để cho sự bình an và tĩnh lặng được
thấm nhuần toàn thể thân và tâm của họ.
Mong sao cho tất cả những ai đang nằm trong các bệnh viện, đang chịu
đựng những khổ đau vì bệnh tật sẽ được gặp nhiều an vui và hạnh phúc.
Mong sao cho họ thoát khỏi mọi đau đớn, sầu khổ, thất vọng, lo âu và sợ
hãi. Cầu cho những tư tưởng từ bi này ôm ấp họ, trùm phủ họ. Cầu cho
thân và tâm họ được tràn ngập những tư tưởng từ bi.
Mong sao cho tất cả những bà mẹ đang sanh nở được gặp nhiều an vui và
hạnh phúc. Cầu cho mỗi giọt máu, mỗi tế bào, mỗi nguyên tử, mỗi nguyên
tố trong toàn thể thân và tâm của họ được tràn ngập những tư tưởng từ
bi.
Mong sao cho tất cả những đứa trẻ bị lạm dụng và ngược đãi bởi người lớn
được gặp nhiều an vui và hạnh phúc. Mong sao cho các em luôn được tràn
đầy những tư tưởng từ, bi, hỷ và xả. Mong sao cho các em lúc nào cũng
được nhẹ nhàng. Mong sao cho các em được thư thái. Mong sao cho trái tim
các em được dịu êm. Mong sao cho những lời em nói được dễ thương. Mong
sao cho các em được thoát khỏi mọi sự sợ hãi, căng thẳng, lo lắng và bất
an.
Mong sao cho tất cả những nhà lãnh đạo đều rộng lượng, tử tế và thương
yêu. Mong sao cho họ cảm thông và hiểu được những kẻ bị trị, những người
thấp cổ bé miệng, nghèo khó, bị áp bức và kỳ thị. Mong sao cho trái tim
của họ yếu mềm trước nỗi khổ của dân chúng. Cầu cho những tư tưởng từ bi
này ôm ấp họ, trùm phủ họ. Cầu cho mỗi giọt máu, mỗi tế bào, mỗi nguyên
tử, mỗi nguyên tố trong toàn thể thân và tâm của họ được tràn ngập những
tư tưởng từ bi. Hãy để cho sự bình an và tĩnh lặng được thấm nhuần toàn
thể thân và tâm của họ.
Mong sao cho tất cả những kẻ bị trị, những người thấp cổ bé miệng, nghèo
khó, bị áp bức và kỳ thị, được gặp nhiều an vui và hạnh phúc. Mong sao
cho họ thoát khỏi mọi đau đớn, sầu khổ, thất vọng, lo âu và sợ hãi. Mong
sao cho mọi người ở mười phương thế giới được an lành, hạnh phúc và an
vui. Mong sao cho họ có được kiên nhẫn, can đảm, hiểu biết và sự cương
quyết để vượt qua mọi khó khăn, thử thách và những thất bại trong cuộc
đời. Cầu cho những tư tưởng từ bi này ôm ấp họ, trùm phủ họ. Cầu cho
thân và tâm họ được tràn ngập những tư tưởng từ bi.
Mong sao cho mọi chúng sinh ở mọi nơi, trong bất cứ hình dạng nào, với
hai chân, bốn chân, nhiều chân, hoặc không chân, đang sinh ra hoặc sắp
được sinh ra, trong kiếp này hoặc kiếp sau, đều có được một tâm an vui.
Mong sao sẽ không có loài nào lường gạt hoặc khinh miệt loài nào. Mong
sao sẽ không có loài nào sát hại loài nào. Đối với tất cả mọi chúng
sinh, mong sao cho tôi có được một con tim vô biên, trên, dưới, và khắp
chung quanh, không bị ngăn ngại bởi thù hận hoặc ganh ghét. Mong sao cho
mọi chúng sinh đều được thoát khỏi khổ đau và có được một hạnh phúc hoàn
toàn.
Tâm từ vượt ra mọi biên giới của tôn giáo, văn hóa, địa lý, ngôn ngữ và
quốc gia. Nó là một quy luật chung và cổ xưa, buộc chặt tất cả chúng ta
lại với nhau - không phân biệt ta có một hình dạng nào. Tâm từ cần được
thực tập một cách vô điều kiện. Cái đau của kẻ thù ghét tôi cũng là cái
đau của tôi. Cái giận của họ cũng là cái giận của tôi. Tâm từ của họ là
tâm từ của tôi. Nếu họ vui, tôi cũng vui. Nếu họ an ổn, tôi cũng thấy an
ổn. Nếu họ khỏe mạnh, tôi cũng khỏe mạnh. Cũng như chúng ta chia sẻ với
nhau những khổ đau không phân biệt, ta cũng nên chia sẻ tâm từ với tất
cả mọi người, ở mọi nơi. Không có một quốc gia nào có thể tồn tại mà
không cần nương tựa vào sự giúp đỡ của những quốc gia khác, và cũng
không có một cá nhân nào là cô lập. Muốn sinh tồn, chúng ta cần phải có
những loài khác, nhất là những loài rất khác biệt với mình. Sự thật đơn
giản là như vậy. Chính vì những sự khác biệt ấy mà sự thực tập tâm từ là
một điều hoàn toàn cần thiết. Nó là sợi dây buộc chặt tất cả chúng ta
lại với nhau!
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.
Quý vị đang truy cập từ IP 3.238.70.175 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này. Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập
Thành viên đang online: Minh Hữu Truong Minh Chanh Luong hai Tuyet Pham Liennguyen tamtran.ussh van chương Phan Hoàng Mai Khánh Nga Huệ Trí 1975 NGUYỄN TRỌNG TÀI Không Xã Nguyên Chơn Dsk Hắc Huyền Tử Tâm Cam Lộ lamtrinh Mật Quân ducnt4u Viên Hiếu Thành Huệ Lộc 1959 hoangquycong Tịnh Tây Cao Hải Dương Sony Huy Quang Phu Quảng Minh ECE nguyễn văn tuấn Thiện sỹ Thiện Hướng lehoangdo Lãn Tử Thích Quảng Ba Khải Chúng Trì Pháp Nhat Quang tuanmel@hotmail.com Trầm Minh Ngọc Anh Đinh khánh Đăng ... ...
Việt Nam (1.180 lượt xem) - Hoa Kỳ (187 lượt xem) - Romania (79 lượt xem) - Australia (55 lượt xem) - Nhật Bản (21 lượt xem) - Trung Hoa (9 lượt xem) - Pháp quốc (7 lượt xem) - Na-uy (2 lượt xem) - Senegal (1 lượt xem) - Hà Lan (1 lượt xem) - ... ...
Thành viên đăng nhập / Ghi danh thành viên mới
Gửi thông tin về Ban Điều Hành
Đăng xuất khỏi trang web Liên Phật Hội
Chú ý: Việc đăng nhập thường chỉ thực hiện một lần và hệ thống sẽ ghi nhớ thiết bị này, nhưng nếu đã đăng xuất thì lần truy cập tới quý vị phải đăng nhập trở lại. Quý vị vẫn có thể tiếp tục sử dụng trang này, nhưng hệ thống sẽ nhận biết quý vị như khách vãng lai.