KINH VĂN
Phẩm Thí dụ cỏ thuốc, thứ năm
1. Trong phẩm này đề cập đủ cả núi sông, mây mưa, nhưng chỉ lấy riêng cỏ thuốc (dược thảo) để làm tên phẩm. Đất đai có công năng sanh sôi, mây mưa có công năng nhuần thấm, cây cỏ [từ đó] được sanh sôi, được thấm nhuần. Những gì được sanh sôi, được thấm nhuần đều có công dụng, nhưng cỏ thuốc thì công dụng mạnh mẽ hơn. [Cũng như] các việc thiện hữu lậu đều có công năng trừ việc ác, [nhưng việc thiện] vô lậu là vượt trội hơn hết. Trong thánh chúng vô lậu, 4 vị đại đệ tử đã dùng thí dụ [để trình bày sự] lãnh hội [của mình đối với] thí dụ Phật đã nói, thể hội sâu xa thánh ý của Phật, nên Phật nói “lành thay” và khen ngợi “Các ông là những người rất ít có.” [Ngài Ca-diếp] trình bày chỗ mình nhận hiểu được để dẫn dụ giúp người khác nhận hiểu, cho nên gọi tên là phẩm Thí dụ Cỏ thuốc (Dược thảo dụ).
2. Nói về cỏ thuốc, vốn sống lâu ngày trong rừng, một khi gặp được cơn mưa giúp cho tươi tốt thì bên ngoài chồi lá xanh um, bên trong tràn trề nhựa sống. Đây là ví như các vị thánh vô lậu ở kiếp sống cuối cùng, đạt được Niết-bàn hữu dư rồi nên không phát nguyện cầu Phật đạo Vô thượng, nay được nghe kinh [Pháp hoa này] thì tự mình nương theo Phật thừa, đồng thời dùng [Phật thừa này] để cứu độ chúng sanh. Kinh văn nói:
Chúng con ngày hôm nay,
Mới thật là Thanh văn,
Đem âm thanh pháp Phật,
Khiến tất cả được nghe.
[Như vậy là] cả trong lẫn ngoài, tự mình thực hành và giáo hóa chúng sanh đều đầy đủ sức hoạt dụng thù thắng, [giống như cỏ thuốc gặp mưa], cho nên gọi tên là phẩm Thí dụ Cỏ thuốc (Dược thảo dụ).
3. Lại nói về cỏ thuốc, vốn có thể trừ được [bệnh của] 4 đại do gió [độc, khí] lạnh... nuôi dưỡng 5 cơ quan nội tạng,[1] giúp người trẻ lại, duy trì hình sắc. Nay nhờ gặp cơn mưa bỗng nhiên phát triển thành cây thuốc chúa, uống vào trị được hết thảy các bệnh, lại biến người thành tiên. Đây là ví như các vị thánh vô lậu khi nghe kinh [Pháp hoa này] liền phá trừ được vô minh hoặc, khai mở tri kiến Phật. Trong kinh văn, [ngài Xá-lợi-phất] nói: “Ngày hôm nay con mới biết mình đích thực là con Phật.” [Ngài Ca-diếp lại nói:] “Bao nhiêu báu vô thượng, không cầu tự nhiên được.” [Lại nói:] “Những gì hàng con Phật cần đạt được thì nay [chúng con] đều đã đạt được.”[2] [Đây là nói việc hàng Thanh văn] đối trước Phật riêng được thụ ký, sự vui mừng thật vi diệu nhiệm mầu, tương xứng [với công năng cỏ thuốc], cho nên gọi tên là phẩm Thí dụ Cỏ thuốc (Dược thảo dụ).
[Như trên vừa nêu 3 ý,] ý thứ nhất nói nghĩa đệ tử [là ngài Ca-diếp] trình bày sự nhận hiểu lời dạy của thầy [là đức Phật], đây là ý nghĩa thế giới tất đàn. Ý thứ hai nói nghĩa sinh khởi sự tốt đẹp, đây là ý nghĩa vị nhân tất đàn. Ý thứ ba nói nghĩa đối trị [tất cả bệnh tật] và nghĩa [thành tựu quả Phật] cao tột nhất, đây là ý nghĩa đối trị tất đàn và đệ nhất nghĩa tất đàn.
Như trên là giải thích tên phẩm theo nghĩa nhân duyên. Ngoài ra còn lại những cách giải thích dựa theo giáo nghĩa, bản tích hay quán tâm thì cứ theo thông lệ có thể hiểu được, không cần phải ghi chép vào đây. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Ma-ha Ca-diếp và các vị đại đệ tử: “Lành thay, lành thay! Ca-diếp khéo nói ra công đức chân thật của Như Lai. Đúng như lời ông nói, Như Lai lại có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ các công đức khác, cho dù các ông có diễn nói trong vô lượng ức kiếp cũng không thể cùng tận.
Trong phần thuyết thí dụ thì phẩm này là phần thứ ba trần thuật sự thành tựu. Các nhà cựu giải cho rằng, [đoạn này Phật khen ngợi việc ngài Ca-diếp nói ra] 13 khổ kệ xưng tán ân đức sâu dày của Phật, cùng với đoạn kệ nói thí dụ [“ông trưởng giả] chỉ dạy công việc cho người làm”, vì kinh văn nói đến sự uyển chuyển khéo léo. Ngài Nam Nhạc nói rằng:[3] “Không nên hiểu sai lệch như thế. Trong kinh văn [Phật khen ngợi ngài Ca-diếp là] ‘khéo nói ra công đức chân thật của Như Lai’, đó là trình bày lại đầy đủ về sự nhận hiểu cả hai pháp quyền và thật.” Cần làm sáng tỏ kinh văn ở chỗ này: 13 khổ kệ chỉ là nói hàng Nhị thừa chịu ơn nhận lãnh giáo pháp, còn thí dụ “ông trưởng giả dạy công việc cho người làm” chỉ nói công đức quyền thừa của Phật.
Nay giải thích rằng kinh văn đoạn này trần thuật trọn vẹn sự nhận hiểu từ đầu đến cuối, khởi đầu là kết duyên [với Phật vì có] tánh Phật,[4] khoảng giữa là [quên mất chí nguyện Đại thừa nhưng Phật vẫn] theo giáo hóa dẫn dụ, và sau cùng là [thí dụ] giao phó gia tài sự nghiệp, [tức được thụ ký thành Phật]. Từ nhỏ nhặt đến lớn lao, thật là vô lượng vô biên quá nhiều ân đức [Phật].[5]
Kinh văn đoạn này chia làm 2 tổng phần. Thứ nhất là nói sơ lược sự thành tựu, thứ hai là nói rộng sự thành tựu.
Tổng phần nói lược lại cũng chia 2 phần. Thứ nhất là 2 lần [Phật khen ngợi] “lành thay”, thứ hai là nêu ý [ngài Ca-diếp] dù nhận hiểu cũng không cùng tận.
Nói về 2 lần [Phật khen] “lành thay”, lần thứ nhất là khen 2 chỗ nhận hiểu nghĩa chân thật, lần thứ hai là khen 2 chỗ nhận hiểu về nghĩa quyền thừa.[6]
“Khéo nói ra công đức chân thật của Như Lai.” “Chân thật” là trần thuật pháp thật, “công đức” là trần thuật pháp quyền.
Lại nữa, trong thời thuyết giáo pháp Hoa nghiêm, [Phật] dự định [giáo pháp ấy] thích hợp, đó là nhận hiểu pháp thật; trong thời thuyết giáo pháp Tam tạng,[7] [Phật dùng phương tiện] dẫn dụ, đó là nhận hiểu pháp quyền. Đến thời Phương đẳng sinh khởi lòng tin, thời Bát-nhã trao nhận giáo pháp [Đại thừa], đó là nhận hiểu cả pháp quyền và pháp thật. Nay trong thời thuyết giáo pháp Pháp hoa, [Phật] giao phó gia tài [Chánh pháp], đó là chỉ riêng nói pháp thật. Ngôn từ rốt ráo, uyển chuyển khéo léo, cho nên [Phật khen] là “khéo nói ra”; [hết thảy công đức] đều là pháp Phật cho nên nói là “chân thật”. “Đúng như lời ông nói” tức là [Phật] ấn chứng, xác định [cho những lời của ngài Ca-diếp].
Từ câu “Như Lai lại có…” trở đi là nêu sự nhận hiểu [công đức của Phật] không thể cùng tận. Không cùng tận như thế nào? Đó là nói [sự nhận hiểu ấy] cho dù có tiến lên cao hay lùi lại xuống thấp, theo chiều ngang hay chiều dọc, đồng thời ngang dọc hoặc chẳng ngang chẳng dọc cũng đều không cùng tận.
Vì sao vậy? Như vầng mây lớn che phủ khắp cùng, nơi nơi đều được mát mẻ, như cơn mưa lớn đổ xuống khắp nơi, không một chỗ nào là không thấm ướt. [Công đức của Phật] giúp cho khắp cả thế gian đều được thấy biết pháp chưa từng có, đâu thể nào chỉ theo giáo nghĩa riêng hàng Nhị thừa nhận hiểu được lợi ích mà không nói đến 2 cõi trời, người [như hạng cỏ thuốc nhỏ cũng được mưa thấm nhuần].[8] Đây là nói lùi xuống thấp hơn cũng không cùng tận.
[Kinh văn ví] Bồ Tát như “là cỏ thuốc bậc cao”, lại cũng “gọi là hạng cây nhỏ”, “gọi là hạng cây lớn”. [Những loại này gặp mưa xuống đều] sum suê xanh tốt, [giống như Bồ Tát làm] lợi mình lợi người, nhưng không [trình bày] nhận hiểu [giáo pháp]. Đây là nói tiến lên cao hơn cũng không cùng tận.
Lại nữa, 10 pháp giới cùng thành pháp giới Phật, đâu chỉ riêng nhận hiểu hàng Nhị thừa, còn lại 8 pháp giới đều không nói đến.[9] Đây là nói theo chiều ngang cũng không cùng tận.
Lại nữa, [chúng sanh trong] 7 hạng phương tiện từ cạn đến sâu, tất cả đều thể nhập chỗ chân thật, nhưng 5 hạng phương tiện khác đều không thấy nói đến.[10] Đây là nói theo chiều dọc cũng không cùng tận.
Lại nữa, trong cả 3 đời [quá khứ, hiện tại và tương lai,] lợi ích [của pháp Phật đối với chúng sanh] chưa từng tạm dứt. Đây là nói đồng thời ngang dọc cũng không cùng tận.
[Kinh văn nói] “núi, sông, khe, suối v.v.”, nói chung là “mặt đất”. Từ một mặt đất có khả năng sanh ra [muôn loài thực vật], chưa từng có sự lựa chọn chê bỏ loại này, chấp nhận loại kia... Cây, cỏ, hạt mầm… tất cả đều nương tựa nơi mặt đất [mà sinh trưởng], không có sự nương tựa nào khác. Một vầng mây bao phủ, không nơi nào [trên mặt đất] không được che mát. Một trận mưa xuống cùng một loại nước, không hề có sự khác biệt nơi khô héo, chỗ tươi tốt, khắp nơi đều được thấm nhuần đồng đều, đều được tăng trưởng. Đức Như Lai [cũng vậy, giáo hóa] bình đẳng không thể nghĩ bàn, thật không phải trước nói pháp đốn, sau nói pháp tiệm, ban đầu dạy ba thừa, cuối cùng dạy Nhất thừa. Ví như rồng kéo mây lành, đổ mưa xuống khắp nơi; thân tâm [chúng sanh tuy] không có mưa xuống [mà nhờ pháp Phật nên đều] trừ hết [các pháp] nóng bức, được mát mẻ. Đây là [Phật giáo hóa khắp] 5 thừa, 7 hạng phương tiện, 10 phương 3 đời bình đẳng rộng lớn, sâu xa cùng khắp không thể nghĩ bàn, không có khác biệt. Đây là nói chẳng ngang chẳng dọc nhận hiểu cũng không cùng tận.
[Phật nói] ý “không thể cùng tận” không phải là bác bỏ tất cả, chỉ đặc biệt nói việc từ chỗ sơ tâm hướng về đến các tâm [thuộc giai vị] về sau, vì những giai vị [nhận biết được đều] chưa phải tột cùng nên nói là “không cùng tận”. Lại như ban sơ nhận hiểu từ chữ “a” đầu tiên cho đến về sau đầy đủ công đức là chữ “trà” cuối cùng,[11] nếu chỉ nhận hiểu y theo giáo nghĩa[12] thì đâu có thời gian rảnh rỗi để tiến lên nhận hiểu theo các chiều ngang dọc khắp cùng. Lại nữa, bậc đại sĩ có công hạnh quyền thừa cũng phù hợp [với nghĩa được nói] ở đây.
KINH VĂN
Này Ca-diếp! Ông nên biết rằng, Như Lai là vua của các pháp, nếu có nói ra điều gì đều không hư dối. Đối với hết thảy các pháp, [Như Lai] dùng trí phương tiện diễn bày thuyết giảng, nhưng tất cả pháp mà Như Lai thuyết giảng [cuối cùng] đều dẫn đến địa vị Nhất thiết trí. Đức Như Lai quán xét rõ biết chỗ hướng về của tất cả các pháp, lại cũng rõ biết chỗ vận hành sâu thẳm trong tâm niệm chúng sanh, thông suốt không gì ngăn ngại, lại cũng cứu xét sáng rõ tận cùng các pháp, chỉ bày cho chúng sanh tất cả trí tuệ.
Kinh văn nói rộng sự thành tựu có 2 phần, gồm văn trường hàng và kệ tụng. Phần kinh văn trường hàng lại có 2 tổng đoạn. Tổng đoạn thứ nhất nói sự thành tựu khai thị trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa. Tổng đoạn thứ hai từ câu “Này Ca-diếp! Các ông [là những người] rất ít có…” trở đi là phần ngợi khen, kết lại.
Tổng đoạn thứ nhất chia ra 2 đoạn. Thứ nhất thuyết pháp, thứ hai nêu thí dụ và sự tương hợp các thí dụ.
Đoạn thuyết pháp lại có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất trước tiên nêu ý “Như Lai là vua của các pháp”. Nói “không hư dối” là khuyến khích khởi niềm tin. Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Đối với hết thảy pháp…” trở đi là vào ý chính nói việc trừ bỏ ba thừa, hiển bày Nhất thừa.
Thông thường, bậc quân vương trong loài người thì đối với giặc bên ngoài không sợ sệt, đối với dân trong nước thì chân thật không nói hai lời. Đấng pháp vương là vua của các pháp nên cũng như vậy. Tất cả những việc xấu ác đã dứt trừ, nên “có nói ra điều gì” đều là chân thật.
Các nhà cựu giải nói rằng, nói với hàng trung căn nêu nghĩa “không hư dối”, khen ngợi [Ca-diếp] là khuyến khích hàng hạ căn tin nhận. Nay tôi cho rằng, pháp Phật tuy nhiều nhưng không ngoài quyền và thật. Ngoài quyền và thật ra thì không còn có pháp nào khác nữa. [Khi Phật] nói “vô lượng vô biên a-tăng-kỳ các công đức khác” thì rất khó tin nhận, cho nên [Phật] nêu ý nói về pháp vương để khuyến khích niềm tin, lại cũng là để dẫn khởi cho thí dụ “vầng mây lớn” được nêu ra sau đó.
Từ câu “Đối với hết thảy các pháp…” trở đi là dựa theo giáo nghĩa làm rõ việc trừ bỏ quyền thừa, hiển bày pháp thật.
Từ câu “Đức Như Lai quán xét rõ biết…” trở đi là dựa theo trí tuệ làm rõ việc trừ bỏ quyền thừa, hiển bày pháp thật. Nhờ 2 giáo pháp [quyền và thật] mà làm rõ được 2 trí [quyền và thật], lại cũng nhờ 2 trí [quyền và thật] mà thuyết giảng 2 giáo pháp [quyền và thật]. Đó là trí tuệ và giáo pháp cùng thành tựu cho nhau.
“Hết thảy các pháp” là nói 7 hạng phương tiện theo chiều ngang [trong không gian], đối lại với một pháp chân thật là chiều dọc [theo thời gian]. Nếu cho là không phải như vậy, thì tại sao [những người từng ở] nơi đạo tràng của hai vạn ức Phật ban sơ phát tâm Đại thừa, về sau đến giữa chừng thì đi theo Tiểu thừa, lại lưu chuyển trong 5 đường?[13] Lại nữa, ngay nơi tự thân một người vốn đã đầy đủ cả 10 pháp giới, huống chi là 7 hạng phương tiện [lại không đủ sao]?[14]
Pháp tuy rất nhiều, [đức Như Lai] dùng phương tiện ba-la-mật soi chiếu nên không đâu không cùng tận. [Do vậy có thể] tùy theo mỗi loài [chúng sanh] mà dùng âm thanh [thích hợp] để thuyết dạy, không một chúng sanh nào không nhận hiểu. [Phật] vì chư thiên và loài người mà thuyết dạy [5] giới và [10 nghiệp] lành; vì hàng Nhị thừa mà thuyết dạy [4] đế, [12 nhân] duyên; vì [người học theo] Tạng giáo mà thuyết dạy giới luật và nghiệp lành;[15] vì hàng Thông giáo thuyết pháp vô sanh; vì hàng Biệt giáo thuyết các pháp tuần tự khai mở Như Lai tạng. Đây gọi là nói lại việc nhận hiểu [các pháp] để trừ bỏ ba thừa.
Từ câu “tất cả pháp mà Như Lai thuyết giảng…” trở đi là dựa theo giáo nghĩa nêu lại việc hiển bày pháp thật. [Kinh văn nói “địa vị Nhất thiết trí”,] “địa vị” là thật tướng, rốt ráo chẳng phải hai nên gọi là “nhất”, tánh thể bao quát rộng khắp nên gọi là “thiết”, vắng lặng mà thường soi chiếu nên gọi là “trí”. Từ gốc vô trụ mà dựng lập hết thảy các pháp, cho nên nói là “địa”. Đây là thuyết chân thật của Viên giáo. Hết thảy các pháp [Như Lai] thuyết giảng đều giúp cho chúng sanh đạt đến địa vị Nhất thiết trí này. Kinh văn hiển bày pháp thật sáng tỏ như ban ngày, sao lại tối tăm mê sảng giải thích theo nghĩa khác? Cứ theo như trong Đại phẩm [Bát-nhã] nói rằng, trải khắp các pháp đều là pháp Ma-ha-diễn (Mahāyāna). Ma-ha-diễn nghĩa là Đại thừa, thừa ấy là thật tướng, thật tướng tức là địa vị Nhất thiết trí. Kinh văn phần trước đã nói: “Chỉ có một sự thật” là chỉ cho địa vị Nhất thiết trí này; “ngoài ra đều không thật” là chỉ cho 7 hạng phương tiện. Đây là dựa theo cả 2 giáo nghĩa đốn và tiệm mà nêu lại nghĩa trừ bỏ quyền thừa, hiển bày pháp thật.
