Về đời nhà Đường, ở thành Lạc Dương, chùa Võng Cực, có một 
					vị tăng hiệu Thích Huệ Nhật, vốn người họ Tân quê ở Đông 
					Lai. Ngài xuất gia và thọ giới Cụ túc vào khoảng triều vua 
					Đường Trung Tông (705-707), sau gặp ngài Nghĩa Tịnh Tam 
					Tạng, tiếp nhận được giáo pháp Nhất thừa sâu xa nhất.
				  Ngài Huệ Nhật trong lòng thường tưởng mộ, quyết đi đến Thiên 
					Trúc. Ngày kia đối trước tượng Phật phát lời thệ nguyện, lên 
					đường sang Tây Vực. Ban đầu nương thuyền vượt biển, trong 
					khoảng ba năm đã trải qua hầu hết các nước miền Đông Nam hải 
					như Côn Lôn, Phật Thệ, Sư Tử Châu... Vượt qua nhiều nước, 
					cuối cùng mới đến được Thiên Trúc, ngài đến lễ bái các thánh 
					tích và tìm kiếm thu thập các bản kinh văn tiếng Phạn. Ngài 
					cũng đi khắp nơi tham bái các bậc thiện tri thức. Trong suốt 
					13 năm tìm cầu học hỏi giáo pháp, chỉ mong muốn được làm lợi 
					ích cho muôn người!
				  Rồi ngài chống gậy lên đường về. Đường xa thăm thẳm một bóng 
					một mình, vượt qua bao núi tuyết, bao xóm làng hẻo lánh. Đi 
					được 4 năm dài, trải qua không biết bao nhiêu sự khổ nhọc, 
					đau đớn, sanh ra chán ngán cõi Diêm-phù này, bèn tự than 
					rằng: “Có đất nước nào, thế giới nào chỉ có vui mà không có 
					khổ? Có pháp môn nào, hạnh nguyện nào có thể mau chóng được 
					gặp Phật?” Ngài lại đem việc ấy đi hỏi khắp các vị học giả 
					trên toàn cõi Thiên Trúc. Ai nấy đều ngợi khen pháp môn Tịnh 
					độ, vừa phù hợp với lời Phật dạy, vừa mau chóng đạt đến kết 
					quả, chính là con đường có thể tu tập chỉ trong một đời, dứt 
					bỏ thân này ắt được vãng sanh về Thế giới Cực Lạc, tự mình 
					được phụng sự đức Phật A-di-đà.
				  Nghe được những lời ấy rồi, ngài Huệ Nhật cúi đầu vâng lãnh. 
					Rồi ngài liền đi dần lên phía bắc Ấn Độ, đến nước Kiện-đà-la 
					(Gandhra). Về phía đông bắc kinh đô nước này có một ngọn núi 
					lớn. Trên núi có tượng đức Bồ Tát Quán Âm, đã có nhiều người 
					chí thành cầu thỉnh được thấy Bồ Tát hiện thân. Ngài Huệ 
					Nhật bèn khấu đầu làm lễ trước tượng Bồ Tát trọn bảy ngày, 
					lại phát nguyện tuyệt thực đến chết nếu không được thấy Bồ 
					Tát hiện thân. Đến ngày thứ bảy, khi trời còn chưa sáng, đức 
					Quán Âm bỗng hiện ra thân hình màu vàng rực giữa không 
					trung, chiều cao hơn một trượng, ngồi trên tòa sen báu, đưa 
					tay phải xuống xoa đầu Huệ Nhật dạy rằng:
				  “Ông muốn truyền pháp lợi mình lợi người, chỉ có một pháp 
					hướng về cõi Phật A-di-đà ở phương Tây mà thôi. Nên khuyên 
					người niệm Phật, tụng kinh, hồi hướng phát nguyện vãng sanh. 
					Khi được về cõi ấy, được gặp ta và đức Phật A-di-đà, được 
					lợi ích lớn. Ông nên tự biết rằng pháp môn Tịnh độ vượt hơn 
					tất cả các hạnh nguyện khác.”
