Ngày xưa có một người rất nghèo, nghèo rớt mồng tơi, tên là Đắc Tài, đã 
		30 tuổi đầu mà vẫn còn chưa vợ. Có một năm kia, Đắc Tài đến Phổ Đà Sơn 
		dâng hương, nguyện cầu Bồ Tát Quán Âm gia hộ cho mình sớm phát tài. Hắn 
		lễ từ chùa trước đến chùa sau, lên Phật Đỉnh Sơn, rồi theo đoàn khách 
		hành hương đến Phạm Âm Động lễ bái Bồ Tát Quan Thế Âm.
	  Phạm Âm Động nằm ở mé đông của Thanh Lũy Đầu. Lúc ấy, giữa Thanh Lũy Đầu 
		và Phổ Đà Sơn là một nhánh sông rộng, hai đầu thông với biển, lúc triều 
		lên thì gió to sóng lớn và nước chảy xiết, mà lúc triều xuống thì lại 
		trở thành một dải đất bùn lầy, khi dẫm lên thì chân lún xuống, dính bùn 
		chặt cứng. Những người muốn đến Phạm Âm Động chỉ đành chờ nước triều 
		xuống rồi cởi giày, xắn quần đạp trên con đường bùn lầy ấy mà đi.
	  Khi Đắc Tài đến chỗ ấy, nhìn thấy dải bùn lầy thì đột nhiên nghĩ ra một 
		kế để làm tiền, bèn âm thầm suy đi tính lại: nếu tậu được con thuyền tam 
		bản thì có thể chèo thuyền ở chỗ này, một là làm việc thiện kiếm phước, 
		hai là nửa phần còn lại của cuộc đời coi như chắc ăn. 
	  Càng nghĩ hắn càng thấy ý kiến này rất hay, nên sau khi rời Phạm Âm 
		Động, hắn bèn đến bờ sông xây một mái nhà lá, ngày ngày quyên tiền khách 
		hành hương qua lại để mua một chiếc thuyền nhỏ. Hương khách cũng thấy ý 
		kiến này rất hay nên ai nấy hùn nhau mở hầu bao dốc tiền ra giúp hắn.
	  Sau vài tháng, Đắc Tài tính lại số tiền quyên được thì thấy đã dư sức 
		mua một chiếc thuyền tam bản. Nhưng những đồng tiền bạc sáng lòa loà, 
		những đồng tiền đồng khua leng keng khiến hắn đổi ý:
	  – Hề hề, đang phát tài phát lộc thế này thì làm sao bỏ ngang cho được! 
		Vả lại ta cũng chưa xây nhà gạch cơ mà!
	  Đến năm thứ ba, Đắc Tài đã dùng tiền mua thuyền mà khách hành hương đã 
		đóng góp để xây lên một căn nhà gạch ba gian trang bị đầy đủ, và còn 
		cưới được một bà vợ nữa! Khi thấy những điều cơ bản mà mình hằng mong 
		muốn nay đã có đủ, Đắc Tài mới kêu người đóng cho mình một chiếc thuyền 
		tam bản, chèo đò qua lại giữa Thanh Lũy Đầu và Phổ Đà Sơn. 
	  Nhưng chèo được vài ba ngày, hắn cảm thấy cách kiếm ăn này quá vất vả 
		mệt mỏi mà tiền thâu vào lại chẳng có bao nhiêu, bèn nảy ra một ý kiến 
		mới.
	  Hắn đi mua một bức tượng Quán Âm nhỏ thờ ở đầu thuyền rồi đặt trước bàn 
		thờ một cái vại đã rửa sạch, trên vại dán một tấm giấy đỏ với hàng chữ 
		“thuyền từ độ khắp, vui lòng giúp đỡ”. Từ đó ngày nào hắn cũng móc từ 
		vại ra một số tiền không nhỏ. Nếu có ngày hương khách ném quá ít tiền 
		vào vại, hắn sẽ cố ý chèo làm sao cho thuyền dao động thật mạnh, thế là 
		thiện nam tín nữ phải kinh sợ, không thể không quỳ trước tượng Bồ Tát 
		khấn nguyện và ném thêm tiền đồng, tiền bạc vào vại. 
	  Hương khách rất hận nhưng không dám làm mất lòng hắn, dầu sao họ cũng lệ 
		thuộc vào hắn để đi đi về về trên dòng sông ấy!
