Thành công không phải điểm cuối cùng, thất bại không phải là kết thúc, chính sự dũng cảm tiếp tục công việc mới là điều quan trọng. (Success is not final, failure is not fatal: it is the courage to continue that counts.)Winston Churchill

Kẻ làm điều ác là tự chuốc lấy việc dữ cho mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Khi gặp chướng ngại ta có thể thay đổi phương cách để đạt mục tiêu nhưng đừng thay đổi quyết tâm đạt đến mục tiêu ấy. (When obstacles arise, you change your direction to reach your goal, you do not change your decision to get there. )Zig Ziglar
Yêu thương và từ bi là thiết yếu chứ không phải những điều xa xỉ. Không có những phẩm tính này thì nhân loại không thể nào tồn tại. (Love and compassion are necessities, not luxuries. Without them humanity cannot survive.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Bạn có biết là những người thành đạt hơn bạn vẫn đang cố gắng nhiều hơn cả bạn?Sưu tầm
Khi mọi con đường đều bế tắc, đừng từ bỏ. Hãy tự vạch ra con đường của chính mình. (When all the ways stop, do not give up. Draw a way on your own.)Sưu tầm
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Hạnh phúc giống như một nụ hôn. Bạn phải chia sẻ với một ai đó mới có thể tận hưởng được nó. (Happiness is like a kiss. You must share it to enjoy it.)Bernard Meltzer
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)

Trang chủ »» Danh mục »» Rộng Mở Tâm Hồn »» Kinh Diệu Pháp Liên Hoa »» 16. Phẩm Tuổi thọ của Như Lai »»

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
»» 16. Phẩm Tuổi thọ của Như Lai

(Lượt xem: 13)
Xem trong Thư phòng    Xem định dạng khác    Xem Mục lục 

       


Kinh Diệu Pháp Liên Hoa - 16. Phẩm Tuổi thọ của Như Lai

Font chữ:


SÁCH AMAZON



Mua bản sách in

Lúc bấy giờ, đức Phật nói với các vị Bồ Tát cùng tất cả đại chúng: “Này các thiện nam tử! Các ông nên tin hiểu lời chân thật của Như Lai.”

Rồi ngài lặp lại với đại chúng: “Các ông nên tin hiểu lời chân thật của Như Lai.”

Và lặp lại lần nữa với đại chúng: “Các ông nên tin hiểu lời chân thật của Như Lai.”

Bấy giờ, đại chúng Bồ Tát, đứng đầu là ngài Di-lặc, cùng chắp tay thưa Phật: “Bạch Thế Tôn! Nguyện Phật hãy nói ra, chúng con sẽ tin nhận lời Phật dạy.”

Sau khi bạch Phật ba lần như vậy rồi, các Bồ Tát lại nói thêm lần nữa: “Kính nguyện Phật nói ra, chúng con xin tin nhận lời Phật dạy.”

Khi ấy, đức Thế Tôn thấy các vị Bồ Tát không ngừng thỉnh cầu liên tiếp ba lần, liền dạy rằng: “Các ông hãy chú tâm lắng nghe thật kỹ về sức thần thông sâu kín của Như Lai.

“Trong thế gian này, tất cả chư thiên, loài người cho đến a-tu-la đều cho rằng: ‘Đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiện nay là từ hoàng cung họ Thích xuất gia, đến ngồi nơi đạo tràng không xa thành Già-da, chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.’ Nhưng này các thiện nam tử, thật ra ta thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na-do-tha kiếp.

“Ví như có người lấy năm trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi thế giới đại thiên nghiền nát thành bụi nhỏ, [rồi mang theo] đi về hướng đông, qua năm trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước mới để rơi một hạt bụi; cứ đi mãi như thế cho đến khi rơi hết số bụi ấy. Này các thiện nam tử, các ông nghĩ sao, những thế giới như vậy có thể tính toán suy xét đếm kể để biết được số lượng hay chăng?”

Bồ Tát Di-lặc và đại chúng cùng bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Những thế giới như vậy là vô lượng vô biên, không thể dùng phép tính toán để biết được, cũng không phải phạm vi tâm trí có thể suy xét đến. Cho dù tất cả các vị Thanh văn, Duyên giác dùng trí vô lậu cũng không thể suy xét biết được hạn lượng. Chúng con dù đã trụ nơi địa vị Bất thối nhưng đối với việc này cũng không thể thấu hiểu. Bạch Thế Tôn, những thế giới như vậy là vô lượng vô biên.”