Từ câu “Như Lai quán xét rõ biết chỗ hướng về của tất cả các pháp” trở đi là dựa theo trí tuệ để nêu lại nghĩa trừ bỏ quyền thừa, hiển bày pháp thật. “Quán xét tất cả chỗ hướng về” là có thể soi chiếu pháp quyền; “cứu xét sáng tỏ tất cả các pháp” là có thể soi chiếu pháp thật. Hai cảnh giới tương đối và tuyệt đối[16] được hai trí [quyền, thật] soi chiếu nên “thông suốt không gì ngăn ngại”, cho nên có thể thuyết dạy cả hai giáo pháp quyền và thật. Đây là nêu trí tuệ để giải thích giáo nghĩa. “Rõ biết chỗ hướng về” là biết thuốc, “[rõ biết] chỗ vận hành sâu thẳm trong tâm niệm” là biết bệnh. Cả bệnh và thuốc đều là pháp quyền, hết thảy pháp quyền đều có chỗ hướng về. Giữ giới, làm thiện thì hướng về chỗ gần là sinh trong hai cõi trời, người; nếu tạo thêm duyên lành ý nghĩa như cúi đầu đưa tay [cung kính Tam bảo] thì hướng về chỗ xa là [tương lai được] quả Phật. [Tu tập 4] niệm xứ, các đạo phẩm… thì hướng về chỗ gần là đạt được Niết-bàn [hữu dư], nếu có tạo thêm phúc đức trang nghiêm thì đó là công hạnh của đạo Bồ Tát, hướng về chỗ xa là cảnh giới giác ngộ. Cho đến các pháp ba-la-mật của Thông giáo, Biệt giáo v.v. thì chỗ hướng về [của mỗi pháp] gần hay xa đều khác biệt nhau, có thể hiểu rõ được.
Lại nữa, giữ giới làm thiện là thuốc của hàng trời, người; 4 đế, 12 duyên, 6 ba-la-mật là thuốc của người tu hành theo ba thừa. Cho đến [những người tu tập theo] Thông giáo, Biệt giáo v.v. cũng đều có thể [theo đó] hiểu rõ được.
“Chỗ vận hành sâu thẳm trong tâm niệm của chúng sanh” có 2 loại. Thứ nhất là sâu trong tâm bám víu nơi y báo và chánh báo. Thứ hai là sâu trong tâm bám víu nơi pháp bám chấp. Bám víu nơi y báo, chánh báo nên khởi lên mười nghiệp ác sâu nặng, làm chướng ngại trong nhân thừa và thiên thừa; bám víu nơi pháp bám chấp nên khởi lên bốn điên đảo, ba đạo,[17] sáu che chướng,[18] bốn trụ địa, năm trụ địa hoặc[19] v.v. che chướng các thánh thừa.
Nên biết rằng bệnh ở sâu trong tâm [chúng sanh] tướng trạng chẳng giống nhau, dùng trí quyền thừa soi chiếu nên “thông suốt không gì ngăn ngại”.
“Lại cũng cứu xét sáng rõ tận cùng các pháp” là dùng trí chân thật soi chiếu. Hết thảy các pháp quyền, không một pháp nào chẳng nhập vào pháp thật, cho nên nói là “cứu xét… tận cùng”. Chỗ biết của trí chân thật cho nên nói là “rõ”, chỗ thấy của mắt Phật cho nên nói là “sáng”.
Nếu như có trí này soi chiếu được loại thuốc này, loại bệnh này, không soi chiếu loại thuốc kia, loại bệnh kia; lại có trí kia soi chiếu những loại kia, không thể soi chiếu những loại này do chủng loại khác biệt chẳng giống nhau, thì đó là sự soi chiếu của trí quyền biến. Chỉ một trí soi chiếu được hết thảy thuốc, hết thảy bệnh, đó là sự soi chiếu của trí chân thật.
Có thể chỉ bày cho chúng sanh đạt được cảnh giới trí tuệ viên mãn như vậy, cho nên nói rằng “[chỉ bày cho chúng sanh] tất cả trí tuệ”.
Lại nữa, [kinh văn nói] “hết thảy các pháp” tức là nói 10 pháp giới. Trong 10 pháp giới ấy, mỗi một pháp giới có tướng trạng tham muốn chẳng giống nhau, việc nhận lãnh quả báo cho đến chỗ hướng về cũng đều khác nhau. “Rõ biết [chỗ hướng về của] tất cả các pháp” gọi là biết bệnh; “rõ biết chỗ vận hành sâu thẳm trong tâm niệm chúng sanh” gọi là biết thuốc. Thuốc lại có sâu, có cạn. Đại phẩm Bát-nhã nói rằng: Trí tuệ như thật rõ biết tâm tham dục, tâm sân hận, tâm si mê. Dùng trí như thật để rõ biết gọi là rõ biết chỗ sâu thẳm trong tâm [chúng sanh].
Theo đúng lẽ thật nên “thông suốt không gì ngăn ngại”. Đối với hết thảy các loại thuốc pháp như giới hạnh, việc lành, 4 đế, 12 duyên, 6 ba-la-mật v.v. đều dùng trí tuệ như thật để rõ biết, gọi là “thông suốt không gì ngăn ngại”.
Lại nữa, trong phần kinh văn nói về trí quyền biến thì “thông suốt không gì ngăn ngại” là dựa theo pháp quyền biến để luận biết trí chân thật; còn trong phần kinh văn nói về thật trí nói “lại cũng cứu xét… các pháp” thì “các pháp” ở đây là dựa theo pháp chân thật để luận biết trí quyền biến. Hai phần kinh văn tiếp nối nhau để hiển bày [ý nghĩa]. Điều này cho thấy rõ rằng, pháp chân thật chính là chân thật quyền biến, pháp quyền biến là quyền biến chân thật. Cho nên biết rằng, [xét đến chỗ] rốt ráo tận cùng thì chẳng có quyền, chẳng có thật; chẳng có sai biệt cũng chẳng phải không sai biệt. Vì dùng trí phương tiện nên quyền biến có sự sai biệt, rốt cùng đạt đến địa vị Nhất thiết trí thì không có sai biệt. Cũng giống như [đối với] mặt đất không hề có sai biệt, cây cỏ đều như nhau, chỗ giống nhau là không giống nhau, chỗ không giống nhau là giống nhau.[20] Lại cũng giống như dựa theo tâm mà luận hiểu pháp, dựa theo pháp mà luận hiểu tâm. Tâm vốn có các tâm sở, pháp thì không có; nhưng tâm không lìa pháp, pháp chẳng lìa tâm, vì thế cho nên không có mà có, có mà không có. Các pháp quyền, thật cũng là như thế. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
“Này Ca-diếp! Ví như trong cõi thế giới đại thiên, khắp những nơi núi sông khe suối, từ mặt đất mọc lên các loại cỏ cây, rừng rậm cùng những loài cỏ thuốc, bao nhiêu là chủng loại, tên gọi và màu sắc thảy đều khác nhau, nhưng khi mây đen dày phủ khắp thế giới rồi cùng lúc đổ mưa xuống đồng đều thì sự thấm nhuần cũng đều khắp mọi nơi. Cỏ cây, rừng rậm cùng các loài cỏ thuốc, có loại gốc nhỏ, thân nhỏ, cành lá nhỏ, hoặc gốc rễ trung bình, thân trung bình, cành lá trung bình, hoặc gốc rễ lớn, thân lớn, cành lá lớn, các loại cây lớn nhỏ đều tùy theo mức độ của mình mà hấp thụ nước mưa. Tuy cùng một đám mây, cùng một cơn mưa, nhưng mỗi loại cỏ cây đều tùy theo tính chất của riêng mình [mà có sự hấp thụ thích hợp] để sinh trưởng rồi đơm hoa kết trái. Cho dù từ một mặt đất sinh ra, cùng được một cơn mưa thấm nhuần, nhưng mỗi loại cỏ cây đều có sự khác biệt.
Từ câu “Này Ca-diếp! Ví như…” trở đi là đoạn thứ hai, nêu thí dụ. Đoạn này lại có 2 tiểu đoạn. Tiểu đoạn thứ nhất nêu thí dụ [và tương hợp thí dụ], tiểu đoạn thứ hai nêu lại tông chỉ và xưng tán [Như Lai].
[Tiểu đoạn thứ nhất] nêu thí dụ lại chia ra [2 phân đoạn], phân đoạn thứ nhất nêu thí dụ và phân đoạn thứ hai [nêu nghĩa] tương hợp thí dụ.
Phân đoạn nêu thí dụ lại có 2 ý. Ý thứ nhất nói thí dụ khác biệt, ví với phần trước nêu giáo nghĩa quyền biến và trí tuệ quyền biến. Ý thứ hai nói thí dụ không khác biệt, ví với phần trước nêu giáo nghĩa chân thật và trí tuệ chân thật.
[Kinh văn phần sau nêu] 3 hạng cỏ thuốc và 2 hạng cây,[21] lớn nhỏ thưa dày chẳng giống nhau, cho nên nói là khác biệt. Cùng một mặt đất nâng đỡ, cùng một cơn mưa tưới đều, cho nên nói là không khác biệt. Nếu nhìn theo [biểu hiện] ngọn ngành thì mỗi loại [cỏ cây] đều chẳng giống nhau, nhưng xét đến cùng chỗ cội nguồn tươi tốt thì không [loại nào không] nhờ nơi mặt đất, cơn mưa. [Thí dụ này] theo trong giáo nghĩa thì tương hợp với trí tuệ phương tiện soi chiếu có 7 [hạng phương tiện], 5 [thừa], mỗi mỗi đều khác biệt, [nhưng khi] trí tuệ chân thật soi chiếu đến thì rốt cùng chỉ có một thừa chân thật. Một thừa chân thật cũng là 7 hạng phương tiện với 5 thừa; 7 hạng phương tiện với 5 thừa chính là một thừa chân thật. [Cho nên] chỗ sai biệt cũng là không sai biệt; chỗ không sai biệt chính là sai biệt. Đại lược là như thế.
Trong ý nói thí dụ nêu sự khác biệt có 6 tiểu ý. Thứ nhất là nói mặt đất, thứ hai nêu cỏ cây, thứ ba nói đến mây đen dày bao phủ, thứ tư nói mưa xuống, thứ năm nói sự thấm ướt [khắp nơi] và thứ sáu nói việc [cỏ cây] tăng trưởng.
Trước hết [giải thích] thí dụ nói về mặt đất. Các nhà cựu giải cho là nói chung khắp thế giới đại thiên, trong đó nêu riêng núi, sông, khe, suối là ví cho tập nhân[22] của 5 thừa. Suối là nơi hứng nhận nhiều nước mưa, ví cho hàng Bồ Tát, khe ví cho hàng Bích-chi Phật, sông ví cho hàng Thanh văn, núi là vùng cao, được thấm nước ít hơn nên ví cho hàng trời, người. Nay cho rằng, nhân quả huân tập [của chúng sanh] có thể ví như mầm giống, thấm nhuần nước mưa rồi tăng trưởng, [nhưng ví dụ] mặt đất với núi sông khe suối thì tuy có nghĩa thấm nhuần, lại không có hai nghĩa “mầm giống” và “tăng trưởng”. Hơn nữa, kinh văn phần sau nêu ý nghĩa tương hợp với thí dụ lại có nói “khiến cho khắp các cõi trời, người, a-tu-la đều được nghe”, còn trong kệ tụng thì nói “ở giữa hàng trời, người, cùng hết thảy đại chúng”, [những ý nghĩa này] đều không dùng mặt đất với núi sông v.v. để ví cho nhân quả huân tập [của chúng sanh trong nhiều đời]. [Cho nên,] nay không vận dụng cách giải thích như vậy.
Nay giải thích rằng, thế giới đại thiên ví cho chúng sanh khắp thế gian; núi, sông, khe, suối, mặt đất ví cho 5 ấm của thế gian. Thế giới vốn chẳng có pháp nào khác ngoài núi, sông, khe, suối, mặt đất hợp thành. Chúng sanh vốn không có pháp nào khác ngoài 5 ấm hợp thành. Mặt đất bao trùm khắp, nên ví cho thức ấm; núi, sông, khe, suối ví cho 4 ấm còn lại. Cái nương dựa [vào mặt đất] là cỏ cây, tuy cỏ cây nương dựa vào mặt đất, nhưng mặt đất chẳng phải là cỏ cây. Thân, gốc của cỏ cây cũng chỉ gọi chung một tên là cỏ cây, [cho đến] mầm giống của cỏ cây cũng chẳng có tên nào khác, chỉ do công năng sanh trưởng nên gọi là mầm giống. Những thân, gốc sanh ra được gọi là cỏ cây, thảy đều bám rễ vào trong đất, cho nên đất ấy là cội nguồn căn bản.
[Thí dụ này] so trong giáo nghĩa thì tương hợp với tập nhân và tập quả,[23] tuy đều dựa vào 5 ấm [để sinh khởi], nhưng 5 ấm không phải là nhân quả. Dù vậy, nhất thiết phải dựa vào 5 ấm mới có tập nhân, khi tăng trưởng thành tựu trọn vẹn gọi là tập quả. Quả và nhân đều dựa vào các ấm mà sinh khởi, nên thí dụ núi sông, mặt đất là thích hợp. Cỏ cây mầm giống đều thấm nhuần nước mưa nên thí dụ tăng trưởng là thích hợp.
[Các thí dụ này] lại cũng làm rõ phần thí dụ cụ thể [ở trước]. Núi tuy cao ngất nhưng cũng có đủ 5 tướng trạng [khác biệt] như cao, thấp v.v. Thậm chí mặt đất nơi đồng bằng cũng có 5 tướng trạng [khác biệt] như gò, ao v.v. Đó là ví cho 5 ấm của 5 thừa. “Núi cao” ví cho 5 ấm của hàng Bồ Tát, “sông” ví cho [5 ấm của] hàng Bích-chi Phật, “khe” ví cho [5 ấm của] hàng Thanh văn, “mặt đất” ví cho [5 ấm của] chư thiên cõi trời, “suối” [chảy xuống] thấp ví cho [5 ấm của] con người. Mỗi một trong số 5 ấm [của 5 thừa ấy] đều là chỗ nương dựa của tập nhân, tập quả, cũng giống như núi sông khe suối, mặt đất đều là chỗ nương dựa [để sinh trưởng] của mầm giống, thân gốc v.v. [các loại cỏ cây].
Lại cũng dùng thế giới đại thiên để ví cho lý chánh nhân, là chỗ nương dựa chung của hết thảy [các pháp]; núi, sông, khe, suối, mặt đất ví cho các ấm, nhập, giới, quả báo, sắc tâm của chúng sanh; cỏ cây, rừng rậm ví cho tập nhân của chúng sanh. Ba pháp này chẳng hề lìa nhau; tập nhân phải nương dựa vào ấm, nhập, giới; ấm, nhập, giới không ra ngoài tánh pháp [tức lý chánh nhân]. Cũng giống như cỏ cây nương dựa vào núi, sông v.v., núi sông nương dựa vào thế giới. Đại lược là như vậy.
Kinh văn [nêu thí dụ] có 6 tiểu ý rõ ràng,[24] vì sao tạo ra nghĩa [khác]? Lại đã nêu thứ lớp cụ thể như vừa kể trên, vì sao lại [phân chia] đứt đoạn, làm lẫn lộn kinh văn, ghi chép trước sau [rối loạn]?
Từ câu “mọc lên các loại cỏ cây, rừng rậm…” trở đi là tiểu ý thứ hai [trong thí dụ này], nói về cỏ cây sinh ra [từ mặt đất]. [Kinh văn dùng chữ] hủy (卉) là tên gọi chung các loại cỏ, chữ mộc (木) là chỉ chung các loại cây; nhiều cỏ mọc chung thành bụi rậm, nhiều cây mọc chung thành rừng. Những loại có công dụng trị bệnh vượt trội gọi là thuốc, cũng như tất cả các pháp lành đều có thể trị các việc xấu ác, nhưng [trong số đó] các pháp lành vô lậu còn trị cả mê hoặc là nghĩa vượt trội hơn.
Trong số cỏ cây, những cây rừng cành lá che mát rộng rãi, lợi ích lớn lao, nên ví cho 2 hạng Bồ Tát.[25] “Bao nhiêu là chủng loại” là [ví cho] các chủng tử, nhân quả của 5 thừa và 7 hạng phương tiện;[26] [vì không xác định được số lượng] cho nên nói là “bao nhiêu”. [“Tên gọi và màu sắc thảy đều khác nhau”], mỗi một chủng loại đều có giai vị tương xứng, tức là “tên gọi”, mỗi loại đều có hình thể tướng trạng [khác biệt], tức là “màu sắc”.
Từ câu “khi mây đen dày phủ khắp” trở đi là tiểu ý thứ ba, nêu thí dụ vầng mây che phủ. Ở đây nói hình sắc của mây che phủ bóng mát, kinh văn phần sau còn nói thêm “sấm nổ chấn động xa”. Che phủ bóng mát là ví cho lòng từ bi của đức Phật, cho nên hình sắc [của mây] là ví cho Phật ra đời, sấm nổ ví cho lời dạy của Phật. “Mây đen dày” là ví cho ba sự ẩn mật[27] [của Phật]. Lòng từ bi [như mây che mát] là sự ẩn mật của ý Phật; hình sắc [mây đen dày] là sự ẩn mật của thân Phật; tiếng sấm nổ là sự ẩn mật của lời Phật. “Che phủ khắp” là cùng khắp mọi nơi. Mây đen dày lại che khắp nơi nên nói là “che phủ khắp”, [ví như Phật] dùng lòng từ bi huân tập nơi ứng hóa thân, thuyết pháp khắp trong 10 pháp giới nên nói là “phủ khắp”.