	  Có một hôm thuyền không có khách, Đắc Tài bèn đậu thuyền ở ven bờ sông, 
		đem bầu rượu già cùng vài khúc cá khô, ngồi dưới đuôi thuyền mà nhâm nhi 
		hưởng nhàn.
	  – Ông lái thuyền ơi, cho tôi qua sông nào!
	  Đột nhiên có một giọng nói thanh tao trong trẻo từ bờ sông vọng lại. Đắc 
		Tài ngoảnh mặt lại nhìn, ôi chao, thì ra đấy là một cô nương xinh đẹp mỹ 
		miều! Cô gái tay đeo làn tre nhỏ, nửa làn đựng cát vàng óng ánh. Cô mặc 
		nguyên một bộ quần áo màu tím thật là thanh tân, trông cô không khác gì 
		tiên nữ xuống trần. Đắc Tài cảm thấy lòng rạo rực, vội vàng đặt cốc rượu 
		xuống, đưa tay đỡ cô gái xuống thuyền. Nhưng cô gái không để ý tới hắn, 
		nhẹ nhàng nhảy xuống thuyền một mình. Đắc Tài hơi quê, bẻ mạnh mái chèo 
		tách thuyền ra khỏi bờ sông. Thấy hai bên bờ không có một bóng người, 
		hắn bèn chèo thuyền thật chậm rãi, hai con mắt dán chặt vào người cô 
		gái.
	  – Cô nương à, cô tới đây cầu phúc hay cầu con vậy?
	  Cô gái ngồi ngay ngắn trên thuyền, nhẹ cười nhạt mà đáp:
	  – Tôi cầu thiền.
	  – Cô cầu thuyền? Đắc Tài cười một cách nham nhở. Thuyền rồng hay thuyền 
		tam bản cũng là thuyền, cô nương muốn thuyền thì tại hạ chính là thuyền 
		đây!
	  Nói xong hắn bèn lấy chân đá vào mạn thuyền, tay trái liều lĩnh đẩy mái 
		chèo thật mạnh, con thuyền nhỏ bèn lắc lư một cách dữ dội. Nhưng cô gái 
		không hề tỏ vẻ hoảng sợ, chỉ mỉm cười ngồi rất an ổn, làm như thuyền 
		càng lắc cô càng thấy thú vị. Đến khi Đắc Tài mệt lử, nằm dài trước bánh 
		lái giả chết, cô gái mới bước đến, nắm lấy mái chèo và “két, két”, con 
		thuyền lao vun vút trên sông một cách vững chải.
	  – Hề hề, thì ra cô nương đây cũng là tay chèo thuyền nhà nghề!
	  Đắc Tài thừa cơ hội vừa nói vừa nắm lấy cánh tay cô gái, nhưng nào ngờ 
		khi nhìn lại thì thấy mình đang nắm đuôi mái chèo gỗ cứng ngắc! Hắn đưa 
		mắt tìm cô gái thì không còn thấy bóng dáng của cô đâu, ngay cả chiếc 
		làn tre cũng không còn nữa.
	  Đắc Tài bất giác giật mình kinh sợ. Ngay lúc hắn đang kinh hoàng bất an 
		thì bỗng nhiên gió lớn nổi lên, sóng cao tới trời đẩy chiếc thuyền tam 
		bản lên cao rồi “huỵch” một tiếng, đâm xuống một tảng đá lớn vỡ thành gỗ 
		vụn! Đắc Tài khó khăn lắm mới trèo được lên bờ, vội vàng đâm đầu chạy về 
		nhà. Nhưng từ chân núi nhìn lên thì cái nhà gạch ba gian đã bị cuồng 
		phong cuốn đi rồi, bà vợ cũng biến đâu mất! Thế là Đắc Tài trở lại nghèo 
		rớt mồng tơi y hệt như ba năm trước.
	  Thì ra cô gái chèo thuyền kia chính là Quán Âm đại sĩ hóa thân. Khi 
		cuồng phong lắng xuống, Ngài trở lại bổn tướng trang nghiêm của mình, 
		đứng trên bờ sông bốc một nắm cát trong làn tre rải lên mặt nước, trong 
		phút chốc dòng sông to rộng từ từ bị cát vàng phủ kín. Dòng sông đã biến 
		thành thung lũng, người ta gọi đó là “Phi Sa Áo” (thung lũng cát bay). 
		Từ đấy, hương khách muốn đến Phạm Âm Động không cần phải lệ thuộc vào 
		người lái đò nữa!