Lúc bấy giờ, đức Phật bảo chúng Đại Bồ Tát: “Này các thiện nam tử! Nay ta sẽ nói thật rõ ràng với các ông: Nếu mang những thế giới [về phương đông] có bụi rơi xuống và cả những thế giới không có bụi rơi xuống,[1] tất cả đều nghiền nát ra thành bụi nhỏ, mỗi hạt bụi tính là một kiếp, thì thời gian ta thành Phật đến nay còn nhiều hơn số đó trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp.

“Từ đó đến nay, ta thường ở tại thế giới Ta-bà này thuyết pháp giáo hóa, lại cũng ở nơi trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ cõi nước khác dẫn dắt làm lợi ích cho chúng sinh.

“Này các thiện nam tử! Trong khoảng thời gian ấy, ta nói về những vị như Phật Nhiên Đăng v.v. lại nói việc các vị Phật ấy nhập Niết-bàn, như vậy đều là dùng phương tiện phân biệt để [giáo hóa].

“Này các thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào tìm đến chỗ ta, ta sẽ dùng Phật nhãn quán xét các căn lành như niềm tin, [sức tinh tấn] v.v.[2] để xem là nhanh nhạy hay chậm lụt, rồi tùy chỗ thích hợp có thể hóa độ, ở mỗi nơi ta đều nói ra danh hiệu khác nhau, tuổi tác khác nhau, cũng hiện nói sẽ nhập Niết-bàn, lại dùng đủ mọi phương tiện thuyết dạy giáo pháp vi diệu, có thể khiến cho chúng sinh đều khởi tâm hoan hỷ.

“Thiện nam tử! Đức Như Lai thấy có những chúng sanh ưa thích pháp nhỏ, cấu nhiễm sâu dày, phước đức mỏng manh, nên vì những người ấy mà nói: ‘Ta xuất gia khi nhỏ tuổi, sau đó chứng đắc quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.’ Nhưng thật ra ta thành Phật từ lâu xa như đã nói trên, vì dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh giúp họ thể nhập đạo Phật nên mới nói ra như vậy.

“Này các thiện nam tử! Những kinh điển mà Như Lai giảng giải đều là vì độ thoát chúng sanh; hoặc nói đó là thân mình, hoặc nói là thân khác; hoặc thị hiện thân mình, hoặc thị hiện thân khác; hoặc thị hiện việc của mình, hoặc thị hiện việc của thân khác; những điều nói ra như vậy đều là chân thật không hư dối.

“Vì sao vậy? Vì Như Lai thấy biết đúng thật tướng trạng của ba cõi không có sinh tử, dù Phật ẩn hình hoặc ra đời; cũng không có việc ở đời hay diệt độ; không phải chân thật cũng không phải hư dối; không phải như vậy cũng không phải khác biệt; không giống như [chúng sanh trong] ba cõi nhìn thấy ba cõi.[3] Những việc như vậy, Như Lai đều thấy biết sáng suốt không có sai lầm.

“Chúng sanh vốn có đủ mọi loại căn tánh, mọi sự tham muốn, hành vi, suy tưởng phân biệt khác nhau, vì muốn cho họ sinh khởi các căn lành nên [Như Lai] mới vận dụng không biết bao nhiêu là nhân duyên, thí dụ, ngôn từ để thuyết giảng đủ mọi giáo pháp; việc thi hành Phật sự chưa từng tạm dứt.

“Như vậy, từ khi ta thành Phật đến nay đã hết sức lâu xa, tuổi thọ đến vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, thường trụ bất diệt. Các thiện nam tử! Tuổi thọ của ta vốn nhờ tu hành đạo Bồ Tát mà có được, đến nay vẫn chưa dứt, lại còn tăng thêm gấp nhiều lần. Ta nay không thực sự sẽ diệt độ nhưng lại nói rằng: ‘Ta sẽ diệt độ.’

“Như Lai dùng phương tiện như vậy để giáo hóa chúng sanh. Vì sao vậy? Vì nếu Phật ở đời lâu dài thì những người phước mỏng không gieo trồng căn lành, sống nghèo khó hèn hạ, tham chấp năm món dục, đắm chìm trong mạng lưới nhớ nghĩ suy tưởng, thấy biết hư vọng. Nếu thấy Như Lai sống mãi ở đời không diệt độ, họ liền khởi tâm kiêu căng phóng túng, ôm lòng chán nản lười nhác, không nghĩ rằng khó được gặp Phật, không khởi tâm cung kính. Cho nên Như Lai dùng phương tiện nói rằng: ‘Các tỳ-kheo nên biết, rất khó được gặp chư Phật ra đời!’ Vì sao vậy? Những người phước mỏng, trải qua vô lượng trăm ngàn muôn ức kiếp, có khi được gặp Phật, có khi không được gặp Phật. Do vậy nên ta nói: ‘Các tỳ-kheo! Rất khó được gặp Như Lai.’ Những chúng sanh nói trên nghe được lời này ắt sẽ nghĩ rằng rất khó được gặp Phật, ôm lòng luyến mộ, khát ngưỡng đối với Phật, liền gieo trồng căn lành. Cho nên, Như Lai tuy không thật sự diệt độ nhưng nói rằng diệt độ.