Sách Kinh luật dị tướng[28] nói: Mây có 5 màu, [biểu hiện của 4 đại]. Mây xanh là phong đại nhiều; mây đỏ là hỏa đại nhiều, hai màu mây vàng, trắng là địa đại nhiều, mây đen là thủy đại nhiều. Có 4 vị thần sét, phương đông là Thân vị, phương nam là Bách chủ, phương tây là A-kiệt-la, phương bắc là A-chú-lam. Do bốn vị thần sét này đánh nhau nên có sấm. Lại [cũng nói rằng,] do 4 đại là thủy, hỏa, phong, địa tranh nhau nên có sấm.
Có 5 việc khiến cho không có mưa [ở một vùng]. Thứ nhất là do gió thổi [mây đi khỏi]; thứ hai là do lửa cháy lớn [tan mây]; thứ ba là do a-tu-la dùng tay [lùa mây] vào biển; thứ tư là thần mưa [nơi đó] dâm loạn [không lo việc làm mưa]; thứ năm là quốc vương [nơi đó] trị nước không yên ổn, khiến thần mưa nổi giận nên không mưa. Đại lược là như thế.
Từ câu “cùng lúc đổ mưa xuống” trở đi là tiểu ý thứ tư, nêu thí dụ mưa xuống, ví cho việc [đức Phật] dùng sự ẩn mật của lời dạy qua 8 âm thanh[29] và 4 biện tài [vô ngại][30] để tuyên thuyết, tưới xuống mưa pháp, làm lợi lạc thấm nhuần tất cả chúng sanh.
Từ câu “sự thấm nhuần cũng đều khắp mọi nơi” trở đi là tiểu ý thứ năm, nêu thí dụ về sự thấm ướt. Cơn mưa pháp bảo tưới xuống đều khắp cho 7 hạng chúng sanh,[31] [khiến cho] những chủng tử nhân duyên huân tập trong tâm họ đều khởi sanh trí tuệ của sự nghe pháp, gọi là thấm nhuần. Cành, lá, rễ, thân, đó là niềm tin ví như gốc rễ, giới luật ví như thân cây, định lực là cành, trí tuệ là lá, tuần tự giúp sức cho nhau [cùng phát triển], cho nên dùng 4 pháp này để nêu thí dụ. “Gốc nhỏ, thân nhỏ” là ví cho niềm tin và giới hạnh của hai cõi trời, người. “Gốc trung bình, thân trung bình” là ví cho niềm tin và giới hạnh của hàng Nhị thừa. “Gốc lớn, thân lớn” là ví cho niềm tin và giới hạnh của hàng Bồ Tát.
Từ câu “các loại cây lớn nhỏ” trở đi là tiểu ý thứ sáu, nêu thí dụ về sự tăng trưởng, nhưng lược bớt chỉ nói “các loại cỏ cây tùy theo mức độ… mà hấp thụ nước mưa”.
Tập nhân và báo nhân của các pháp lành đã được thấm nhuần mưa pháp nên tập quả và báo quả đều được tăng trưởng.
Nói “tùy theo tính chất” là nêu rõ ý nghĩa [đức Phật] vận dụng pháp quyền tùy theo căn cơ [thích hợp], đối với [căn cơ] nhỏ không vượt quá sức, với căn cơ lớn không giảm ít hơn, tức là nói [tùy theo] tập nhân và báo nhân của 7 hạng chúng sanh.
“Đơm hoa kết trái” là nói tập quả và báo quả. Lại nữa, phần nói về sự tăng trưởng có 3 nghĩa. “Tùy theo tính chất” là nói nguyên do của sự tăng trưởng, [tức là nhờ đức Phật] thiết lập sự giáo hóa xứng hợp với căn cơ. “Hấp thụ thích hợp để sinh trưởng” là giải thích rõ về sự tăng trưởng. “Đơm hoa kết trái” tức là tướng trạng của sự tăng trưởng.
Từ câu “Cho dù từ một mặt đất sanh ra…” trở đi là ý thứ hai,[32] nói nghĩa cùng một mặt đất, cùng một cơn mưa để nêu thí dụ không khác biệt, tức là hiển bày chỉ một Phật thừa chân thật. Ý này lại có 3 tiểu ý.
Thứ nhất, nói từ một mặt đất sanh ra, tức là nói từ nơi tâm địa ở các giai vị đạo tiền[33] sanh ra, rốt cùng thảy đều do nhân đạo hậu[34] mà đạt địa vị [Nhất thiết trí].
Thứ hai, nói từ một vầng mây mưa xuống, tức là nói từ một âm thanh [của Phật] tuyên thuyết pháp môn Nhất thừa, khai mở khởi phát 5 loại căn lành trong đạo [của 5 thừa],[35] rốt cùng là một âm thanh giáo pháp bình đẳng.
Thứ ba, nói 3 hạng cỏ thuốc và 2 hạng cây được sự lợi ích [khi mưa xuống nhưng] không thể tự rõ biết, đó là nói 5 loại căn lành [của 5 thừa] đều nhờ Phật tưới mưa pháp nên tùy phần tăng trưởng, nhưng không tự rõ biết được nhân của 5 loại căn lành đều nương dựa nơi cùng một tánh Phật, lại cũng không tự rõ biết giáo pháp 5 thừa cũng đều là Đại thừa, lại cũng không tự rõ biết [cả 5 thừa] đều cùng hướng về trí tuệ Phật, duy chỉ có đức Như Lai mới có thể biết [những điều đó].
KINH VĂN
“Này Ca-diếp! Ông nên biết rằng, đức Như Lai cũng giống như vậy, xuất hiện giữa cõi đời như đám mây lớn nổi lên. Ngài ở giữa đại chúng dùng âm thanh lớn khiến cho khắp các cõi trời, người, a-tu-la đều được nghe, như đám mây lớn kia che phủ khắp cõi thế giới đại thiên, mà tuyên cáo rằng: ‘Ta là bậc Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, đối với những ai chưa được hóa độ nay ta sẽ khiến cho được hóa độ, những ai chưa an ổn sẽ khiến cho được an ổn, những ai chưa đạt Niết-bàn sẽ khiến cho đạt được Niết-bàn. Rõ biết đúng thật hết thảy mọi việc trong đời này và đời sau, Ta là Bậc thấu rõ tất cả, Bậc thấy biết tất cả, Bậc rõ biết đạo, Bậc khai mở đạo, Bậc thuyết dạy đạo. Hết thảy chúng sanh trong các cõi trời, người, a-tu-la… đều nên đến đây để nghe ta thuyết giảng chánh pháp.’
Từ câu “Này Ca-diếp! Ông nên biết rằng, đức Như Lai cũng giống như vậy” trở đi là phân đoạn thứ hai, nói nghĩa tương hợp với các thí dụ, [có 2 ý. Ý thứ nhất tương hợp với các thí dụ khác biệt, ý thứ hai tương hợp các thí dụ không khác biệt].
Ý thứ nhất tương hợp với các thí dụ khác biệt có 2 tiểu ý, trước là nêu nghĩa tương hợp, sau là nêu các thí dụ và chỉ ra chỗ tương hợp.
Phần nói thí dụ khác biệt [ở trước] có 6 tiểu ý, phần này cũng có 6 điều tương ứng, nhưng không theo đúng thứ tự. Phần [trước] nêu thí dụ để làm rõ căn cơ nên trước tiên luận về chúng sanh, phần tương hợp thí dụ này để làm rõ sự ứng hóa nên trước tiên nêu tương hợp với Như Lai, vì đức Như Lai là bậc hóa chủ.[36]
Trong tiểu ý này, điều thứ nhất tương hợp với phần trước ở tiểu ý thứ ba nói thí dụ mây đen dày, lại cũng đồng thời tương hợp với tiểu ý thứ nhất ở trước nói thí dụ mặt đất khắp thế giới. Điều thứ hai trong phần này tương hợp với phần trước ở tiểu ý thứ tư nói thí dụ mưa xuống. Điều thứ ba trong phần này tương hợp với tiểu ý thứ nhất ở phần trước nói thí dụ núi, sông, khe, suối, mặt đất thế giới. Điều thứ tư trong phần này tương hợp với tiểu ý thứ hai ở phần trước nói thí dụ cỏ cây. Điều thứ năm trong phần này tương hợp với tiểu ý thứ năm ở phần trước nói thí dụ thấm nhuần [nước mưa]. Điều thứ sáu trong phần này tương hợp với tiểu ý thứ sáu ở phần trước nói thí dụ [cỏ cây] tăng trưởng.
Về thứ tự tương hợp [trong phần này] với các thí dụ [ở phần trước] là để nêu rõ [trình tự] đức Như Lai ứng hóa ra đời liền có 8 âm thanh thuyết pháp, có thuyết pháp liền có chúng sanh thọ nhận sự giáo hóa; chúng sanh nghe pháp, tất cả đều được thấm nhuần Phật đạo; sự thấm nhuần đó là tương đồng nhưng sự tăng trưởng không phải là không khác biệt. Đại lược là như vậy.
[Bây giờ giải thích] điều thứ nhất, tương hợp với thí dụ mây đen dày. Trước tiên nêu thân ẩn mật của Phật tương hợp với mây [đen dày] là có hình thể. Sau đó nêu lời ẩn mật của Phật tương hợp với mây [đen dày] có âm thanh [là tiếng sấm].
“Đức Như Lai cũng giống như vậy, xuất hiện giữa cõi đời” tức là tương hợp với ứng hóa thân [Phật] xuất thế.
“Như đám mây lớn nổi lên” là nêu chỗ tương hợp với thí dụ, làm rõ ý nghĩa đức Như Lai với tâm đại từ hiện thân che chở dạy dỗ hết thảy [chúng sanh].
“Dùng âm thanh lớn” tức là nêu lời ẩn mật của Phật, tương hợp với vầng mây có âm thanh [sấm nổ].
“Trời, người, a-tu-la” là chỉ riêng nói 3 cõi lành,[37] tức là những cõi được nhận sự lợi ích từ lời dạy ẩn mật của Phật.[38] Đây tức là nói căn tánh của ba thừa, [tương hợp với thí dụ] 30 người con [trong phẩm Thí dụ] được lợi ích từ việc nghe lời dạy.
“Như đám mây lớn kia” tức là nêu chỗ tương hợp với thí dụ đám mây có âm thanh [sấm nổ]. “Che phủ khắp cõi thế giới đại thiên” là nêu chung hết thảy [chúng sanh] đều là con Phật, đều nhận được lợi ích từ lời dạy ẩn mật của Phật. Hoặc cũng có khi [cho rằng phần này] chỉ tương hợp với 5 tiểu ý trong thí dụ ở trước, thì từ câu “khắp các cõi trời, người…” trở đi là tương hợp cả với nghĩa “mặt đất khắp thế giới”. Thế giới ở đây tức là cõi nước thế gian; trời, người, a-tu-la là giả danh của 5 ấm thế gian. Giả danh là tương hợp với thí dụ thế giới ở trước, 5 ấm là tương hợp với núi, sông, khe, suối trong thí dụ ở trước.
Từ câu “ở giữa đại chúng… mà tuyên cáo rằng” trở đi là điều thứ hai, tương hợp với điều thứ tư ở trước nói về thí dụ mưa xuống. [Đoạn này] trước tiên nêu rõ nghĩa chính, sau đó khuyên [chúng sanh] lắng nghe và thọ trì. Nêu nghĩa chính có 6 nghĩa. Thứ nhất là nêu 10 danh hiệu của Phật, tức là các danh hiệu Như Lai, Ứng Cúng v.v. Thứ hai là nêu 4 nguyện lớn,[39] tức là nói “đối với những ai chưa được hóa độ [nay ta] sẽ khiến cho được hóa độ” v.v. Thứ ba là nêu 3 trí sáng suốt,[40] tức là nói “rõ biết đúng thật hết thảy mọi việc trong đời này và đời sau” v.v. Thứ tư là nêu 1 tâm Phật có đủ 3 trí,[41] tức là nói sự hiểu biết đầy đủ. Thứ năm là nêu 5 loại mắt, tức là nói “thấy biết tất cả”. Thứ sáu là nêu 3 nghiệp cùng vận hành theo trí tuệ. “Rõ biết đạo” là ý không cần phòng hộ; “khai mở đạo” là thân không cần phòng hộ; “thuyết dạy đạo” là lời nói không cần phòng hộ,[42] cũng xưng là bậc đạo sư, tức là [nói các nghĩa] “rõ biết đạo” v.v.
Từ câu “hết thảy chúng sanh trong các cõi trời, người…” trở đi là khuyến khích chúng sanh lắng nghe, tiếp nhận. Phật dùng 8 âm thanh thuyết giảng rõ ràng 6 loại pháp môn [như trên].[43] Dựa vào số đông mà nói nên chỉ nêu lời khuyên [chúng sanh trong] 3 cõi lành nên đến nghe pháp.
KINH VĂN
“Lúc bấy giờ, có vô số ngàn muôn ức loại chúng sanh đều đến chỗ Phật để nghe chánh pháp. Đức Như Lai vào lúc ấy quán xét mọi chúng sanh, biết rõ căn tánh nhanh nhạy hoặc trì độn, tinh tấn hoặc lười nhác, rồi tùy theo khả năng tiếp nhận của mỗi loài mà vì họ thuyết pháp, dùng vô số phương cách khiến cho tất cả đều được mừng vui hoan hỷ, nhanh chóng đạt được sự tốt lành lợi ích. Những chúng sanh được nghe pháp rồi thì đời sống hiện tại an ổn, đời sau sinh về cảnh giới tốt lành, lấy việc tu đạo làm niềm vui, rồi lại cũng được nghe pháp. Sau khi nghe pháp lìa xa mọi chướng ngại, ở nơi các pháp tùy theo khả năng của mình mà [tu tập] dần dần thể nhập đạo giác ngộ.
Câu “Lúc bấy giờ, có vô số ngàn muôn ức loại chúng sanh đều đến chỗ Phật để nghe chánh pháp” là điều thứ ba trong đoạn này, tương hợp với tiểu ý thứ nhất ở phần trước nói thí dụ núi sông… Do nơi hết thảy quả báo mà có chúng sanh, cũng như dựa vào núi, sông… mà có thế giới... “Ngàn muôn ức…” tức là nói chúng sanh trong 10 pháp giới, nay hiểu đúng là chúng sanh trong 7 hạng phương tiện khác biệt nhau, phù hợp với phần trước đã nói.
Hoặc giải thích rằng, từ “hết thảy chúng sanh trong các cõi trời, người…” trở đi đều là tương hợp với thí dụ núi, sông... ở phần trước.
Từ câu “Đức Như Lai vào lúc ấy…” cho đến “tinh tấn hoặc lười nhác” là điều thứ tư, tương hợp với tiểu ý thứ hai ở trước nói thí dụ cỏ cây. Các nhà cựu giải cho rằng, câu kinh văn này thừa ra, không tương hợp với phần trước. Nay giải thích rõ, trong thí dụ ở phần trước có cỏ cây khác biệt, lớn nhỏ chẳng đồng, còn ở đây nêu rõ [chúng sanh] căn tánh có nhanh nhạy hay trì độn, tu hành có tinh tấn hoặc lười nhác, chính là nói tập nhân có sâu, có cạn, ví với cỏ cây [có khác biệt] là tương đồng ý nghĩa, lẽ nào không phải tương hợp với thí dụ mà lại cho là thừa?
“Vào lúc ấy”, nếu luận theo chỗ ban đầu của tiệm giáo[44] thì là nói ban sơ thuyết giáo pháp ba thừa tại Lộc uyển; nếu luận về quãng thời gian sau đó và trước khi Phật nói Đại thừa thì [Phật thuyết pháp ở đâu cũng] được gọi là “vào lúc ấy”.
“Nhanh nhạy hoặc trì độn”, nếu nói chung thì [chúng sanh trong] ba đường ác do tạo nhân xấu ác, nhận quả khổ đau, không thể được tiếp nhận đạo pháp nên gọi là “trì độn”; [chúng sanh trong] 7 hạng phương tiện được nghe giáo pháp liền nhận được lợi ích nên gọi là “nhanh nhạy”; nếu nói riêng về hai cõi trời, người thì [những chúng sanh] chỉ thọ nhận quả báo, không có khả năng thọ nhận đạo pháp gọi là “trì độn”, căn tánh của ba thừa có thể đoạn trừ mê hoặc, ra khỏi ba cõi gọi là “nhanh nhạy”. Lại nữa, hàng Thanh văn quán sanh diệt gọi là trì độn, hàng Bồ Tát quán không sanh không diệt gọi là “nhanh nhạy”. [Đối với các giáo pháp] Thông giáo, Biệt giáo, Viên giáo [cũng đều như vậy]. Đại lược là như vậy.
“Tinh tấn hoặc lười nhác”, chúng sanh trong 3 đường ác buông thả phóng túng gọi là “lười nhác”, chúng sanh hai cõi trời, người giữ theo 5 giới, thực hành 10 nghiệp lành gọi là “tinh tấn”; chúng sanh 2 cõi trời, người, trời không chán sợ khổ não gọi là “lười nhác”, hàng Nhị thừa kinh sợ vô thường gọi là “tinh tấn”. Hàng Nhị thừa tham muốn chứng đắc, chẳng cầu làm Phật gọi là “lười nhác”, Bồ Tát quyết chí cầu Phật đạo gọi là “tinh tấn”. Đại lược là như vậy.
Từ câu “tùy theo khả năng tiếp nhận của mỗi loài…” cho đến “… nhanh chóng đạt được những điều tốt lành lợi ích” là điều thứ năm, tương hợp với tiểu ý thứ năm ở trước nói thí dụ thấm nhuần [nước mưa].
“Tùy theo khả năng tiếp nhận” tức là thích nghi, xứng hợp với căn cơ, không có lỗi tăng thêm hay giảm bớt.
“Mừng vui hoan hỷ nhanh chóng đạt được sự tốt lành lợi ích” là nói tất cả chúng sanh đều được nhờ ơn mưa pháp thấm nhuần, thọ nhận sự lợi ích.
“Những chúng sanh được nghe chánh pháp rồi…” là điều thứ sáu, tương hợp với tiểu ý thứ sáu ở phần trước nói thí dụ về sự tăng trưởng. “Đời sống hiện tại an ổn, đời sau sanh về cảnh giới tốt lành” là nói báo nhân chiêu cảm báo quả, tương hợp [thí dụ] cỏ cây tăng trưởng “đơm hoa” ở phần trước. Từ câu “lại cũng được nghe pháp” cho đến “thể nhập đạo giác ngộ” là nói tập nhân dẫn đến tập quả, tương hợp với phần trước nói cỏ cây tăng trưởng “kết quả”. “Sau khi nghe pháp” là tương hợp với nguyên do tăng trưởng ở phần trước. “Đời sống hiện tại an ổn” là tương hợp ý chính tăng trưởng. “Đời sau sanh về cảnh giới tốt lành” là tương hợp với tướng trạng của sự tăng trưởng.