				  Dạy như thế rồi, bỗng dưng biến mất. Ngài Huệ Nhật tuyệt 
					thực đã đến lúc sắp bỏ mạng, nhưng vừa nghe xong những lời 
					ấy bỗng trở nên khỏe mạnh, liền thẳng đường leo qua núi ấy, 
					nhắm hướng đông mà đi. Đường ngài đi trải qua hơn 70 nước, 
					tính thời gian từ khi đi cho đến lúc về tới Trung Hoa là 18 
					năm (701-719). Niên hiệu Khai Nguyên thứ 7 đời vua Đường 
					Huyền Tông (719), ngài về tới Trường An. Ngài dâng lên hoàng 
					đế những kinh tượng mang về được từ Ấn Độ. Sau, ngài cũng 
					khai ngộ cho hoàng đế, được ban tứ hiệu là Từ Mẫn Tam Tạng 
					Sanh Pháp sư. 
				  Suốt đời ngài tinh cần tu tập pháp môn Tịnh độ, có soạn bộ 
					sách Vãng sanh Tịnh độ tập lưu truyền ở đời. Lời dạy của 
					ngài cùng với các vị Thiện Đạo và Thiếu Khương, tuy khác 
					thời đại nhưng chỗ giáo hóa đều như nhau.
				  *
				  Niên hiệu Đại Lịch thứ 2 đời Đường Đại Tông (767), có Đại sư 
					Pháp Chiếu trụ trì chùa Vân Phong tại Hoành Châu. Ngài siêng 
					cần tu học không hề giải đãi, luôn lấy sự khuyên người niệm 
					Phật làm việc gấp rút, khẩn thiết.
				  Đã hai lần trong Tăng đường, ngài nhìn vào bát cháo thấy 
					hiện ra thắng cảnh ở Ngũ Đài. Trong thắng cảnh ấy lại hiện 
					ra một ngôi chùa, có bảng vàng đề mấy chữ “Chùa Đại Thánh 
					Trúc Lâm”.
				  Từ đó, ngài Pháp Chiếu đem lòng khát ngưỡng, muốn đến Ngũ 
					Đài chiêm bái. Tại chùa Hồ Đông ở Hoành Châu, ngài 5 lần lập 
					đạo tràng niệm Phật, phát nguyện được thấy Đại Thánh. 
				  Ngày 13 tháng 8, niên hiệu Đại Lịch thứ 4 (769), ngài khởi 
					hành. Đến ngày mồng 5 tháng 4 năm sau thì vừa tới huyện Ngũ 
					Đài. Từ xa, ngài nhìn về phương nam thấy nơi chùa Phật Quang 
					có mấy đạo hào quang trắng sáng tỏa lên. Qua hôm sau thì đến 
					chùa Phật Quang, thấy quang cảnh y hệt như trước đây nhìn 
					thấy trong bát cháo, không khác chút nào!
				  Đêm hôm ấy, vừa qua canh tư, ngài Pháp Chiếu nhìn thấy một 
					đạo hào quang từ trên ngọn núi phía bắc bay xuống chiếu vào 
					trong chùa. Ngài vội vào chùa thưa hỏi chúng tăng: “Hào 
					quang ấy là điềm gì, lành hay dữ?” Có một vị tăng đáp rằng: 
					“Đó là hào quang không thể nghĩ bàn của đức Đại Thánh, 
					thường giác ngộ cho những ai có duyên lành.”
				  Ngài Pháp Chiếu nghe như vậy rồi liền chỉnh đốn oai nghi, 
					theo hướng hào quang mà thẳng đường lên chùa. Đi về hướng 
					đông bắc chừng 50 dặm, quả nhiên gặp một ngọn núi. Dưới núi 
					có khe nước, phía bắc khe nước có một cửa đá. Có hai đồng tử 
					mặc áo xanh, khoảng tám, chín tuổi, dung mạo đoan chánh, 
					đang đứng trước cửa. Một người xưng tên là Thiện Tài, một 
					người là Nan-đà. 
				  Đôi bên gặp nhau bày tỏ sự vui mừng, cùng theo lễ hỏi han 
					nhau. Rồi hai người ấy dẫn Pháp Chiếu vào cửa, cùng đi về 
					hướng bắc khoảng 5 dặm thì tới. Nơi đây có một tòa lầu cửa 
					vàng, khi đến tận cửa thì mới biết đó là một ngôi chùa. 