“Lại nữa, này các thiện nam tử! Pháp của chư Phật Như Lai đều như vậy, vì hóa độ chúng sanh nên hết thảy đều chân thật không hư dối.

“Ví như có vị thầy thuốc trí tuệ sáng suốt, biết rõ các phương thuốc, giỏi điều trị đủ các bệnh. Vị ấy có nhiều con, hoặc mười, hoặc hai mươi, thậm chí đến hàng trăm người con. Vị ấy có việc phải đi xa đến nước khác. Sau đó, những người con uống nhầm thuốc độc, bị thuốc phát tác làm cho mê loạn, lăn lộn trên mặt đất.

“Khi ấy, người cha trở về nhà. Những người con đã uống nhầm thuốc độc, có người mất lý trí, có người còn tỉnh táo, nhưng từ xa nhìn thấy cha thì tất cả đều hết sức mừng rỡ, quỳ lạy thưa hỏi vấn an: ‘Mừng thay, cha đã quay về bình yên. Chúng con ngu si đã uống nhầm thuốc độc, xin được cha cứu chữa, giữ lại mạng sống.’

“Người cha thấy các con đau khổ như vậy liền y theo các loại sách thuốc mà tìm được những cỏ thuốc tốt có đủ màu sắc đẹp, hương vị thơm ngon, đem giã nát, lược lấy phần nhỏ mịn rồi trộn đều thích hợp, đưa cho các con uống, bảo rằng: ‘Đây là loại thuốc rất tốt, có đủ màu sắc đẹp, hương vị thơm ngon, các con hãy uống vào sẽ nhanh chóng hết khổ, không còn bệnh tật.’

“Trong số các người con, những người còn tỉnh táo nhìn thấy loại thuốc hay, màu sắc hương vị đều tốt đẹp, liền lập tức uống vào, bệnh khổ dứt hết. Những người khác đã mất lý trí, tuy thấy cha về cũng mừng rỡ thưa hỏi vấn an, cầu xin trị bệnh, nhưng khi đưa thuốc cho thì không chịu uống. Vì sao vậy? Vì chất độc đã ngấm sâu làm mất cả lý trí, nên đối với loại thuốc này có màu sắc hương vị đều tốt lại cho rằng không tốt.

“Người cha suy nghĩ: ‘Những đứa con này thật đáng thương, vì bị trúng độc nên tâm trí đều điên đảo. Tuy gặp ta cũng vui mừng, xin được trị liệu, nhưng thuốc tốt như thế này lại không chịu uống. Nay ta phải dùng phương tiện để khiến cho chúng nó chịu uống thuốc này.’ Liền bảo các con: ‘Các con nên biết, ta nay già yếu sắp chết. Đây là loại thuốc hay, ta để lại chỗ này, các con có thể lấy uống, chớ lo không khỏi bệnh.’ Nói như vậy rồi bỏ đi sang nước khác, sai người về báo: ‘Cha các người đã chết.’

“Lúc bấy giờ, những người con nghe tin cha đã chết, trong lòng hết sức buồn khổ, tự nghĩ rằng: ‘Nếu cha ta còn sống, thương yêu chúng ta, có thể được người cứu giúp. Nay người đã bỏ chúng ta đi xa, chết nơi xứ khác.’ Họ tự nghĩ mình giờ đây côi cút không nơi nương tựa, nên thường đau buồn xúc động, trong tâm dần tỉnh ra, thấy biết loại thuốc [cha để lại] có màu sắc hương vị tốt đẹp liền lấy uống vào, bệnh khổ do thuốc độc liền được khỏi.

“Người cha nghe tin các con đã khỏi bệnh liền quay về, tất cả các con đều được gặp lại cha.”

“Này thiện nam tử, các ông nghĩ sao? Có ai có thể nói vị thầy thuốc ấy phạm tội dối gạt chăng?”

“Bạch Thế Tôn! Không thể như vậy.”