Đức Phật như vầng mây lớn, che mát khắp thảy chúng sanh, cho đến [chúng sanh trong] 3 đường ác cũng được thấm nhuần tăng trưởng, như [khi Phật] thuyết giảng kinh điển Bát-nhã, Phương đẳng đều nêu rõ [chúng sanh trong] địa ngục được lợi ích. Lại nữa, trong các kinh điển cũng nói về việc các loài rồng, chim, quỷ, thần v.v. nghe pháp được đạo.
Nếu như [trong chốn địa ngục mà] lửa tắt, nước sôi hóa lạnh… tức là “đời sống hiện tại được an ổn”; hoặc như [chúng sanh trong 3 đường ác] được sanh lên cõi trời hay cõi người, tức là “đời sau sanh về cảnh giới tốt lành”. Lại ở trong 2 cõi trời, người mà tu tập đạo pháp, tức là “lấy việc tu đạo làm niềm vui”.
Nếu hàng trời, người nghe pháp rồi giữ giới, có phước đức hộ thân thì các loài quỷ, rồng chẳng xâm phạm đến, tức là “đời sống hiện tại được an ổn”; hoặc từ cõi trời [chết đi rồi] sanh lại cõi trời, từ cõi người [chết đi rồi] sanh lại cõi người, hoặc tái sanh qua lại trong hai cõi trời người, tức là “đời sau sanh về cảnh giới tốt lành”.
Sanh ra rồi có thể học hiểu đạo, tức là “lấy việc tu đạo làm niềm vui”. Hàng Nhị thừa nghe pháp đạt được Niết-bàn hữu dư, tức là “đời sống hiện tại được an ổn”.
Kinh văn phần sau[45] lại nói rằng: “Những người ấy do nơi công đức đã đạt được mà tự sanh khởi ý tưởng cho rằng mình đã được diệt độ... Khi ấy, ta làm Phật ở cõi nước ngoài ba cõi,[46] lại có danh hiệu khác. Những người ấy... ...ở nơi cõi nước ngoài ba cõi ấy ...được nghe kinh này...” Đây là nói cõi phương tiện hữu dư là “cảnh giới tốt lành”. “Ở nơi cõi nước ngoài ba cõi... ...được nghe kinh này” tức là đạt đạo được vui.
Nếu như Bồ Tát còn mang nhục thân,[47] nghe Phật Lô-xá-na thuyết pháp rồi được pháp nhẫn vô sanh, tức là “đời sống hiện tại được an ổn”, sau đó sanh về thế giới Tịnh Mãn làm quyến thuộc pháp thân, tức là ở “cảnh giới tốt lành, lấy việc tu đạo làm niềm vui”.
“Lìa xa mọi chướng ngại” tức là “đời sống hiện tại được an ổn”. “Tùy theo khả năng… dần dần thể nhập đạo giác ngộ” tức là đời sau “lấy việc tu đạo làm niềm vui”.
Nói về 5 thừa, [nhân thừa] là thừa của 5 giới, nhờ đó ra thoát khỏi khổ não trong 3 đường ác; [thiên thừa] là thừa của 10 nghiệp lành, nhờ đó thoát khỏi 8 nỗi khổ của cõi người; Thanh văn thừa thoát khỏi nỗi khổ vô thường trong 3 cõi; Duyên giác thừa thoát khỏi nỗi khổ phải nghe pháp từ người khác;[48] Bồ Tát thừa thoát khỏi nỗi khổ trong tâm thiếu trí sáng, bên ngoài không có hình tướng tốt đẹp.[49] Đó là nói về 5 thừa.
Hỏi: [Đâu cần phải có đến 5 thừa.] Lẽ ra chỉ cần [phân chia] 2 cõi trời, người là thế gian thừa, tất cả các thừa còn lại là xuất thế gian thừa.
[Đáp:] Hoặc cũng có thể gọi Phật là thật thừa, các thừa khác đều là quyền thừa.
Hoặc có thể xem Phật là quả thừa, các thừa khác là nhân thừa.
Hoặc cũng có thể chia 3 thừa: hai cõi trời, người là hạ thừa, hàng Nhị thừa là trung thừa và Phật là thượng thừa.
Hoặc có thể gọi hai cõi trời, người là thừa không dứt phiền não, hàng Nhị thừa là thừa đã dứt phiền não, Phật là thừa chẳng phải dứt, chẳng phải không dứt.
Hoặc có thể gọi hai cõi trời, người là thừa không dứt [phiền não], Phật là thừa đã dứt [phiền não], hàng Nhị thừa là thừa cũng dứt cũng không dứt [phiền não].
Hoặc cũng có thể phân chia thành các thừa như phàm phu, hiền thánh, chẳng phải phàm chẳng phải thánh, hoặc là có không, chẳng phải có chẳng phải không... Đại lược là như thế.
[Hỏi:] Luận Đại Trí độ nêu rõ 5 cảnh giới lành, kinh Thắng Man nói 4 kho báu, so với [Pháp hoa nói] 3 hạng cỏ thuốc và 2 hạng cây thì [khác nhau] thế nào?
Đáp: [Luận Đại Trí độ nêu] 5 cảnh giới lành thì cõi trời, cõi người là 2, hàng Nhị thừa là 1, chư Phật, Bồ Tát là [2, cộng với 3 thành] 5;[50] đây là phân chia Đại thừa mà kết hợp Tiểu thừa.[51] [Phân chia theo] 5 thừa là chia Tiểu thừa mà hợp Đại thừa.[52] [Kinh Thắng Man nói] 4 kho báu là hợp phàm, chia thánh,[53] còn 5 thừa thì phàm và thánh đều phân chia.[54] Tùy theo nhân duyên nên chẳng đồng như nhau.
KINH VĂN
“Cũng như đám mây lớn kia đổ mưa xuống tưới mát hết thảy các loại cỏ cây, rừng rậm cùng những loài cỏ thuốc, mỗi loại tùy theo tính chất của mình mà đều được thấm ướt đầy đủ, đều sinh trưởng tốt tươi.
Từ câu “Cũng như đám mây lớn kia…” trở đi là tiểu ý thứ hai, chỉ ra chỗ tương hợp với các thí dụ [vừa nói]. “Đám mây lớn” là ứng hợp với tiểu ý thứ nhất, nói hình sắc và âm thanh [Phật ứng hóa] đều mang lại lợi ích [cho chúng sanh]. “Mưa xuống tưới mát hết thảy” là ứng hợp với tiểu ý thứ hai, nói rõ 6 nghĩa xưng tán Phật.[55] “Các loại cỏ cây, rừng rậm” là ứng hợp với tiểu ý thứ tư,[56] nói chúng sanh được giáo hóa [có căn cơ] nhanh nhạy hoặc trì độn, tinh tấn hoặc lười nhác, có nhân huân tập sâu hoặc cạn. “Tùy theo tính chất của mình mà đều được thấm ướt đầy đủ” là ứng hợp tiểu ý thứ năm, nói [chúng sanh] được thọ nhận thấm nhuần lợi lạc từ giáo pháp. “Đều sanh trưởng tốt tươi” là ứng hợp tiểu ý thứ sáu, nói đời sống hiện tại được an ổn, tăng trưởng.
KINH VĂN
Đức Như Lai thuyết pháp đồng một tướng trạng, đồng một pháp vị, đó là tướng trạng giải thoát, tướng trạng xa lìa, tướng trạng dứt trừ, cho đến rốt ráo đạt Nhất thiết chủng trí.
Từ câu “Đức Như Lai thuyết pháp đồng một tướng trạng…” trở đi là ý thứ hai, tương hợp với phần thí dụ không khác biệt [ở trước]. Phần trước nêu 3 điều, [thứ nhất là một mặt đất, thứ hai là một cơn mưa và thứ ba là 3 loại cỏ thuốc với 2 hạng cây], ở đây cũng tương hợp 3 điều nhưng không theo đúng thứ tự.
Từ chỗ “một tướng trạng, một pháp vị” trở đi là tương hợp cả 2 điều trước nói “một mặt đất” và “một cơn mưa”. Từ chỗ “đó là tướng trạng …” trở đi giải thích cả 2 điều nói về “một mặt đất” và “một cơn mưa”. Từ câu “Như có chúng sanh nào…” trở đi là tương hợp với phần trước nói “mỗi loại cây cỏ đều có sự khác biệt”. Từ câu “vì sao vậy” trở đi là giải thích việc đức Như Lai đối với sự khác biệt có thể rõ biết là khác biệt hay không khác biệt.
“Một tướng trạng” là nói tâm của tất cả chúng sanh đều đồng một tướng chân như, đó là nghĩa “một mặt đất”.
“Một pháp vị” là nói pháp Nhất thừa chỉ giảng giải đồng một lẽ thật, đó là nghĩa “một cơn mưa”. Xưa vốn chỉ là một tướng chân thật, phương tiện [giáo hóa chúng sanh] nên bày ra thành 7 hạng phương tiện,[57] đối với giáo pháp Nhất thừa phân biệt thuyết giảng thành 7 giáo pháp.[58] Đó là Phật rõ biết rốt ráo đều quy về một tướng trạng, một pháp vị.
Từ chỗ “đó là tướng trạng…” trở đi là giải thích cả 2 nghĩa, “một tướng trạng” và “một pháp vị”. “Tâm tánh… của chúng sanh” tức là nói tánh đức. Đối với 3 tướng trạng là giải thoát, xa lìa và tịch diệt, đức Như Lai dùng một âm thanh thuyết giảng 3 pháp này, tức là 3 pháp vị. Dùng 3 tướng trạng này làm cảnh giới tu hành các lẽ duyên sanh, trung đạo, cho đến cuối cùng sẽ đạt được quả Nhất thiết [chủng] trí. Cho nên nói rằng, rốt ráo đạt đến Nhất thiết chủng trí.
Phần tương hợp với thí dụ “cỏ cây đều khác biệt” như giải thích sau, không cần ghi chép trùng lặp.
Cũng có khi phần này được giải thích thành 3 ý tương hợp. Thứ nhất là ý không khác biệt, tương hợp với phần trước [nói thí dụ] “một mặt đất” và “một cơn mưa”; thứ hai là ý khác biệt, tương hợp với phần trước [nói thí dụ] “cỏ cây đều khác biệt”; thứ ba là ý “đức Như Lai có thể rõ biết”, được giải thích thành 2 ý nhỏ: [thứ nhất là không khác biệt và thứ hai là khác biệt].
“Không khác biệt” là nghĩa “một tướng trạng”, “một pháp vị”. “Một tướng trạng” tương hợp với bên trên nói thí dụ “một mặt đất”. Tướng giải thoát là tướng không còn sanh tử. Tướng xa lìa là tướng không có Niết-bàn. Tướng tịch diệt là vô tướng cũng không có tướng, chỉ duy nhất một tướng chân thật cho nên gọi là một tướng. Một tướng ấy là gốc vô trụ, từ đó dựng lập tất cả các pháp. Vô trụ, vô tướng là không có khác biệt; dựng lập tất cả các pháp liền có khác biệt.
Khác biệt là như cỏ cây, không khác biệt là như một mặt đất. Mặt đất ấy tuy không khác biệt mà có thể sanh ra các loại cây đào, cây mai… cỏ cây khác biệt không giống nhau. Lại như cây đào, cây mận… cỏ cây tuy khác biệt nhau nhưng vẫn cùng một tướng trạng cứng chắc.
Nếu biết từ trong đất sẵn có đủ cây đào, cây mận… tức là biết được trong thật có quyền, hiểu được nghĩa không khác biệt tức là khác biệt.
Nếu biết được tướng cứng chắc của cây đào, cây mận… tức là biết được trong quyền có thật, hiểu được nghĩa khác biệt tức là không khác biệt.
Do những ý nghĩa này nên dùng “một tướng trạng” để tương hợp với phần trước nói thí dụ “một mặt đất”.
“Một pháp vị” tức là giáo pháp chân thật, thuần nhất không xen tạp, dựa theo cách giải thích về “một tướng trạng” thì có thể hiểu được.
“Giải thoát” nghĩa là không bị nghiệp lực trói buộc ở cả 2 bờ, sanh tử phần đoạn và sanh tử biến dịch, cho nên gọi là tướng trạng giải thoát.
“Tướng xa lìa” là đạt được trí tuệ trung đạo. Trí tuệ này có thể xa lìa 2 bên, [chẳng có chẳng không, chẳng thường chẳng đoạn], không có sự dính mắc, cho nên gọi là tướng xa lìa.
“Tướng tịch diệt” tức là nhân [thiên lệch] 2 bên đã diệt nên đạt được Niết-bàn hữu dư; quả [thiên lệch] 2 bên đã diệt thì đạt được Niết-bàn vô dư, cho nên gọi là tướng tịch diệt. Mỗi câu ở đây đều theo như nghĩa khác biệt và không khác biệt [ở trước], dựa theo phần giải thích về “một tướng trạng” thì có thể hiểu được.
“Rốt ráo đạt Nhất thiết chủng trí” là nếu đạt đến tướng diệt trừ hai bên thiên lệch thì thông hoặc và biệt hoặc đều dứt hết, thể nhập tri kiến Phật. Vận dụng Nhất thiết chủng trí, trong tâm thực hành Bát-nhã, từ ban đầu khởi phát cho đến rốt cùng, cả hai thời điểm đều không khác biệt, cho nên gọi là rốt ráo, tức là trí tuệ Phật, do vậy gọi là Nhất thiết chủng trí.
KINH VĂN
Như có chúng sanh nào nghe pháp của Như Lai rồi vâng giữ, tụng đọc, y theo pháp ấy mà tu hành, [chúng sanh ấy cũng] không tự nhận biết công đức mình có được.
Tiểu đoạn thứ hai từ câu “như có chúng sanh nào nghe pháp của Như Lai… ...không tự nhận biết” trở đi là nêu rõ nghĩa khác biệt. [Kinh văn] từ đây trở đi làm sáng tỏ sự khác biệt. Chúng sanh là núi sông, [nêu nghĩa] khác biệt giả thật, cũng là nghĩa chủng tử khác biệt. Như Lai là đám mây mưa, [chúng sanh] nghe pháp tức là có mưa xuống; đọc tụng, tu hành tức là thấm nhuần; công đức tức là sự tăng trưởng. Những sự khác biệt như vậy, chúng sanh đều không thể tự biết. Trong tiểu đoạn này chia ra 5 phân đoạn. Thứ nhất là nói chúng sanh không thể tự biết; thứ hai là Như Lai có thể rõ biết; thứ ba là nêu thí dụ ứng hợp với nghĩa chúng sanh không thể biết; thứ tư là lặp lại ý trước để kết luận, giải thích việc Như Lai có thể rõ biết; thứ năm là giải thích chỗ nghi.
“Như có chúng sanh nào” là nêu ra người không biết. “Pháp” là nói nghe pháp từ một âm thanh [của Phật].[59] “Vâng giữ, tụng đọc, y theo pháp ấy mà tu hành” là nói ý chính của sự không thể biết. [Cách thức] vâng giữ, tụng đọc không giống nhau nên sự tu hành cũng khác nhau. Hàng trời, người [nghe pháp Phật] thì hiểu là giữ giới, làm lành; ba thừa [nghe pháp Phật] thì hiểu theo 4 đế, 12 nhân duyên, 6 ba-la-mật.[60] Sự nhận hiểu đã không đồng nhau, tức là [sự tu hành] có khác biệt.
“Không tự nhận biết công đức mình có được” là nói chúng sanh trong 5 thừa,[61] tuy mỗi thừa đều vâng nhận giáo pháp của Phật, nhưng không biết rằng pháp Phật chỉ có một pháp vị, không có giáo pháp nào khác biệt nhau, cũng không biết rằng chúng sanh trong 7 hạng phương tiện, mỗi hạng đều tự nhận hiểu [thích hợp với mình], rồi đều bám chấp cho rằng [chỉ có] cách hiểu của mình là chân thật. Như vậy là chẳng biết pháp quyền thừa, cũng không hiểu được pháp chân thật, tức là có khác biệt mà “không tự nhận biết”.
KINH VĂN
Vì sao vậy? Vì chỉ có đức Như Lai mới rõ biết được tánh thể, chủng loại tướng trạng của chúng sanh, [rõ biết chúng sanh] niệm tưởng những gì, suy xét những gì, tu tập những gì; niệm tưởng như thế nào, suy xét như thế nào, tu tập như thế nào; dùng pháp gì để niệm tưởng, dùng pháp gì để suy xét, dùng pháp gì để tu tập; dùng pháp nào để đạt được pháp nào. Chúng sinh đang ở các giai vị [trên đường tu tập], chỉ có đức Như Lai mới rõ biết đúng thật, sáng suốt tỏ tường không ngăn ngại, cũng giống như các loại cỏ cây, rừng rậm cùng những loại cỏ thuốc kia, đều không tự biết mình thuộc loại lớn, nhỏ hay trung bình.
Phân đoạn thứ hai nói nghĩa Như Lai có thể rõ biết. Phần này lược giảm một số, chỉ nêu ra 10 cảnh hợp thành 4 ý. Thứ nhất là dựa vào 4 pháp để biết; thứ hai là dựa vào 3 pháp để biết; thứ ba là dựa vào 2 pháp để biết; thứ tư là dựa vào 1 pháp mà có thể biết.
Thứ nhất, dựa vào 4 pháp tức là nói chủng, tướng, thể, tánh. Chủng tử [là hạt giống], tức là nói 3 đường ác là hạt giống của 3 phẩm đức.[62] Kinh Tịnh Danh nói: “Tất cả các loại phiền não là hạt giống Như Lai.” Điều này làm rõ ý nghĩa từ trong phiền não mà có bát-nhã. Lại nói: “Năm tội vô gián[63] đều sanh ra tướng giải thoát.” Đây là nói từ nơi pháp bất thiện mà có pháp thiện giải thoát. Tất cả chúng sanh là tướng của Niết-bàn, không thể lại có tịch diệt. Đây là nói sanh tử chính là pháp thân.
Luận về chủng tử như vậy là dựa theo tướng trạng tương đối. Nếu dựa theo chủng loại để luận thì hết thảy [mọi hành vi cung kính như] cúi đầu chắp tay đều là chủng tử [của phẩm đức] giải thoát; hết thảy trí tuệ thế gian, tâm nhận hiểu của ba thừa đều là chủng tử [của phẩm đức] Bát-nhã; hết thảy chúng sanh có tâm thức đều sẽ thành Phật, tức là chủng tử [của phẩm đức] pháp thân.