					Trước chùa có một bảng vàng lớn đề mấy chữ: “Chùa Đại Thánh 
					Trúc Lâm”. Quang cảnh nơi ấy vuông vức mỗi bề chừng 20 dặm, 
					có 120 viện, thảy đều có bảo tháp trang nghiêm. Mặt đất toàn 
					là vàng ròng, lại có ao nước chảy, có hoa trái, cây cối mọc 
					đầy bên trong.
				  Pháp Chiếu vào chùa, bước vào trong giảng đường nhìn thấy 
					đức Văn-thù bên phía tây, đức Phổ Hiền bên phía đông. Hai vị 
					Bồ Tát ấy đều ngự trên tòa sư tử, tiếng thuyết pháp nghe rất 
					rõ ràng, vang dội. Hai bên đức Văn-thù có hơn muôn vị Bồ Tát 
					theo hầu, còn chung quanh đức Phổ Hiền cũng có vô số vị Bồ 
					Tát.
				  Pháp Chiếu tiến tới trước hai vị Bồ Tát, lễ lạy rồi thưa hỏi 
					rằng: “Con là phàm phu sanh nhằm đời mạt pháp, cách Phật đã 
					xa, tri thức hèn kém, nghiệp chướng nhơ nhớp lấp sâu nên 
					tánh Phật không do đâu mà hiển bày! Phật pháp mênh mông, con 
					thật không biết phải tu tập pháp môn nào là cốt yếu. Cúi xin 
					hai vị Đại Thánh vì con phá sạch chỗ nghi ngờ.”
				  Đức Văn-thù đáp rằng: “Nay chính là lúc ông nên tu pháp môn 
					niệm Phật. Trong tất cả các môn tu hành, không có pháp môn 
					nào vượt hơn pháp niệm Phật và cúng dường Tam bảo. Đó là 
					đồng thời tu phước lẫn tu huệ. Chỉ có hai pháp tu đó là con 
					đường thẳng tắt nhất, cốt yếu nhất. Vì sao vậy? Như ta đây 
					trong đời quá khứ chính nhờ quán tưởng Phật, niệm Phật và 
					cúng dường mà nay đạt được trí tuệ giải thoát hiểu biết tất 
					cả. Cho nên, tất cả các pháp Bát-nhã Ba-la-mật, thiền định 
					thâm sâu, cho đến hết thảy chư Phật đều là sanh ra từ pháp 
					môn niệm Phật. Nên phải biết rằng, pháp môn niệm Phật là vua 
					trong tất cả các pháp. Ông nên thường xuyên niệm tưởng đấng 
					Vô thượng Pháp vương, không lúc nào gián đoạn.”
				  Pháp Chiếu lại hỏi: “Nên niệm như thế nào?”
				  Đức Văn-thù dạy: “Về hướng tây của thế giới này có đức Phật 
					A-di-đà. Nguyện lực của đức Phật ấy không thể nghĩ bàn. Ông 
					nên thường niệm danh hiệu ngài, đừng cho gián đoạn. Sau khi 
					mạng chung chắc chắn sẽ được vãng sanh, mãi mãi không còn 
					thối chuyển.”
				  Nói xong, hai vị Đại Thánh cùng đưa tay vàng xoa lên đỉnh 
					đầu Pháp Chiếu, ban lời thọ ký rằng: “Ông nhờ tu tập pháp 
					môn niệm Phật mà không bao lâu nữa sẽ được chứng quả Bồ-đề 
					Vô thượng Chánh đẳng. Nếu có những thiện nam, tín nữ nào 
					muốn mau thành Phật thì không gì bằng tu pháp môn niệm Phật, 
					chắc chắn sẽ được nhanh chóng thành tựu quả Bồ-đề Vô 
					thượng.” 
				  Dứt lời, hai vị Đại Thánh lại thay nhau đọc kệ. Pháp Chiếu 
					được nghe rồi lấy làm vui mừng phấn chấn, lòng nghi dứt 
					sạch, bèn lễ lạy rồi lui ra.
				  Hai câu chuyện trên đều có ghi chép trong Tống Cao tăng 
					truyện, được đưa vào Đại tạng kinh, bản Đại Chánh tân tu, 
					thuộc quyển 50, số hiệu 2061. Đây chỉ nêu việc chính, còn 
					những chi tiết nhỏ không quan trọng xin lược bớt.