Đức Phật dạy: “Ta cũng giống như vậy, tuy thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm ngàn muôn ức na-do-tha a-tăng-kỳ kiếp, nhưng vì chúng sanh nên dùng sức phương tiện mà nói rằng ta sẽ diệt độ. Cũng không ai có thể theo pháp mà nói ta có lỗi dối gạt.”

Khi ấy, đức Thế Tôn muốn tuyên thuyết lại ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:

Ta thành Phật đến nay,
Đã trải qua số kiếp,
Vô lượng ngàn muôn ức,
Cho đến a-tăng-kỳ,
Thường thuyết pháp giáo hóa,
Vô số ức chúng sanh,
Dẫn dắt vào đạo Phật.

Vô số kiếp đến nay,
Vì hóa độ chúng sanh,
Phương tiện hiện Niết-bàn,
Nhưng thật không diệt độ,
Thường ở đây thuyết pháp.

Ta thường trụ cõi này,
Dùng các sức thần thông,
Khiến chúng sanh điên đảo,
Gần Phật nhưng không thấy.

Họ thấy Phật diệt độ,
Liền cúng dường xá-lợi;
Đều lưu luyến tiếc nhớ,
Nên sinh lòng khát ngưỡng.

Chúng sanh đã tin phục,
Tâm chân thật, nhu hòa,
Một lòng muốn gặp Phật,
Không tiếc thân mạng mình.

Khi ấy Phật, chư tăng,
Cùng hiện trên núi Thứu.
Ta bảo cùng chúng sanh:
“Phật thường trụ bất diệt,
Nhưng dùng sức phương tiện,
Hóa hiện: diệt, không diệt.

Cõi khác có chúng sanh,
Cung kính, tin, ưa thích,
Ta lại ở nơi ấy,
Vì họ thuyết Phật pháp.
Các ông không nghe biết,
Cho rằng ta diệt độ.

Phật nhìn thấy chúng sanh,
Đắm chìm trong khổ não,
Cho nên không hiện thân,
Để họ sinh khát ngưỡng.
Chỉ khi họ luyến mộ,
Mới ra đời thuyết pháp.

Sức thần thông như vậy,
Qua a-tăng-kỳ kiếp,
Phật thường ở núi Thứu,
Và những nơi chốn khác.

Chúng sanh thời kiếp tận,
Bị lửa dữ thiêu đốt,
Nơi ta ở an ổn,
Thường đông đảo trời, người.

Có vườn rừng, lầu gác,
Mọi thứ báu trang nghiêm,
Cây báu nhiều hoa trái,
Chúng sanh vui dạo chơi,
Chư thiên đánh trống trời,
Thường dùng nhạc điệu hay;
Mưa hoa mạn-đà-la,
Cúng dường Phật, đại chúng.

Tịnh độ Phật thường còn,
Chúng sanh thấy cháy hết,
Những buồn, sợ, khổ não,
Cứ như thế tràn đầy.

Những chúng sanh nhiều tội,
Vì nhân duyên nghiệp ác,
Nên qua vô số kiếp,
Không nghe biết Tam bảo.

Những người tu công đức,
Tâm chân thật, nhu hòa,
Đều thấy được thân Phật,
Vẫn ở đây thuyết pháp.

Có lúc vì chúng này,
Nói: ‘Phật thọ vô lượng.’
Còn người lâu mới gặp,
Lại nói: ‘Phật khó gặp.’
Trí lực Phật như vậy,
Ánh tuệ chiếu vô cùng,
Tuổi thọ vô số kiếp,
Từ lâu tu tập thành.

Các ông người có trí,
Chớ nghi nan việc này.
Hãy dứt nghi mãi mãi,
Lời Phật không hư dối.

Như thầy thuốc phương tiện,
Vì muốn trị bệnh con,
Sống, nhưng nói đã chết,
Không thể cho là dối.

Ta là cha thế gian,
Cứu chúng sanh bệnh khổ,
Vì phàm phu điên đảo,
Thường trụ, nói tịch diệt.

Vì nếu thường gặp Phật,
Chúng kiêu mạn, phóng túng,
Buông thả, đắm năm dục,
Đọa vào các đường ác.

Phật rõ biết chúng sanh,
Tu hành, không tu hành,
Chỗ có thể hóa độ,
Liền vì họ thuyết pháp.

Ta vẫn thường tự nghĩ,
Làm sao giúp chúng sanh,
Thể nhập trí Vô thượng,
Mau thành tựu thân Phật.