Các chủng tử khác biệt như vậy, đức Như Lai đều có thể rõ biết. Tất cả chủng tử ấy thật ra lại chỉ là một chủng tử, tức là không có khác biệt, đức Như Lai cũng có thể rõ biết. Khác biệt đó tức là không khác biệt; không khác biệt tức là khác biệt, đức Như Lai lại cũng có thể rõ biết.
Tiếp theo bàn về tướng, thể và tánh thì dựa theo 10 pháp giới và 10 như thị để giải thích. Nếu luận về sự khác biệt tức là tướng của 10 pháp giới; nếu luận về không khác biệt tức là tướng của một cảnh giới Phật. Khác biệt hay không khác biệt, đức Như Lai đều có thể rõ biết. Khác biệt tức là không khác biệt, không khác biệt tức là khác biệt, đức Như Lai lại cũng có thể rõ biết. Luận về thể và tánh cũng theo cách như vậy, có thể hiểu rõ được.
Từ câu “chúng sanh niệm tưởng những gì…” trở đi là dựa vào 3 pháp để nêu rõ việc đức Như Lai có thể rõ biết. Ba pháp ấy là 3 loại trí tuệ,[64] lại chia ra 3 tầng. Thứ nhất là cảnh của 3 tuệ, thứ hai là thể của 3 tuệ, thứ ba là nhân duyên của 3 tuệ. “Niệm tưởng những gì” là nêu rõ công dụng của 3 tuệ. Niệm tưởng duy trì nơi sự việc được nhớ nghĩ đến, đó là cảnh của 3 tuệ. Từ câu “niệm tưởng như thế nào” trở đi, nói nghĩa niệm là ghi nhớ những pháp đã nghe, chính là niệm tưởng đến thể của 3 tuệ. Từ câu “dùng pháp gì để niệm tưởng” trở đi, nói nghĩa 3 tuệ bám chấp nơi cảnh mà nghe pháp, đó là nhân duyên của 3 tuệ. Lại nữa, xét cảnh, cảnh trí và nhân duyên 3 tuệ hợp lại nên có pháp 3 tuệ, cũng gọi là nhân duyên.
Như 3 tuệ này là của 3 thừa, trước đây cho rằng cảnh, thể và nhân duyên [3 tuệ này] khác nhau, tức là có khác biệt; nếu thể nhập 3 tuệ nhiệm mầu viên mãn tức là không có khác biệt. Sự khác biệt hay không khác biệt như vậy, đức Như Lai đều có thể rõ biết. Lại nữa, khác biệt tức là không khác biệt, không khác biệt tức là khác biệt, đức Như Lai cũng có thể rõ biết.
Từ câu “dùng pháp nào để đạt được pháp nào” trở đi dựa vào 2 pháp để nêu rõ việc đức Như Lai có thể rõ biết. “Dùng pháp nào” là nhân, “đạt được pháp nào” là quả. Mỗi nhân trong 5 thừa đều đạt đến quả tương ứng [của nhân đó], tức là có sự khác biệt. Chúng sanh như vậy, Phật như vậy, chỉ đồng nhất như vậy, không có 2 pháp khác nhau, chỉ là một nhân, một quả, tức là không khác biệt. Khác biệt hay không khác biệt, đức Như Lai đều có thể rõ biết. Khác biệt tức là không khác biệt, không khác biệt tức là khác biệt, đức Như Lai lại cũng có thể rõ biết.
Từ câu “Chúng sinh đang ở các giai vị trên đường tu tập” trở đi là dựa vào một pháp để nêu rõ việc đức Như Lai có thể rõ biết. Bảy hạng phương tiện trụ nơi 7 giai vị [tương ứng], cho nên nói là “các giai vị”, đó tức là có khác biệt. Đức Như Lai dùng Phật nhãn như thật để quán sát, thấy rõ như các dòng nước chảy vào biển đều mất đi mùi vị riêng trước đó, [chỉ còn vị mặn của nước biển], tức là không có khác biệt. [Đức Như Lai] dùng trí tuệ phương tiện, tùy thuận tâm ý chúng sanh mà diễn thuyết pháp, tức là đức Như Lai có thể rõ biết sự khác biệt. Tất cả những pháp mà Như Lai thuyết giảng cuối cùng đều đưa đến địa vị Nhất thiết chủng trí, tức là đức Như Lai có thể rõ biết chỗ không khác biệt. Đại lược là như vậy.
Từ câu “cũng giống như cỏ cây, rừng rậm…” trở đi là phân đoạn thứ ba nêu thí dụ, ứng hợp với nghĩa chúng sanh không thể rõ biết.
KINH VĂN
“Đức Như Lai rõ biết pháp đồng một tướng trạng, đồng một pháp vị này, đó là tướng trạng giải thoát, tướng trạng xa lìa, tướng trạng tịch diệt, cho đến tướng trạng rốt ráo Niết-bàn tịch diệt thường hằng, cuối cùng quy về không. Như Lai rõ biết như vậy rồi, lại quán xét tâm tánh và chỗ ham muốn của chúng sanh để cứu giúp, cho nên không vì chúng sanh mà thuyết giảng ngay [pháp rốt ráo để đạt] Nhất thiết chủng trí.
Từ câu “Đức Như Lai rõ biết pháp…” trở đi là phân đoạn thứ tư, lặp lại phần trước để tổng kết về nghĩa “đức Như Lai có thể rõ biết”. “Đồng một tướng trạng, đồng một pháp vị…” là như trước đã giải thích. “Tướng trạng giải thoát, tướng trạng xa lìa, tướng trạng tịch diệt…” do duyên phân biệt [mà thành], tức là trong một [pháp] có vô lượng [pháp]. “Rốt ráo Niết-bàn… cuối cùng quy về không”, tức là trong vô lượng [pháp] chỉ có một [pháp]. Đây là lặp lại phần trước để giải thích thêm một lần nữa về sự không khác biệt. Vì sao vậy? “Tướng trạng giải thoát, tướng trạng xa lìa, tướng trạng tịch diệt…”, nếu là pháp thể của hàng Nhị thừa thì vẫn còn giải thuyết khác biệt, nay nói là Đại thừa cứu cánh rốt ráo, “cuối cùng quy về không”, tức là thông suốt không có khác biệt. “Rốt ráo Niết-bàn” là kết luận về những câu trước đó, thảy đều không phải Niết-bàn hữu dư và vô dư của Nhị thừa, cho nên mới là Niết-bàn rốt ráo. “Tịch diệt thường hằng” là kết lại những câu trước, không phải tịch diệt của Tiểu thừa thì mới là thường trụ tịch diệt. Kinh văn phần trước nói: “Các pháp từ xưa nay, tướng thường tự tịch diệt”, chính là nói nghĩa này. “Cuối cùng quy về không”, chẳng phải là cái không hủy thân diệt trí [của Tiểu thừa], mà đây là nói đến đệ nhất nghĩa không của trung đạo. Cho đến chắp tay cung kính ân cần, tuy là giản lược của pháp thật vẫn khác với pháp quyền.
Các nhà cựu giải nói rằng, “cuối cùng quy về không” là nói [như đức Phật] tuy có thần thông kéo dài tuổi thọ được đến vô lượng kiếp, lại thị hiện gấp nhiều lần số kiếp đó, nhưng khi thọ mạng đã dứt thì cuối cùng cũng đi đến chỗ hủy thân diệt tâm, cho nên nói là “cuối cùng quy về không”. Nói như vậy thật là trái nghịch với Phật, trái nghịch với kinh, sao có thể nói được?
Ngài Quang Trạch nói: “Rốt cùng thể nhập [Niết-bàn] hữu dư, xả bỏ thân trí vô thường.” Có người hỏi vặn lại về cách giải thích này: “Nếu nói như thế thì so với Nhị thừa nào có khác biệt gì?”
Kinh văn [phần này] có 2 lần nói đến “rốt ráo”. Lần thứ nhất nói “rốt ráo đạt Nhất thiết chủng trí”, tức là nêu quả [Nhất thiết chủng] trí, đối lại với trí tuệ hàng Nhị thừa không rốt ráo. Lần thứ hai nói “rốt ráo Niết-bàn tịch diệt thường hằng, cuối cùng quy về không”, tức là nêu chỗ đoạn trừ [của Đại thừa], đối lại với chỗ đoạn diệt của hàng Nhị thừa không phải rốt ráo. Xét câu văn nói nghĩa rốt ráo thì biết là chẳng phải [nói nghĩa] không của Tiểu thừa.
Ngài Long Ấn nói: “Cái không của Đại Niết-bàn là vì không tướng pháp, không phiền não, cho nên nói là không. Cuối cùng đều quy về đệ nhất nghĩa không thường trụ.” Trung sư[65] nói: “Cuối cùng quy về đệ nhất nghĩa không, tức là trí tuệ.” Có người nói: “Quả Phật không phiền lụy, cho nên nói là không.” Lại có người chú giải rằng: “Không và có, cả hai đều rỗng suốt mới gọi là không.” Các bậc thầy xưa đều không giải thích theo Tiểu thừa, vì sao chỉ riêng ngài Quang Trạch có ý khác?
Từ câu “Phật rõ biết như vậy rồi, lại quán xét… chúng sanh” trở đi là phân đoạn thứ năm, dứt lòng nghi cho chúng sanh. [Có người nêu nghi vấn,] trước đây Phật đã rõ biết từ khởi thủy đến chung cuộc đều chỉ là một [Phật thừa], vì sao [ban sơ] ở Lộc uyển chẳng vì [chúng sanh] thuyết giảng ngay pháp chân thật? [Kinh văn] giải thích rằng, “quán xét tâm tánh và chỗ ham muốn của chúng sanh”, nên [vận dụng] tùy theo 3 pháp tất đàn[66] để [giáo hóa] cứu giúp. Vì sợ [chúng sanh không tin nhận sẽ] phỉ báng cho nên không thuyết [ngay pháp chân thật].
KINH VĂN
“Này Ca-diếp! Các ông [là những người] rất ít có, có thể biết được sự tùy nghi thuyết pháp của đức Như Lai, có thể tin tưởng nhận lãnh. Vì sao vậy? Vì sự tùy nghi thuyết pháp của chư Phật Thế Tôn rất khó nhận hiểu, rất khó biết được.”
Từ câu “Này Ca-diếp! Các ông [là những người] rất ít có…” trở đi là tổng đoạn thứ hai, nhắc lại tông chỉ và khen ngợi, đó là muốn giải thích nghi vấn. Nghi vấn ở đây là: “Từng nghe Phật có vô lượng công đức, nên nói rằng 4 vị đệ tử y theo giáo pháp nhận hiểu thì chắc gì [sự nhận hiểu đó] đã là pháp chân thật?” [Do nghi vấn ấy] nên đức Phật khen ngợi [để xác nhận rằng] tuy chưa đạt đến địa vị Phật nhưng sự nhận hiểu theo giáo pháp [của 4 vị đệ tử] không phải hư dối. Đây cũng là để dẫn dắt phát khởi cho hàng căn cơ thấp kém, khiến họ cũng được cùng giác ngộ.
Tổng đoạn này chia làm 2 đoạn, thứ nhất là thuật lại, thứ hai là giải thích.
Trước tiên xưng tán việc rất ít có. Hàng phàm phu nếu có kẻ quay đầu được nghe pháp tin nhận thì có thể được lợi ích, đối với hàng Bồ Tát thì đã từng nghe hiểu nên việc tin nhận không phải việc lạ kỳ. [Hàng Nhị thừa đã chứng đắc] chánh vị vô vi mà có thể xả bỏ chỗ chứng đắc để thể nhập pháp chân thật là hết sức ít có.
“Có thể rõ biết được sự tùy nghi thuyết pháp của đức Như Lai” là thuật lại ý nghĩa có thể nhận hiểu [việc Phật] khai thị trừ bỏ ba thừa. Tiếp đến nói “có thể tin tưởng nhận lãnh” là thuật sự nhận hiểu [việc Phật] hiển bày Nhất thừa.
[Từ câu] “Vì sao vậy?” là giải thích ý nghĩa vừa thuật lại, nêu rõ việc đối với một đạo [Nhất thừa] mà Phật [phương tiện] thuyết dạy thành ba, sâu xa huyền diệu khó hiểu mà “các ông… …có thể tin tưởng nhận lãnh”.
Kinh văn phần trước nói: “Như Lai lại có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ các công đức khác, cho dù các ông có diễn nói trong vô lượng ức kiếp cũng không thể cùng tận.” Kinh văn phần văn sau nói: “Các ông thật là những người rất ít có.” Theo ý riêng tôi cho rằng, ân đức của Phật ban rải mọi nơi, ví như mây mưa, không một nơi nào không được thấm nhuần; ân đức Phật che chở nâng đỡ khắp cùng, ví như mặt đất, không một sự vật nào không từ đó sinh ra, đâu chỉ riêng vì một căn cơ, một cõi nước mà thôi. Do vậy nên nói “các ông có diễn nói trong vô lượng ức kiếp cũng không thể cùng tận”.
Ân đức của Phật tuy ban rải mọi nơi, chúng sanh mỗi ngày đều thọ nhận dùng đến nhưng không tự rõ biết, cũng như 3 hạng cỏ thuốc và 2 hạng cây [trong thí dụ] đều bám rễ trong đất, đều thấm nhuần nước mưa, nhưng không tự rõ biết. [Cho nên Phật nói rằng các đệ tử như Ca-diếp] có thể rõ biết từ trước đến sau 10 ân đức [của Phật] thật là rất ít có.
“Những ai chưa được hóa độ [nay ta] sẽ khiến cho được hóa độ”, đây là thuật nghĩa việc rõ biết ân đức 4 hoằng thệ nguyện của Phật là rất ít có.
[Đức Phật giúp cho] chúng sanh “đời sống hiện tại được an ổn, đời sau được sinh về cảnh giới tốt lành, lấy việc tu đạo làm niềm vui”, đây là thuật nghĩa việc rõ biết ân đức [Phật dùng] tâm đại từ ban vui [cho chúng sanh] là rất ít có.
“Sau khi nghe pháp lìa xa mọi chướng ngại, ở nơi các pháp tùy theo khả năng của mình mà [tu tập] dần dần thể nhập đạo giác ngộ.” Đây là thuật nghĩa việc rõ biết ân đức [Phật dùng] tâm đại bi cứu bạt khổ não [cho chúng sanh] là rất ít có.
[Phần kệ tụng nói] “…Chuyển Luân vương, hoặc Đế Thích, Phạm vương, là hạng cỏ thuốc nhỏ”. Đây là thuật nghĩa việc rõ biết ân đức Phật khuyên dạy điều lành trừ được phiền não nóng nảy là rất ít có.
[Phần kệ tụng nói] “Rõ biết pháp vô lậu, có thể đạt Niết-bàn” cho đến “chứng đắc quả Duyên giác, là cỏ thuốc trung bình”. Đây là thuật nghĩa việc rõ biết ân đức [Phật giúp] trừ sự nóng nảy của các kiến chấp, ái luyến là rất ít có.
[Phần kệ tụng nói] “cỏ thuốc bậc cao” và “hạng cây nhỏ” là [nói những chúng sanh] hổ thẹn về việc theo Tiểu thừa và ngưỡng mộ Đại thừa. Đây là thuật nghĩa việc rõ biết ân đức [Phật giúp] ngăn ngừa những sự xấu ác là rất ít có.
[Phần kệ tụng nói] “hạng cây lớn” là thuật nghĩa rõ biết ân đức trang nghiêm [của Phật] là rất ít có.
[Kinh văn nói] sự thật rốt ráo là “từ một mặt đất sinh ra, cùng được một cơn mưa thấm nhuần”, đây là thuật nghĩa việc rõ biết ân đức [Phật] “giao phó gia tài”, [giúp cho] được ngồi trên pháp tòa, thân tâm đầy đủ tài bảo chánh pháp, tự tại an vui là rất ít có.
[Phần giải thích] Đức Phật thuật các nghĩa khác biệt trong lời xưng tán [của ngài Ca-diếp] đến đây là hết. Nếu nói việc thuật nghĩa không khác biệt trong lời xưng tán thì [nói chung là] một ân đức lớn lao.
KINH VĂN
Khi ấy, đức Thế Tôn muốn lặp lại những ý nghĩa trên nên nói kệ rằng:
Đấng Pháp vương Phá Hữu,
Xuất hiện giữa thế gian,
Tùy lòng chúng sanh muốn,
Mà thuyết dạy mọi pháp.
Đấng Như Lai tôn quý,
Trí tuệ rất sâu xa,
Từ lâu vẫn im lặng,
Không vội thuyết pháp yếu.
Vì người trí được nghe,
Sẽ có thể tin hiểu.
Kẻ vô trí nghi ngờ,
Sẽ để mất vĩnh viễn.
Cho nên, này Ca-diếp!
Phật tùy sức chúng sanh,
Dùng đủ duyên thuyết dạy,
Khiến cho được chánh kiến.
Phần kệ tụng có 54 khổ rưỡi kệ, tụng lại kinh văn phần trước nói nghĩa hiển bày pháp chân thật. Phần kinh văn hiển bày có thuyết chánh pháp và thuyết thí dụ, nay ở phần kệ cũng tụng lại đủ; 4 khổ kệ đầu tụng nghĩa thuyết chánh pháp, kế đến 50 khổ rưỡi tụng nghĩa thuyết thí dụ.
Tổng đoạn kệ tụng thuyết chánh pháp lại chia làm 2 đoạn. Thứ nhất là nêu [hiệu] Pháp vương, thứ hai là khai mở, hiển bày pháp thật.
Đoạn thứ nhất nửa khổ kệ đầu tụng nghĩa đấng Pháp vương không hư dối.
Đoạn thứ hai gồm 3 khổ rưỡi kệ tụng vào nghĩa khai mở hiển bày pháp thật. Kinh văn ở trước nêu 2 giáo pháp [quyền, thật] và 2 trí [quyền, thật]. Kệ tụng phần này cũng [chia thành 2 tiểu đoạn] tụng lại đầy đủ. Tiểu đoạn thứ nhất 1 khổ rưỡi kệ, tụng về 2 giáo pháp [quyền và thật]. Tiểu đoạn thứ hai gồm 2 khổ kệ tụng về 2 trí [quyền và thật].
