Vua lại hỏi Na-tiên: “Những gì là lâu dài?”
Na-tiên đáp: “Việc quá khứ là lâu, việc tương lai cũng là lâu. Những gì
đang nhìn thấy trong hiện tại không lâu.”
Vua nói: “Hay thay!”
Vua lại hỏi: “Thật ra, có thật có sự lâu dài hay chăng?”
Na-tiên đáp: “Sự lâu dài ấy, hoặc có, hoặc không.”
Vua hỏi: “Sao gọi là có? Sao gọi là không?”
Na-tiên đáp: “Những người đã đắc nhập Niết-bàn, không còn có sự lâu dài
nữa. Đối với những ai chưa đắc đạo, còn lưu chuyển trong vòng sanh tử,
tất nhiên còn có sự lâu dài. Trong sự luân chuyển lâu dài ấy, những ai
đời này hay làm việc bố thí, hiếu thuận với cha mẹ, đời sau chắc chắn sẽ
được hưởng phước báo.”
Vua khen rằng: “Hay thay! Hay thay!”
Vua lại hỏi: “Như trong các việc quá khứ, tương lai và hiện tại, ba việc
ấy lấy gì làm gốc?”
Na-tiên đáp: “Như xét cả ba việc quá khứ, tương lai và hiện tại, sự ngu
si chính là gốc rễ. Ngu si sanh ra, tức sanh thần thức. Thần thức sanh
tức có sanh ra thân. Thân sanh ra danh, danh sanh ra sắc. Sắc sanh ra
sáu sự nhận biết. Sáu sự nhận biết ấy là mắt nhận biết, tai nhận biết,
mũi nhận biết, lưỡi nhận biết, thân nhận biết và ý nhận biết. Sáu sự
nhận biết này đều hướng ra bên ngoài.
“Thế nào là hướng theo bên ngoài? Mắt hướng theo hình sắc, tai hướng
theo âm thanh, mũi hướng theo hương thơm, lưỡi hướng theo mùi vị, thân
hướng theo xúc chạm, ý hướng theo tham dục. Đó là sáu sự hướng theo bên
ngoài, gọi là sáu nhập. Nhập là hiệp lại, là biết khổ, biết vui. Từ khổ
vui mà sanh ra ân ái, lại theo nơi ân ái mà sanh ra tham dục, từ tham
dục sanh ra chấp hữu, liền làm nhân sanh ra sự già yếu. Già yếu là nhân
sanh ra bệnh khổ. Bệnh khổ là nhân sanh ra sự chết. Do sự chết sanh ra
buồn đau sầu khổ trong tâm.
“Vậy nên sự hiệp lại ấy đều là khổ não, do hiệp lại mà giả tạm gọi là
người. Người do đây mà luân chuyển mãi trong sanh tử, không có lúc dừng.
Muốn tìm lại cái thân trước đây thật là không thể được.
“Ví như người trồng lúa, gieo hạt xuống, sanh lên thành cây, ra lá, đơm
bông, ngậm hạt, cho đến khi có lúa gặt về. Năm sau lại gieo trồng nữa,
lại được nhiều lúa nữa.”
Na-tiên hỏi: “Như người trồng lúa ấy, năm nào cũng gieo trồng, vậy có
khi nào dứt đoạn không có lúa chăng?”
Vua đáp: “Nếu như năm nào cũng gieo trồng, tất không có khi nào dứt đoạn
không có lúa.”
Na-tiên nói: “Con người cũng vậy. Luân chuyển nối tiếp mà sanh ra, không
có lúc nào gián đoạn.
“Ví như con gà sanh ra cái trứng, cái trứng nở ra con gà... nối tiếp mà
sanh mãi. Việc sanh tử của con người cũng vậy, nên không có khi nào gián
đoạn.”
Đại đức Na-tiên nhân đó cúi xuống vẽ một bánh xe tròn trên mặt đất, hỏi
vua rằng: “Này đại vương, như trong cái bánh xe này, có chỗ nào là góc
cạnh chăng?”