__________________________

CHÚ THÍCH

[1] Kinh văn nói: “是諸世界若著微塵及不著者 - Thị chư thế giới nhược trước vi trần cập bất trước giả…” Vì kinh văn đang nói đến các thế giới về phương đông nên có thể ngầm hiểu được, đồng thời cũng nhắc lại các thế giới mà người kia đi qua có làm rơi một hạt bụi lên đó gọi là “trước vi trần” (dính bụi), và tính luôn cả những thế giới mà người ấy không làm rơi bụi, gọi là “bất trước vi trần” (không dính bụi), nghĩa là không đi qua. Chữ “及 - cập” có nghĩa là “tính luôn, tính cả vào” chứ không có nghĩa thay thế như chữ “或 - hoặc”, như vậy để thấy rằng số lượng lớn hơn rất nhiều. Các bản dịch cũ đi sát theo nghĩa đen và dịch là “hoặc dính vi trần hoặc chẳng dính”, không diễn tả đúng ý nghĩa kinh văn. Bản Anh ngữ của H. Kern dịch từ Phạn ngữ diễn đạt ý này là “those worlds where that man deposits those atoms of dust and where he does not” (những thế giới mà người kia có làm rơi bụi và những nơi ông ấy không làm rơi bụi).

[2] Kinh văn dùng “信等諸根 - tín đẳng chư căn” (các căn như tín…), nghĩa là chỉ đến năm căn lành (ngũ căn), bao gồm tín căn (lòng tin), tấn căn (sự tinh tấn), niệm căn (sự ghi nhớ, duy trì ý niệm), định căn (sự chú tâm, tập trung tâm ý) và tuệ căn (trí tuệ). Vì các phẩm tính này được xem là căn bản để sinh khởi các pháp lành, cho nên gọi là “căn”.

[3] Kinh văn là “不如三界見於三界 - bất như tam giới kiến ư tam giới”, H. Kern dịch sanh Anh ngữ là “The Tathāgata sees the triple world not as the ignorant, common people” (Đức Như Lai nhìn ba cõi không giống như những người phàm phu vô trí). Câu văn chữ Hán tối nghĩa vì dùng “tam giới” để chỉ chúng sanh trong ba cõi, nhưng nếu hiểu thành “chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi” thì có vẻ như không phù hợp ngữ cảnh ở đây và làm cho cả đoạn văn trở nên rất khó hiểu.

    « Xem chương trước «      « Sách này có 30 chương »       » Xem chương tiếp theo »
» Tải file Word về máy » - In chương sách này

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.



Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.41 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập

Thành viên đang online:
Rộng Mở Tâm Hồn Viên Hiếu Thành Rộng Mở Tâm Hồn Huệ Lộc 1959 Rộng Mở Tâm Hồn Bữu Phước Rộng Mở Tâm Hồn Chúc Huy Rộng Mở Tâm Hồn Minh Pháp Tự Rộng Mở Tâm Hồn minh hung thich Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Âm Phúc Thành Rộng Mở Tâm Hồn Phan Huy Triều Rộng Mở Tâm Hồn Phạm Thiên Rộng Mở Tâm Hồn Trương Quang Quý Rộng Mở Tâm Hồn Johny Rộng Mở Tâm Hồn Dinhvinh1964 Rộng Mở Tâm Hồn Pascal Bui Rộng Mở Tâm Hồn Vạn Phúc Rộng Mở Tâm Hồn Giác Quý Rộng Mở Tâm Hồn Trần Thị Huyền Rộng Mở Tâm Hồn Chanhniem Forever Rộng Mở Tâm Hồn NGUYỄN TRỌNG TÀI Rộng Mở Tâm Hồn KỲ Rộng Mở Tâm Hồn Dương Ngọc Cường Rộng Mở Tâm Hồn Mr. Device Rộng Mở Tâm Hồn Tri Huynh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Nguyên Mạnh Rộng Mở Tâm Hồn Thích Quảng Ba Rộng Mở Tâm Hồn T TH Rộng Mở Tâm Hồn Tam Thien Tam Rộng Mở Tâm Hồn Nguyễn Sĩ Long Rộng Mở Tâm Hồn caokiem Rộng Mở Tâm Hồn hoangquycong Rộng Mở Tâm Hồn Lãn Tử Rộng Mở Tâm Hồn Ton That Nguyen Rộng Mở Tâm Hồn ngtieudao Rộng Mở Tâm Hồn Lê Quốc Việt Rộng Mở Tâm Hồn Du Miên Rộng Mở Tâm Hồn Quang-Tu Vu Rộng Mở Tâm Hồn phamthanh210 Rộng Mở Tâm Hồn An Khang 63 Rộng Mở Tâm Hồn zeus7777 Rộng Mở Tâm Hồn Trương Ngọc Trân Rộng Mở Tâm Hồn Diệu Tiến ... ...

... ...