Tiểu đoạn thứ nhất [chia thành 2 phân đoạn], từ câu “Tùy lòng chúng sanh muốn” trở đi [là phân đoạn thứ nhất,] nửa khổ kệ tụng về giáo pháp quyền thừa. Phân đoạn thứ hai từ câu “Đấng Như Lai tôn quý” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng về giáo pháp chân thật.
Tiểu đoạn thứ hai [cũng chia thành 2 phân đoạn,] từ câu “Vì người trí được nghe” trở đi [là phân đoạn thứ nhất,] gồm 1 khổ kệ, tụng nghĩa giải thích trí quyền thừa. Phân đoạn thứ hai từ câu “Cho nên này Ca-diếp” trở đi gồm 1 khổ kệ, tụng nghĩa giải thích thật trí. Tùy theo đủ mọi nhân duyên, thuyết dạy đủ mọi giáo pháp, đều là để giúp cho [chúng sanh] đạt được chánh kiến Đại thừa. [Cho nên những hiểu biết] từ trước đều gọi là tà kiến.
Phần kệ tụng này nêu ý 4 tất đàn của Như Lai. [Nêu danh hiệu] “Pháp vương Phá Hữu” là ý đối trị tất đàn. “Tùy lòng chúng sanh muốn” là ý thế giới tất đàn. “Vì người trí được nghe, sẽ có thể tin hiểu; kẻ vô trí nghi ngờ, sẽ để mất vĩnh viễn” là ý vị nhân tất đàn. “Khiến cho được chánh kiến” là ý đệ nhất nghĩa tất đàn. Ba tất đàn trước là tụng lại phần kinh văn ở trước nói “[Như Lai] dùng trí phương tiện diễn bày thuyết giảng”. Tất đàn thứ tư “khiến cho được chánh kiến” là tụng lại phần kinh văn nói “đều dẫn đến địa vị Nhất thiết trí”. Đại lược là như vậy.
KINH VĂN
Ca-diếp! Ông nên biết,
Giống như đám mây lớn,
Hiện ra trong cõi đời,
Che phủ khắp mọi nơi.
Mây trí tuệ thấm nhuần,
Có ánh chớp chói lòa,
Sấm nổ chấn động xa,
Người người đều vui mừng.
Mặt trời bị che khuất,
Khắp mặt đất mát lành,
Mây đen sà rất thấp,
Dường đưa tay sờ được.
Một trận mưa đều xuống,
Nước đổ khắp bốn phương,
Chảy tràn khôn kể xiết,
Mặt đất đều thấm đẫm.
Từ núi, sông, khe, suối,
Nơi ẩn khuất, sanh ra
Bao cây rừng, cỏ thuốc,
Những cây lớn, cây nhỏ,
Trăm giống lúa, mạ non,
Đến bãi mía, vườn nho,
Nước mưa đã ngấm đều,
Nơi nơi đều ướt đẫm.
Đất khô nay thấm mềm,
Cỏ cây đều xanh tốt.
Từ mây kia đổ xuống,
Cùng một loại nước mưa,
Bao cỏ cây, rừng rậm,
Tùy loại đều thấm đủ.
Hết thảy các loại cây,
Dù cao, thấp, khoảng giữa,
Tùy mức độ lớn, nhỏ,
Đều vươn mình phát triển,
Gốc rễ, thân, lá, cành,
Cùng hoa trái sáng đẹp.
Một trận mưa đều khắp,
Hết thảy đều tươi mát.
Hình thể mỗi loại cây,
Tính chất có lớn nhỏ,
Cùng thấm ướt một cách,
Mỗi loại thêm tốt tươi.
Từ câu “Ca-diếp ông nên biết, giống như đám mây lớn…” trở đi [là tổng đoạn thứ hai] có 50 khổ rưỡi kệ, tụng lại kinh văn phần trước nói nghĩa thuyết thí dụ, [chia làm 2 đoạn]. [Đoạn thứ nhất gồm] 10 khổ rưỡi kệ, tụng nghĩa nêu thí dụ, đoạn thứ hai 40 khổ kệ tiếp theo, tụng nghĩa tương hợp các thí dụ.
Kinh văn phần trước nêu thí dụ có 2 nghĩa [là khác biệt và không khác biệt], nay ở đoạn thứ nhất [chia ra 2 tiểu đoạn, tiểu đoạn thứ nhất gồm] 9 khổ rưỡi kệ, tụng lại thí dụ nêu nghĩa khác biệt, tiếp theo tiểu đoạn thứ hai gồm một khổ kệ, tụng lại thí dụ nêu nghĩa không khác biệt.
Kinh văn phần trước nêu thí dụ về nghĩa khác biệt có 6 ý, nay tiểu đoạn thứ nhất [chia ra 6 phân đoạn], cũng tụng lại đủ 6 ý, nhưng thứ tự không giống như phần nêu thí dụ trong kinh văn trường hàng, mà giống với phần nêu nghĩa tương hợp.
Phân đoạn thứ nhất có 3 khổ kệ, tụng lại ý thứ ba trong kinh văn phần trước, nêu thí dụ đám mây. Từ câu “một trận mưa đều xuống” trở đi là phân đoạn thứ hai gồm một khổ kệ, tụng lại ý thứ tư, nêu thí dụ cơn mưa đổ xuống. Câu “từ núi, sông, khe, suối” là phân đoạn thứ ba, tụng lại ý thứ nhất, nêu thí dụ núi sông, mặt đất. Hai câu tiếp theo “nơi hiểm trở ẩn khuất, có cây rừng, cỏ thuốc” là phân đoạn thứ tư, tụng lại ý thứ hai, nêu thí dụ cỏ cây… Từ câu “những cây lớn, cây nhỏ” trở đi là phân đoạn thứ năm, gồm 2 khổ kệ và 3 câu, tụng lại ý thứ năm, nêu thí dụ [cây cỏ đều] thấm đẫm. Từ câu “hết thảy các loại cây” trở đi là phân đoạn thứ sáu, gồm 2 khổ kệ, tụng lại ý thứ sáu, nêu thí dụ [cỏ cây] tăng trưởng.
“Vầng mây” ví như ứng hóa thân Phật. Hành trạng của ứng hóa thân luôn tùy theo trí tuệ, cho nên nói là mây trí tuệ. Có thể hàm chứa đầy đủ giáo pháp 12 bộ kinh, cho nên nói là hàm chứa thấm nhuần. Nếu ứng hóa thân Phật không thuyết pháp, như Phật Tu-phiến-đa, Phật Đa Bảo, thì cũng là mây nhưng không hàm chứa thấm nhuần.
Thân [Phật] phóng hào quang chói sáng, như “ánh chớp chói lòa”. Miệng Phật vang rền [tiếng thuyết pháp] với 4 biện tài, như “sấm nổ chấn động xa”. Ánh tà vạy của 95 loại [ngoại đạo] chẳng thể hiện ra, cho nên nói là “bị che khuất”. [Pháp Phật] dứt trừ 98 loại phiền não nóng nảy, như “khắp mặt đất mát lành”. “Dường đưa tay sờ được” là nói ứng hóa thân Phật hiện ra ở đời tuy có vẻ tương tợ như [thân chúng sanh] trong ba cõi, nhưng khởi tâm nắm bắt, giữ lấy đều không thể được. [Phật dùng] 8 loại âm thanh với 4 biện tài tuyên thuyết như đổ cơn mưa pháp, [cho nên nói “một trận mưa đều xuống, nước đổ khắp bốn phương”, đó là nghĩa [Phật thuyết pháp hết thảy chúng sanh] cùng lúc đều được nghe, nên cũng nói bốn phương đồng nhau. Hết thảy những loài có tâm thức đều được thấm nhuần lợi ích, cho nên nói “mặt đất đều thấm đẫm”.
Đến đây hoàn tất phần trên, lại tiếp phần dưới nêu thí dụ núi sông. Câu “từ núi, sông, khe, suối” là tụng lại ý thứ nhất trong kinh văn phần trước, nêu thí dụ mặt đất, tức là ví cho 5 ấm của chúng sanh trong 7 hạng phương tiện, nay nhờ mưa pháp nên thân miệng đều được êm dịu nhu hòa, như mặt đất được thấm đẫm nước mưa.
Câu “nơi ẩn khuất, sinh ra” là tụng lại ý thứ hai, nêu nghĩa chúng sanh có tập khí nhân duyên khác biệt nhau. Đây là ví các tập khí nhân duyên của chúng sanh gieo trồng từ thuở lâu xa [trong quá khứ] tiềm ẩn bên trong 5 ấm, 12 nhập, 8 giới, cho nên nói là “ẩn khuất”. Nay nhờ mưa pháp nên tất cả đều được khơi mở, hiển bày, cho nên nói là “sanh ra”.
“Trăm giống lúa” là chỉ chung các loại ngũ cốc, ví như [giáo pháp] 5 thừa có thể giúp làm sinh khởi trăm việc lành. “Bãi mía, vườn nho” ví cho sự an định và trí tuệ. “Đất khô đã thấm đều” ví như việc khiến cho những kẻ chưa có lòng tin được sinh khởi lòng tin. Các thí dụ khác y theo kinh văn có thể hiểu được.
Từ câu “Hình thể mỗi loại cây, tính chất có lớn nhỏ” trở đi gồm 1 khổ kệ là [tiểu đoạn thứ hai], tụng lại ý thứ hai [trong kinh văn phần trước] nêu thí dụ không khác biệt. Kinh văn phần trước có 3 ý, nay trong phần này lược tụng không có ý “một mặt đất”, bao gồm luôn trong ý “sanh ra”. Hai câu đầu tụng ý [cỏ cây từ đất] sanh ra [là đối tượng] được thấm nhuần [nước mưa]. Kế đến câu [“cùng thấm ướt một cách”] tụng về [cơn mưa] có khả năng làm thấm nhuần [vạn vật], tức là tụng nghĩa không khác biệt. Câu “mỗi loại thêm tốt tươi” tụng nghĩa [cỏ cây đều] khác biệt nhưng không thể tự biết.
KINH VĂN
“Đức Phật cũng như vậy,
Xuất hiện nơi cõi đời,
Ví như vầng mây lớn,
Che phủ khắp mọi nơi.
Một khi đã ra đời,
Liền vì mọi chúng sanh,
Phân biệt giảng nói rõ,
Tánh thật của các pháp.
Bậc Đại Thánh Thế Tôn,
Ở giữa hàng trời, người,
Cùng hết thảy đại chúng,
Tuyên thuyết như thế này:
‘Ta là Bậc Như Lai,
Là Đấng Lưỡng Túc Tôn,
Nay xuất hiện giữa đời,
Như một vầng mây lớn,
Tưới nhuần cho hết thảy,
Chúng sinh đang khô héo,
Giúp xa lìa khổ não,
Được niềm vui an ổn:
Là niềm vui thế gian,
Cùng an vui Niết-bàn.
Chúng sinh cõi trời, người,
Hãy một lòng lắng nghe.
Tất cả nên đến đây,
Kính ngưỡng Đấng Vô thượng.
Ta là Bậc Thế Tôn,
Không có ai sánh bằng.
Giúp chúng sanh an ổn,
Nên xuất hiện giữa đời.
Vì đại chúng thuyết dạy,
Pháp cam lộ thanh tịnh.
Pháp ấy chỉ một vị,
Là Niết-bàn giải thoát.
Ta dùng tiếng nhiệm mầu,
Giảng giải rõ nghĩa ấy.
Ta thường vì Đại thừa,
Tạo ra các nhân duyên.
Từ câu “Đức Phật cũng như vậy” trở đi [là đoạn thứ hai] gồm 40 khổ kệ, tụng lại phân đoạn thứ hai ở trước nói nghĩa tương hợp các thí dụ. [Đoạn này lại chia làm 2 tiểu đoạn.]
Tiểu đoạn thứ nhất gồm 35 khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp [với các thí dụ] khác biệt. Tiểu đoạn thứ hai từ câu “Như vậy đó, Ca-diếp!” trở đi gồm 5 khổ kệ, tụng nghĩa tương hợp [với thí dụ] không khác biệt.
Phần trước tụng nghĩa tương hợp các thí dụ khác biệt thì trước tiên nêu nghĩa chính tương hợp, sau nói nghĩa ứng hợp. Nay tiểu đoạn thứ nhất [gồm 6 phân đoạn]cũng tụng nghĩa tương hợp trước, sau nêu nghĩa ứng hợp.
Phân đoạn thứ nhất gồm 1 khổ kệ đầu tiên, tụng nghĩa tương hợp với thí dụ vầng mây. [Trong đó] 2 câu trước nêu thân [Phật] để ví như mây, 2 câu sau nêu nghĩa ứng hợp [với mây].
Phân đoạn thứ hai từ câu “một khi đã ra đời” trở đi, gồm 8 khổ rưỡi kệ, tụng ý thứ hai,[67] tương hợp với thí dụ mưa xuống. Phần trước nêu nghĩa chính rồi sau mới khuyến khích [đại chúng] lắng nghe và thọ nhận. [Phân đoạn này cũng tương tự như vậy, chia làm 2 ý.]
Từ câu “một khi đã ra đời” trở đi [là ý thứ nhất, gồm 4 khổ rưỡi kệ nêu ý chính, có 2 tiểu ý]. Tiểu ý thứ nhất gồm 3 khổ kệ lược tụng 10 danh hiệu [Phật]. Tiểu ý thứ hai 1 khổ rưỡi kệ, tụng 4 hoằng thệ nguyện. Phần trước có 6 ý nghĩa [xưng tán Phật][68] thì ở đây chỉ tụng lại 2 ý nghĩa.[69] Từ câu “tưới nhuần cho hết thảy” trở đi gồm 1 khổ rưỡi kệ tụng về 4 hoằng thệ nguyện.[70]
Từ câu “chúng sanh cõi trời, người” trở đi là ý thứ hai, gồm 4 khổ kệ, tụng về nghĩa khuyến khích [đại chúng] lắng nghe cùng thọ trì.
KINH VĂN
Ta quán sát chúng sanh,
Hết thảy đều bình đẳng,
Không phân biệt yêu, ghét,
Giữa người này, kẻ khác.
Ta không còn tham chấp,
Không giới hạn, ngăn ngại.
Thường vì khắp chúng sanh,
Mà bình đẳng thuyết pháp;
Dù thuyết cho một người,
Hay đông người cũng vậy.
Xưa nay thường thuyết pháp,
Không một việc gì khác,
Dù đến, đi, đứng, ngồi,
Mãi cũng không mỏi mệt.
Làm sung túc thế gian,
Như mưa xuống đều khắp.
Từ câu “ta quán sát chúng sanh” trở đi là phân đoạn thứ ba, gồm 4 khổ kệ, tụng lại nghĩa tương hợp với ý thứ ba ở kinh văn phần trước nêu thí dụ về núi sông, [mặt đất]… Núi sông là ví cho 5 ấm của chúng sanh [trong 7 hạng phương tiện]. Giống như cơn mưa đổ xuống không hề chọn lựa phân biệt khe, suối… đức Phật thuyết pháp một cách bình đẳng nên không hề có sự phân biệt chỗ đây, chỗ kia. [Tuy nhiên, chúng sanh tự có khác biệt cho nên] nơi có cơ duyên gọi là đây, không cơ duyên gọi là kia; gieo trồng căn lành gọi là yêu, oán ghét ngỗ nghịch gọi là ghét; xem việc Phật là của mình, việc ma là của kẻ khác. [Kệ nói “dù đến, đi, đứng, ngồi” thì] ứng hiện ban sơ là đến, ứng hiện về sau là đi, thể nhập pháp thật là ngồi, phát xuất pháp quyền là đứng. Đức Phật “quán sát chúng sanh” là [thấy rõ] như thế, đó là ý nghĩa câu “như mưa xuống đều khắp”, đồng đều trên khắp núi, sông, [mặt đất]... Đoạn này tụng lại kinh văn phần trước nói “có vô số ngàn muôn ức loại chúng sanh đều đến chỗ Phật để nghe chánh pháp”.
KINH VĂN
Dù sang, hèn, trên, dưới,
Người giữ giới, phá giới,
Bậc đầy đủ oai nghi,
Hay người không đầy đủ,
Dù chánh kiến, tà kiến,
Nhanh nhạy hay trì độn,
Cùng tưới đều mưa pháp,
Mà không hề mỏi mệt.
Từ câu “dù sang, hèn, trên, dưới” trở đi là phân đoạn thứ tư, gồm 2 khổ kệ, tụng lại ý thứ tư phần trước nói “đức Như Lai vào lúc ấy quán xét mọi chúng sanh”, tương hợp với ý thứ hai [nêu thí dụ] cỏ cây, rừng rậm sinh ra [từ đất]. Từ câu “dù sang, hèn, trên, dưới…” cho đến câu “nhanh nhạy hay trì độn” đều là dựa vào [các loại chúng sanh trong] 7 hạng phương tiện mà lần lượt nêu ra.
KINH VĂN
Khắp các loài chúng sanh,
Được nghe pháp của Phật,
Đều tùy sức tiếp nhận,
Đạt giai vị khác nhau.
Hoặc ở giữa trời, người,
Làm Chuyển luân Thánh vương,
Hoặc Đế thích, Phạm vương,
Là hạng cỏ thuốc nhỏ.
Từ câu “Khắp các loài chúng sanh, được nghe pháp của Phật” trở đi là phân đoạn thứ năm, gồm 11 khổ kệ, tụng lại phần trước nói “dùng vô số phương cách khiến cho tất cả đều được mừng vui hoan hỷ”, tương hợp với thí dụ [mưa xuống] được thấm nhuần. Phân đoạn này chia làm 3 ý. Ý thứ nhất gồm 1 khổ kệ, nêu tổng quát việc [chúng sanh] được thấm nhuần [pháp Phật]. Ý thứ hai gồm 7 khổ kệ, nêu rõ chi tiết về việc [chúng sanh] thấm nhuần [pháp Phật]. Ý thứ ba gồm 3 khổ kệ, tóm kết lại về [pháp Phật] làm thấm nhuần và [chúng sanh] được thấm nhuần.
Có người giảng giải rằng, hàng trời, người là hạng cỏ nhỏ, hàng Nhị thừa là hạng cỏ vừa, hàng ngoại phàm là hạng cỏ lớn, các giai vị nội phàm là hạng cây nhỏ, hàng [Bồ Tát] từ sơ địa đến thất địa là hạng cây lớn.
Lại có người cho rằng các giai vị nội phàm là hạng cỏ lớn, [hàng Bồ Tát] từ sơ địa đến thất địa là hạng cây nhỏ, [hàng Bồ Tát] bát địa là hạng cây lớn.