Vua đáp: “Là hình tròn, nên không có góc cạnh.”
Na-tiên nói: “Kinh Phật dạy rằng, việc sanh tử của người ta cũng như cái
bánh xe tròn này, liên tục xoay vòng, không có lúc nào chấm dứt.
“Người ta do nơi mắt, thấy được cảnh sắc vạn vật, nhân đó nhận biết. Như
vậy là ba việc cùng hiệp lại. Do sự hiệp lại ấy sanh ra sự khổ hoặc vui.
Do khổ vui mà sanh ân ái, do ân ái sanh ra tham dục. Do tham dục sanh ra
nguyên nhân của chấp hữu. Do nơi chấp hữu mà có sanh mạng. Do sanh mạng
mà tạo tác các việc thiện ác. Do tạo tác các việc thiện ác nên phải chịu
tái sanh.
“Do nơi tai, nghe được âm thanh, nhân đó nhận biết. Như vậy là ba việc
cùng hiệp lại. Do sự hiệp lại ấy sanh ra sự khổ hoặc vui. Do khổ vui mà
sanh ân ái, do ân ái sanh ra tham dục. Do tham dục sanh ra nguyên nhân
của chấp hữu. Do nơi chấp hữu mà có sanh mạng. Do sanh mạng mà tạo tác
các việc thiện ác. Do tạo tác các việc thiện ác nên phải chịu tái sanh.
“Do nơi mũi, ngửi được mùi hương, nhân đó nhận biết. Như vậy là ba việc
cùng hiệp lại. Do sự hiệp lại ấy sanh ra sự khổ hoặc vui. Do khổ vui mà
sanh ân ái, do ân ái sanh ra tham dục. Do tham dục sanh ra nguyên nhân
của chấp hữu. Do nhân nơi chấp hữu mà có sanh mạng. Do sanh mạng mà tạo
tác các việc thiện ác. Do tạo tác các việc thiện ác nên phải chịu tái
sanh.
“Do nơi lưỡi, nếm được mùi vị, nhân đó nhận biết. Như vậy là ba việc
cùng hiệp lại. Do sự hiệp lại ấy sanh ra sự khổ hoặc vui. Do khổ vui mà
sanh ân ái, do ân ái sanh ra tham dục. Do tham dục sanh ra nguyên nhân
của chấp hữu. Do nơi chấp hữu mà có sanh mạng. Do sanh mạng mà tạo tác
các việc thiện ác. Do tạo tác các việc thiện ác nên phải chịu tái sanh.
“Do nơi thân, xúc chạm các thứ mềm mại hoặc thô nhám, nhân đó nhận biết.
Như vậy là ba việc cùng hiệp lại. Do sự hiệp lại ấy sanh ra sự khổ hoặc
vui. Do khổ vui mà sanh ân ái, do ân ái sanh ra tham dục. Do tham dục
sanh ra nguyên nhân của chấp hữu. Do nơi chấp hữu mà có sanh mạng. Do
sanh mạng mà tạo tác các việc thiện ác. Do tạo tác các việc thiện ác nên
phải chịu tái sanh.
“Do nơi ý, suy nghĩ các việc, nhân đó nhận biết. Như vậy là ba việc cùng
hiệp lại. Do sự hiệp lại ấy sanh ra sự khổ hoặc vui. Do khổ vui mà sanh
ân ái, do ân ái sanh ra tham dục. Do tham dục sanh ra nguyên nhân của
chấp hữu. Do nơi chấp hữu mà có sanh mạng. Do sanh mạng mà tạo tác các
việc thiện ác. Do tạo tác các việc thiện ác nên phải chịu tái sanh.
“Người ta cứ như vậy, nối tiếp tương tục mà sanh ra, không có lúc dừng
lại.”
Vua tán thán rằng: “Hay thay!”