Có người lại cho rằng [hàng Bồ Tát còn ở giai vị] tam thập tâm là hạng cỏ lớn, [hàng Bồ Tát] từ sơ địa đến lục địa là hạng cây nhỏ, [hàng Bồ Tát] từ thất địa trở lên là hạng cây lớn.
Thế nhưng về thí dụ 3 hạng cỏ thuốc và 2 hạng cây thì trong kinh văn chính Phật đã nêu nghĩa tương hợp rất sáng tỏ, rõ ràng, sao tâm của những người ấy lại hiểu ngược với Phật, trái với kinh?
Trong ý [thứ hai] nêu chi tiết về việc [chúng sanh] thấm nhuần [pháp Phật] lại có 5 tiểu ý.
Tiểu ý thứ nhất gồm 1 khổ kệ, nói đến hàng trời, người, vốn đều chưa dứt trừ mê hoặc, nêu nghĩa tương hợp với hạng cỏ thuốc nhỏ.
KINH VĂN
Rõ biết pháp vô lậu,
Có thể đạt Niết-bàn,
Sinh khởi sáu thần thông,
Đạt ba sự sáng suốt,
Sống riêng giữa núi rừng,
Thường thực hành thiền định,
Chứng đắc quả Duyên giác,
Là cỏ thuốc trung bình.
Cầu thành bậc Thế Tôn,
Quyết tâm sẽ làm Phật,
Tinh tấn tu thiền định,
Là cỏ thuốc bậc cao.
Lại có những Phật tử,
Một lòng cầu đạo Phật,
Thường thực hành từ bi,
Tự biết sẽ thành Phật,
Tâm quyết định không nghi,
Gọi là hạng cây nhỏ.
Trụ yên trong thần thông,
Thuyết pháp không thối chuyển,
Hóa độ khắp chúng sanh,
Vô số ức, trăm, nghìn...
Hàng Bồ Tát như vậy,
Gọi là hạng cây lớn.
Tiếp theo từ câu “rõ biết pháp vô lậu” trở đi là tiểu ý thứ hai gồm 2 khổ kệ, nói đến hàng Nhị thừa, vốn đều có sự đoạn hoặc chứng đạo, nêu nghĩa tương hợp với hạng cỏ thuốc trung bình.
Từ câu “cầu thành bậc Thế Tôn” trở đi là tiểu ý thứ ba gồm 1 khổ kệ, nói rõ 6 ba-la-mật. [Hàng Bồ Tát này] có chí cầu thành Phật để hóa độ chúng sanh, vượt hơn hàng Nhị thừa nên đứng riêng thành hạng cỏ thuốc bậc cao.
Từ câu “Lại có những Phật tử” trở đi là tiểu ý thứ tư gồm 1 khổ rưỡi kệ, nói về [hàng Bồ Tát] Thông giáo, vốn đã dứt trừ được thông hoặc, phát thệ nguyện nương theo tập khí vẫn còn mà vào chốn sanh tử để giáo hóa chúng sanh.[71] So với hạng dưới thì vượt hơn, nhưng so với hạng trên thì còn kém, cho nên ví như hạng cây nhỏ.
Từ câu “trụ yên trong thần thông” trở đi là tiểu ý thứ năm, gồm 1 khổ rưỡi, nói về [hàng Bồ Tát] Biệt giáo, vốn tự mình thực hành và giáo hóa chúng sanh, [so với các hạng khác là] cao hơn, rộng hơn, cho nên ví như hạng cây lớn.
[Lại cũng giải thích] dựa vào 3 hàng Bồ Tát, trong mỗi hàng đều ví như 3 hạng cây. [Bồ Tát tu] 6 ba-la-mật dựa vào các giai đoạn vượt qua 3 a-tăng-kỳ kiếp [để phân làm 3 hạng]. [Bồ Tát] Thông giáo dựa vào các giai vị thất địa, bát địa và cửu địa [để phân làm 3 hạng]. [Bồ Tát] Biệt giáo dựa vào giai vị tam thập tâm [để phân làm 3 hạng].
KINH VĂN
Phật thuyết pháp bình đẳng,
Như một cơn mưa xuống,
Chúng sinh tùy căn tánh,
Nên tiếp nhận khác nhau,
Như những cỏ cây kia,
Sức hút nước khác biệt.
Phật dùng thí dụ này,
Để phương tiện chỉ bày,
Dùng đủ mọi ngôn từ,
Để giảng giải một pháp,
So với trí tuệ Phật,
Như giọt nước trong biển.
Như Lai đổ mưa pháp,
Đầy đủ khắp thế gian.
Pháp ấy chỉ một vị,
Chúng sinh tùy sức tu.
Như trong khu rừng kia,
Cỏ thuốc và cây cối,
Đều tùy mức lớn, nhỏ,
Dần dần thêm tươi tốt.
Từ câu “Phật bình đẳng thuyết pháp” trở đi là ý thứ ba, có 3 khổ kệ, nói tóm kết về [pháp Phật] có thể thấm nhuần và [chúng sanh] được thấm nhuần. Ý này lại có 2 tiểu ý.
Tiểu ý thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu thí dụ ứng hợp để giải thích [về chúng sanh] được thấm nhuần [pháp Phật]. Tuy có nêu ra 7 hạng [phương tiện] nhưng 7 hạng ấy là rất ít [so với chúng sanh được thấm nhuần pháp Phật], chỉ như một giọt nước trong biển lớn.
Từ câu “Phật dùng thí dụ này” trở đi [là tiểu ý thứ hai], gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu rõ trí tuệ Phật có thể thấm nhuần [đến chúng sanh]. [Trí tuệ ấy lớn rộng,] nhiều như biển cả.
Từ câu “Như Lai đổ mưa pháp” trở đi là phân đoạn thứ sáu, gồm 8 khổ rưỡi kệ, tụng lại ý thứ 6 trong kinh văn phần trước nói “các chúng sanh được nghe chánh pháp này rồi”, tương hợp với các thí dụ hoan hỷ, tăng trưởng. Phân đoạn này lại có 2 ý.
Ý thứ nhất gồm 2 khổ kệ, tụng tổng quát về nghĩa tăng trưởng, lại chia thành 2 tiểu ý.
Tiểu ý thứ nhất gồm 1 khổ kệ, tụng tổng quát về nghĩa tăng trưởng.
Tiểu ý thứ hai cũng gồm 1 khổ kệ nêu thí dụ ứng hợp để giải thích.
KINH VĂN
Giáo pháp của chư Phật,
Thường chỉ dùng một vị,
Khiến cho khắp thế gian,
Đều nhận được đầy đủ.
Theo thứ lớp tu hành,
Đều đạt thành đạo quả.
Hàng Thanh văn, Duyên giác,
Sống giữa chốn núi rừng,
Trụ nơi thân sau cùng,
Được nghe pháp, chứng quả,
Gọi là hàng cỏ thuốc,
Gặp mưa đều tăng trưởng.
Từ câu “Giáo pháp của chư Phật” trở đi là ý thứ hai, gồm 6 khổ rưỡi kệ, nêu chi tiết về nghĩa tăng trưởng, Ý này có 4 tiểu ý.
Tiểu ý thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu rõ nghĩa hàng trời, người được tăng trưởng, tất cả đều được đầy đủ. Đây là tụng lại nghĩa “đời sống hiện tại được an ổn” cho đến “tu tập dần dần”, cũng là tụng lại nghĩa “đời sau… lấy việc tu đạo làm niềm vui”.
Tiểu ý thứ hai từ câu “hàng Thanh văn, Duyên giác” trở đi, gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu rõ nghĩa hàng Nhị thừa được tăng trưởng.
Câu “trụ nơi thân sau cùng” có 2 cách giải thích. Cách giải thích thứ nhất cho rằng, hàng Nhị thừa mang thân đời này, nếu không gặp Phật thì chưa hẳn đã là thân sau cùng. Nhờ được gặp Phật nên [thân đời này] trở thành thân sau cùng, tức là ý nghĩa được tăng trưởng. Cách giải thích thứ hai cho rằng, hàng Nhị thừa chứng đắc Niết-bàn hữu dư, trụ nơi thân sau cùng, [nhờ gặp Phật mà] được 5 pháp vị[72] điều hòa thuần thục, thể nhập giáo lý Pháp hoa, nghe pháp Đại thừa có thể nhận hiểu, tức là ý nghĩa được tăng trưởng.
KINH VĂN
Nếu là hàng Bồ Tát,
Có trí tuệ vững chắc,
Thấu suốt trong ba cõi,
Cầu giáo pháp tối thượng,
Đó gọi là cây nhỏ,
Gặp mưa cũng tăng trưởng.
Bậc trụ trong thiền định,
Đạt được sức thần thông,
Được nghe các pháp Không,
Lòng hết sức vui mừng,
Phóng vô số hào quang,
Hóa độ khắp chúng sanh.
Đó gọi là cây lớn,
Gặp mưa được tăng trưởng.
Từ câu “Nếu là hàng Bồ Tát, có trí tuệ vững chắc” trở đi là tiểu ý thứ ba gồm 1 khổ rưỡi kệ, nêu nghĩa [hàng Bồ Tát] Thông giáo được tăng trưởng. “Vững chắc” là thể của trí tuệ chánh pháp, “thấu suốt trong ba cõi” là dứt trừ hết lậu hoặc.
Từ câu “Bậc trụ trong thiền định” trở đi là tiểu ý thứ tư, có 2 khổ kệ, nêu nghĩa [hàng Bồ Tát] Biệt giáo được tăng trưởng. Đại lược là như thế.
Hỏi: [Kinh văn nói thí dụ] một vầng mây, một cơn mưa, so với một âm thanh [thuyết pháp] là cùng [một ý nghĩa] hay khác nhau?
Đáp: [Hàng Bồ Tát ở] các giai vị thấp dùng một âm thanh khiến cho chúng sanh được nghe một pháp. Đức Phật dùng một âm thanh nhưng chúng sanh tùy mỗi loài đều nhận hiểu được [theo tiếng nói của mình]. Nay [kinh văn nói] “một vầng mây, một cơn mưa” chính là ý nghĩa “một âm thanh của Phật, tùy mỗi loài [đều có thể nhận hiểu]”.
Có người giải thích rằng, pháp thân chẳng phân hai nên gọi là một. Từ pháp thân phát xuất âm thanh cho nên nói là một âm. Có người khác lại giải thích, vì cùng lúc phát ra nhiều âm thanh cho nên nói là một âm. Lại có người nói, trong 5 thang âm, tùy [chỗ thích hợp] mà dùng một âm.
[Nay biện bác rằng,] Đại luận có nói [Phật dùng] một âm diễn thuyết nhiều âm thanh, nhưng không nói [các âm thanh ấy] phát ra cùng một lúc, cũng không nói từ pháp thân phát xuất âm thanh. Luận Tỳ-bà-sa nói rằng, đức Phật dùng một âm thanh thuyết pháp Tứ đế, 5 người [trong nhóm Kiều-trần-như] nghe đó là tiếng nói của người, 80.000 vị trời nghe đó là tiếng của cõi trời, [chúng sanh ở] địa ngục, quỷ dạ-xoa… mỗi loài đều nghe [Phật nói] đồng ngôn ngữ của mình. [Kinh nói Phật] tuyên cáo lên đến cõi Phạm thiên, đó tức là tiếng của cõi trời. Lại nữa, Phật có phước báo được tiếng nói thanh tịnh, vi diệu bậc nhất nên xưng tán là âm thanh cõi trời. Nếu do phước báo mà [thật sự] được âm thanh cõi trời thì loài người không thể nghe [Phật thuyết pháp], nếu nghe được cũng không thể hiểu.
KINH VĂN
Như vậy đó, Ca-diếp!
Giáo pháp Phật thuyết dạy,
Ví như vầng mây lớn,
Đổ xuống một cơn mưa,
Tưới mát hoa nhân loại,
Giúp cho đều kết quả.
Ca-diếp! Ông nên biết,
Việc dùng các nhân duyên,
Với đủ mọi thí dụ,
Để chỉ bày đạo Phật,
Là phương tiện của ta,
Chư Phật cũng như vậy.
Nay ta vì các ông,
Nói điều chân thật nhất:
“Hết thảy hàng Thanh văn,
Đều chưa được Niết-bàn,
Những gì các ông làm,
Đều là đạo Bồ Tát,
Dần dần tu học tiếp,
Chắc chắn sẽ thành Phật.
Từ câu “Như vậy đó, Ca-diếp!” trở đi là tiểu đoạn thứ hai gồm 5 khổ kệ, tụng lại ý nghĩa kinh văn phần trước nêu thí dụ không khác biệt. Tiểu đoạn này chia thành 2 phân đoạn. Phân đoạn thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ, tụng nghĩa không khác biệt của sự khác biệt. Phân đoạn thứ hai gồm 3 khổ rưỡi kệ, tụng nghĩa khác biệt chính là không khác biệt.
“Ví như vầng mây lớn, đổ xuống một cơn mưa” là tụng nghĩa tương hợp phần trước nói “từ mây kia đổ xuống, cùng một loại nước mưa”, không có khác biệt.
“Tưới mát hoa nhân loại, giúp cho đều kết quả” là tụng lại phần trước nói nghĩa khác biệt.
Từ câu “Ca-diếp, ông nên biết, việc dùng các nhân duyên” trở đi là [phân đoạn thứ hai, có 2 ý].
[Ý thứ nhất gồm 1 khổ rưỡi kệ] nêu nghĩa quyền thừa; quyền thừa tức là pháp có khác biệt, tương hợp với [ý nghĩa kinh văn] phần trước [nêu thí dụ các loài cỏ cây] được sanh ra [từ đất].
Ý thứ hai từ câu “nay ta vì các ông” trở đi, [gồm 2 khổ kệ], nêu nghĩa hiển bày pháp thật. Pháp thật tức là không có khác biệt, tương hợp với [ý nghĩa kinh văn phần trước nêu thí dụ] cùng một mặt đất. “Đều chưa được Niết-bàn” là nói chưa thoát khỏi biến dịch sanh tử.
Ở đây chỉ nói riêng đến hàng Nhị thừa là muốn vì các vị này xác chứng, bảo đảm chắc chắn. Hàng trời, người [tu tập] chứng quả không kể là Niết-bàn. Hàng Bồ Tát giữa đường tu tập không chấp giữ quả vị đã chứng.
“Những gì các ông làm, đều là đạo Bồ Tát.” Vì Bồ Tát trên đường hành đạo cũng tu tập dứt trừ thông hoặc. Hàng Thanh văn đã dứt trừ hết thông hoặc, nên cũng chính là đạo Bồ Tát. Luận Pháp hoa nói rằng: “[Hàng Nhị thừa] phát tâm rồi thối thất, rồi phát tâm trở lại, bao nhiêu việc thiện đã tu tập trước đây đều chẳng mất, về sau chứng quả cũng đồng [như hàng Bồ Tát].” Trí tuệ dứt trừ lậu hoặc[73] của hàng Nhị thừa chính là đạo Bồ Tát. Do hàng Nhị thừa bám chấp nơi quả vị đã chứng, [nên Phật] quở trách, nói rõ đó chính là đạo Bồ Tát. Nói đạo [của hàng Nhị thừa và Bồ Tát giống nhau] tức là nhân [tu tập giống nhau].
Hỏi: Nhưng Bồ Tát cũng có quả Bồ Tát. Phẩm Tin hiểu nói rằng: “Đã đạt đạo, chứng quả.” Đại phẩm [Bát-nhã] nói rằng: “Có pháp [tu tập] là đạo Bồ Tát, không còn pháp [nào phải tu tập] là quả Bồ Tát.” Vì sao [kinh văn ở đây] không nói “đều là quả Bồ Tát”?
Đáp: Nghĩa này cũng có thể dùng được. Nay giải thích rằng, hoặc nói đạo [Bồ Tát], hoặc nói quả [Bồ Tát], cả hai đều là nhân thành Phật. Nhân ở đây tức là đạo [Bồ Tát].
____________________________________
CHÚ THÍCH
[1] Năm cơ quan nội tạng là tim, gan, phổi, thận và dạ dày.
[2] Văn Cú trích dẫn gộp các phần kinh văn này thành một và chỉ nói lược, chúng tôi dẫn lại đầy đủ theo kinh văn.
[3] Văn Cú nói “Sư vân - 師云” (thầy nói rằng). Văn Cú Ký giải thích, “Sư” chính là chỉ đến ngài Nam Nhạc Tuệ Tư (南嶽慧思), tức là thầy của Đại sư Trí Khải.
[4] Chỗ này Văn Cú nói “天性結緣 - thiên tánh kết duyên”, theo cách dùng trong sách này thì “thiên tánh” chỉ chân tánh, thật tánh hay tánh Phật. Tất cả chúng sanh đều sẵn có tánh Phật nên đó là sự kết duyên với Phật. Tuy nhiên, Văn Cú Ký giải thích rằng “thiên tánh” là chỉ cho đạo tràng của Phật Đại Thông Trí Thắng, tức là nói nhân duyên từ quá khứ. Giải thích như vậy là nói về sự, còn theo lý mà nói thì duyên với chư Phật chính là tánh Phật.
[5] Chỗ này Văn Cú chép rất khó hiểu: “自微自著無量無邊諸恩德也。 - Tự vi tự trước vô lượng vô biên chư ân đức dã.” Chúng tôi dựa theo giải thích của Văn Cú Ký để hiểu và chuyển dịch: “自微等者, 自從也。從小之大至第十恩故云諸也。 - Tự vi đẳng giả, tự tùng giả. Tùng tiểu chi đại chí đệ thập ân cố vân chư dã.”
[6] Văn Cú dùng “lưỡng xứ” (hai chỗ). Văn Cú Ký giải thích rằng 2 chỗ là nói đến ý nghĩa phương tiện của thí dụ “căn nhà đang cháy”, do trong phẩm Tin hiểu có 2 chỗ nêu sự nhận hiểu, nay ở đây cũng nhắc lại 2 chỗ nhận hiểu.
[7] Ở đây chỉ giáo pháp Tiểu thừa.
[8] Chỗ này Văn Cú lấy theo ý trong phần kệ tụng ở sau: “Hoặc ở giữa trời, người, làm Chuyển luân Thánh vương, hoặc Đế thích, Phạm vương, là hạng cỏ thuốc nhỏ.”
[9] Hàng Nhị thừa là chỉ đến hai pháp giới Thanh văn và Duyên giác, do vậy nói còn lại 8 pháp giới khác.
[10] Đây là nói đến tất cả những chúng sanh có khả năng tu tập thành Phật, bao gồm: 1. Nhân thừa, 2. Thiên thừa, 3. Thanh văn thừa, 4. Duyên giác thừa, 5. Bồ Tát Thừa của Tạng giáo, 6. Bồ Tát Thừa của Thông giáo và 7. Bồ Tát Thừa của Biệt giáo. Vì trừ ra 2 hạng Thanh văn và Duyên giác nên ở đây nói còn 5 hạng phương tiện khác.
[11] Văn Cú dùng “初阿 - sơ a” để chỉ mẫu tự đầu tiên trong 42 mẫu tự của Phạn ngữ và “後茶 - hậu trà” là mẫu tự cuối cùng. Ngài Nam Nhạc Tuệ Tư (thầy của Đại sư Trí Khải) có soạn sách Tứ thập nhị tự môn nghĩa (四十二字門義) nay không còn nữa, nhưng nội dung được biết là giải thích phối hợp 42 mẫu tự của Phạn ngữ với 42 giai vị tu hành của hàng Bồ Tát. Ý tưởng của Văn Cú ở đây hẳn là có chịu ảnh hưởng từ ngài Nam Nhạc Tuệ Tư.
[12] Ở đây chỉ giáo pháp Tiểu thừa.
[13] Năm đường: chỉ các cảnh giới trời, người, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. Khái niệm này cũng tương đương với “sáu đường”, là có thêm cảnh giới a-tu-la. Khi nói năm đường là cho rằng a-tu-la không phải một cảnh giới riêng biệt, mà tùy nghiệp tái sinh vào một trong hai cõi, cõi trời hoặc cõi người. Câu hỏi này để minh chứng cho ý nghĩa một pháp chân thật (hay tánh Phật) luôn tồn tại nơi mỗi chúng sanh trong suốt dòng thời gian, cho dù có luân chuyển qua bao nhiêu cảnh giới. Nói theo Văn Cú tức là theo chiều dọc.
[14] Câu hỏi này để minh chứng cho ý nghĩa bảy hạng phương tiện luôn hiện hữu đồng thời trong khắp thảy không gian, nói theo Văn Cú tức là theo chiều ngang.
[15] Văn Cú dùng “事度 - sự độ”, nghĩa là những sự việc giúp độ thoát khổ não. Ở đây chỉ giới luật do Phật chế định và các nghiệp lành giúp không rơi vào các đường ác.
[16] Văn Cú dùng “偏圓兩境 - thiên viên lưỡng cảnh”, thiên (偏) là thiên lệch, không trọn vẹn, nên thiên cảnh là chỉ cho cảnh giới tương đối của pháp quyền; viên (圓) là viên mãn, trọn vẹn, tròn đầy, nên viên cảnh là chỉ cho cảnh giới tuyệt đối của pháp thật.
[17] Nguyên tác dùng tam đạo (三道) để chỉ hoặc đạo (惑道), nghiệp đạo (業道) và khổ đạo (苦道).
[18] Nguyên tác dùng lục tế (六蔽), chỉ sáu tâm che chướng bao gồm: tham lam, sân hận, si mê, phá giới, lười nhác và tán loạn.
[19] Nguyên tác dùng tứ trụ (四住) và ngũ trụ (五住). Tứ trụ tức tứ trụ địa hoặc (四住地惑), bao gồm Nhất thiết kiến trụ địa hoặc (一切見住地惑), Dục ái trụ địa hoặc (欲愛住地惑), Sắc ái trụ địa hoặc (色愛住地惑), Hữu ái trụ địa hoặc (有愛住地惑). Ngũ trụ địa hoặc cũng bao gồm tương tự và có thêm Vô minh trụ địa hoặc (無明住地惑). Đây đều là các yếu tố làm khởi sinh phiền não.
[20] Chỗ này Văn Cú diễn đạt rất khó hiểu: “如地無差別草木若干若干無若干無若干若干。 - Như địa vô sai biệt, thảo mộc nhược can, nhược can vô nhược can, vô nhược can nhược can.” Chúng tôi dựa vào giải thích của Văn Cú Ký như sau: “若干者, 若如也。如彼法體, 法體本空, 故若干無若干。 - Nhược can giả, nhược như dã. Như bỉ pháp thể, pháp thể bản không, cố nhược can vô nhược can.” Như vậy, cụm từ “nhược can” vốn có 2 nghĩa, hoặc chỉ một số lượng không xác định, như “bao nhiêu”, hoặc đồng nghĩa với “nhược như”, nghĩa là giống như. Theo Văn Cú Ký thì ở đây dùng nghĩa “giống như, giống nhau”. Cũng như các pháp tuy thiên hình vạn trạng khác biệt nhau nhưng bản thể vốn là không nên nói là giống nhau. Do vậy ở đây nói rằng cây cỏ trên mặt đất “giống nhau là không giống nhau”. Tức là muốn nói đến sự tương đồng về bản chất rốt ráo.
[21] Trong kệ tụng phần sau phân chia ba hạng cỏ thuốc nhỏ, trung bình và bậc cao; 2 hạng cây là cây nhỏ và cây lớn.
[22] Tập nhân (習因), dịch từ Phạn ngữ sabhāga-hetu, nhân được tạo ra theo thói quen, ý niệm trước và ý niệm sau nối tiếp giống nhau nên gọi là “tập”. Theo Tân dịch là đồng loại nhân (同類因), tức là các nhân cùng loại với nhau. Chúng sanh do các tập nhân này mà dễ dàng tạo nghiệp. Kinh Lăng nghiêm, quyển 8, kể ra 10 tập nhân là: 1. Dâm tập nhân: thói quen dâm dục; 2. Tham tập nhân: thói quen tham lam; 3. Mạn tập nhân: thói quen kiêu mạn; 4. Sân tập nhân: thói quen sân hận; 5. Trá tập nhân: thói quen dối trá; 6. Cuống tập nhân: thói quen lừa gạt; 7. Oan tập nhân: thói quen oán ghét hận thù; 8. Kiến tập nhân: thói quen cố chấp theo tà kiến, định kiến; 9. Uổng tập nhân: thói quen vu cáo,nói điều không có cho người khác; 10. Tụng tập nhân: thói quen tranh tụng, kiện thưa.
[23] Tập quả (習果), dịch từ Phạn ngữ niṣyanda-phala, do tập nhân tạo thành nên gọi là tập quả. Theo Tân dịch là đẳng lưu quả (等流果), nghĩa là quả tương đương, cùng mức độ, hạng loại như nhân đã tạo.
[24] Ở đây nhắc lại 6 tiểu ý đã nói ở trước về cấu trúc của thí dụ này: Thứ nhất là nói mặt đất, thứ hai nêu cỏ cây, thứ ba nói đến mây đen, thứ tư nói mưa xuống, thứ năm nói sự thấm nhuần và thứ sáu nói sự tăng trưởng. Lập luận ở đây là các nhà cựu giải không thấy được cấu trúc 6 tiểu ý này nên đã giải thích rối loạn, không phù hợp.
[25] Văn Cú Ký giải thích rằng đây là nói hàng Bồ Tát Thông giáo và Bồ Tát Biệt giáo.
[26] Văn Cú dùng “七善 - thất thiện”, Văn Cú Ký giải thích rằng đây là chỉ “七方便 - thất phương tiện”, tức bảy hạng phương tiện. Kết hợp với 5 thừa thì ở đây chỉ tất cả chúng sanh ở các giai vị tu tập khác nhau.
[27] Ba sự ẩn mật, tức tam mật (三密), chỉ cho ba nghiệp thân, khẩu và ý của chư Phật là sâu xa khó nhận biết đối với phàm phu. Nguyên tác Văn Cú giải thích dựa theo sự tương đồng về ngữ nghĩa vì mật vân (密雲) nghĩa là đám mây đen dày nên được cho là ví như tam mật (三密), tức là thân mật, khẩu mật và ý mật.
[28] Kinh luật dị tướng (經律異相), 50 quyển, Bảo Xướng sưu tập vào đời Lương, đưa vào Đại Chánh tạng, thuộc tập 53, số 2121. Chúng tôi chưa tìm thấy đoạn trích dẫn này.
[29] Văn Cú dùng “八音 - bát âm”, chỉ 8 tính chất trong âm thanh thuyết pháp của đức Phật, bao gồm: 1. Âm thanh tốt nhất, không có âm thanh của chư thiên hay loài người có thể tốt đẹp hơn; 2. Âm thanh êm dịu, khiến chúng sanh ưa thích muốn nghe; 3. Âm thanh hòa nhã, không có sự xung khắc, mâu thuẫn; 4. Âm thanh trí tuệ tôn quí, sáng suốt soi thấu nên đi vào tâm niệm chúng sanh; 5. Âm thanh không yếu mềm, có thể khiến cho hết thảy người nghe đều kính ngưỡng, thiên ma ngoại đạo đều khiếp sợ, quy phục; 6. Âm thanh không nhầm lẫn, khiến người nghe luôn nhận hiểu rõ ràng, không sai lệch; 7. Âm thanh sâu xa, có thể vang xa đến mười phương nhưng chúng sanh ở gần cũng không nghe quá lớn; 8. Âm thanh không cùng tận, những lời Phật nói ra nghĩa lý sâu xa, chúng sanh suy xét không thể nào cùng tận.
[30] Văn Cú dùng “tứ biện” để chỉ bốn trí vô ngại, cũng gọi là bốn biện tài vô ngại của đức Phật, bao gồm: 1. Pháp vô ngại biện; 2. Từ vô ngại biện; 3. Nghĩa vô ngại biện và 4. Nhạo thuyết vô ngại biện. Đức Phật dùng trí tuệ sáng suốt không ngăn ngại để thuyết pháp cho chúng sanh, do vậy nên bốn trí vô ngại cũng gọi là bốn biện tài vô ngại.
[31] Cũng tức là 7 hạng phương tiện thường đề cập trong sách này, gồm nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ tát thừa của Tạng giáo, Bồ tát thừa của Thông giáo và Bồ tát thừa của Biệt giáo.
[32] Văn Cú dùng chữ “大段 - đại đoạn” để chỉ đoạn văn này, theo cấu trúc chung là tiểu ý thứ hai.
[33] Đạo tiền (道前), cũng được gọi là địa tiền (地前), chỉ các giai vị Thập tín, Thập trụ, Thập hành, Thập hồi hướng, tức là chưa đạt đến Thập địa.
[34] Bồ Tát từ Sơ địa lên đến Thập địa gọi là Đạo trung (道中), nghĩa là đang tu tập trí vô phân biệt. Từ khi đạt tâm Kim cương trở lên, tu hành chứng ngộ rốt ráo gọi là Đạo hậu (道後).
[35] Năm thừa: chỉ nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa. Văn Cú dùng “五種善根 - ngũ chủng thiện căn” (5 loại căn lành) nhưng theo ngữ cảnh đang giảng giải ở đây là chỉ đến căn lành của chúng sanh trong 5 thừa. Văn Cú Ký cũng giải thích tương tự: “五種善根即五乘也。 - Ngũ chủng thiện căn tức ngũ thừa giả.”
[36] Hóa chủ (化主), bậc đứng đầu trong việc giáo hóa chúng sanh, thường có nghĩa là trong một cõi thế giới. Vì thế, hóa chủ của cõi Ta-bà là đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
[37] Trong 6 cõi bao gồm: trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì 3 cõi trời, người, a-tu-la được xem là 3 cõi lành hay 3 đường lành; địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh là 3 cõi xấu ác hay 3 đường ác.
[38] Ở đây có 2 nghĩa. Thứ nhất là nói chúng sanh vâng lời Phật dạy, giữ giới làm lành nên thoát 3 đường ác, sanh 3 đường lành, đó là lợi ích. Thứ hai là nói những chúng sanh trong 3 cõi lành mới đủ nhân duyên được đức Phật hiện thân giáo hóa bằng lời.
[39] Văn Cú dùng “四弘 - tứ hoằng”, tức tứ hoằng thệ nguyện hay bốn nguyện lớn, bao gồm: 1. Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ; 2. Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn; 3. Pháp môn vô lượng thệ nguyện học; 4. Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
[40] Văn Cú dùng “三達 - tam đạt”, tức là cách gọi khác của tam minh (三明), ba trí sáng suốt của chư Phật, bao gồm: 1. Túc mệnh trí chứng minh; 2. Sanh tử trí chứng mình; 3. Lậu tận trí chứng minh.
[41] Nhất tâm tam trí (一心三智), tức là ngay trong một tâm của chư Phật có đủ 3 trí, bao gồm Nhất thiết trí, Đạo chủng trí và Nhất thiết chủng trí.
[42] Đây là nói về “三不護 - tam bất hộ” của chư Phật. Hết thảy chúng sanh nếu muốn được an vui thì phải luôn phòng hộ ba nghiệp thân, khẩu, ý. Chư Phật vì đã đạt đến sự giải thoát rốt ráo, ba nghiệp vốn tự thanh tịnh, không cần phải có sự giữ gìn phòng hộ mà vẫn luôn luôn thanh tịnh không ô nhiễm.
[43] Ở đây dùng 6 loại pháp môn (六種法門 - lục chủng pháp môn) nhưng thật ra là chỉ 6 ý nghĩa vừa được nêu ra trong đoạn kinh văn này, từ thứ nhất là 10 danh hiệu Phật cho đến thứ sáu là nêu 3 nghiệp thanh tịnh của chư Phật.
[44] Tiệm giáo, chỉ giáo pháp tu tập theo thứ lớp, dần dần từ thấp lên cao, cũng có nghĩa là giáo pháp Tiểu thừa, phân biệt với Đốn giáo là giáo pháp dẫn đến sự nhận hiểu tức thời, cũng được hiểu là giáo pháp Đại thừa.
[45] Ở đây Văn Cú dẫn trước nội dung kinh văn trong phẩm Thí dụ Hóa thành. Văn Cú chỉ lược trích, không dẫn lại nguyên văn kinh.
[46] Kinh văn dùng “餘國 - dư quốc”, Văn Cú giải thích rằng đó là cảnh giới bên ngoài ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới), vẫn có Phật, tức là “餘佛 - dư Phật”. Các vị A-la-hán nhập Niết-bàn Tiểu thừa tức là vượt ngoài ba cõi, nhưng vẫn còn có khả năng gặp “dư Phật” ở cảnh giới đó, được nghe kinh này để giác ngộ và đạt đến quả Phật.
[47] Văn Cú dùng “生身 - sanh thân”, chỉ thân xác thịt do cha mẹ sanh ra. Đối với chư Phật, Bồ Tát thì đây là ứng hóa thân, thị hiện giữa thế gian vì mục đích độ sanh.
[48] Ý nói là vị Duyên giác, hay Độc giác, có thể tự mình suy xét hiểu đạo, không phụ thuộc vào việc nghe pháp từ người khác như hàng Thanh văn.
[49] Hàm ý vị Bồ Tát tu tập Bồ Tát hạnh có đủ phước đức và trí tuệ, do vậy trong tâm có trí sáng suốt, bên ngoài có đủ hình tướng trang nghiêm tốt đẹp.
[50] Văn Cú ở đây có vài chỗ khó hiểu. Thứ nhất, dẫn Trí độ luận nói “ngũ thiện căn” nghĩa là 5 căn lành, nhưng Nguyên tác chỉ nói “ngũ thiện”, và ngữ cảnh ở đây cũng chỉ đến 5 cảnh giới lành. Thứ hai, Văn Cú nói “佛菩薩為五。 - Phật Bồ Tát vi ngũ.” Nói như vậy là lược bớt rất khó hiểu, vì Pháp hoa huyền luận nói đúng là: “佛菩薩為二善。 - Phật Bồ Tát vi nhị thiện.” Ý nghĩa đầy đủ chỗ này là “Phật và Bồ Tát là 2 cảnh giới lành, cộng với trước đó là 5”.
[51] Đây là nói chư Phật, Bồ Tát phân chia thành 2 cõi, hàng Nhị thừa hợp nhất thành 1 cõi.
[52] Đây là nói nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn thừa và Duyên giác thừa được phân chia riêng biệt, trong khi Đại thừa chỉ có một là Bồ Tát thừa.
[53] Kinh Thắng Man đưa ví dụ cõi đất có 4 kho báu (tứ tạng) so sánh với việc vị Bồ Tát hóa độ chúng sanh theo 4 hạng: Thứ nhất là hàng trời người, thứ hai là Thanh văn, thứ ba là Duyên giác và thứ tư là Đại thừa. Do vậy nói là kết hợp phàm (hợp trời và người thành một) và phân chia thánh (phân chia Thanh văn, Duyên giác, Đại thừa).
[54] Có nghĩa là hạng phàm được chia ra nhân thừa và thiên thừa, bậc thánh được chia thành 3 thừa Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát.
[55] Văn Cú nói là 6 “pháp môn”, nhưng thật ra là chỉ 6 nghĩa xưng tán Phật trong đoạn kinh trước, từ 10 danh hiệu Phật cho đến 3 nghiệp thanh tịnh của chư Phật.
[56] Không thấy Văn Cú nói đến tiểu ý thứ ba, lẽ ra là ứng hợp với thí dụ mặt đất.
[57] Văn Cú dùng “七相 - thất tướng” (7 tướng), Văn Cú Ký giải thích rằng đây là chỉ thất phương tiện.
[58] Tức là 7 thừa giáo pháp tương ứng với 7 hạng phương tiện: nhân thừa, thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ Tát thừa của Tạng giáo, Bồ Tát thừa của Thông giáo và Bồ Tát thừa của Biệt giáo.
[59] Ý nghĩa ở đây tương tự như trong kinh Duy-ma-cật có nói: “佛以一音演說法, 眾生各各隨所解。 - Phật dĩ nhất âm diễn thuyết pháp, chúng sanh các các tùy sở giải.” (Phật dùng một âm thanh diễn thuyết pháp, chúng sanh mỗi loài tùy theo đó nhận hiểu thích hợp.)
[60] Ở đây nêu giáo lý căn bản của 3 thừa. 4 đế dành cho Thanh văn thừa, 12 nhân duyên dành cho Duyên giác thừa và 6 ba-la-mật dành cho Bồ Tát thừa.
[61] Văn Cú dùng “五人 - ngũ nhân” chỉ người trong 5 thừa, ý nghĩa chính xác hơn là muốn chỉ đến chúng sanh trong các cảnh giới của 5 thừa: trời, người, Thanh văn, Duyên giác và Bồ Tát.
[62] Ở đây chỉ 3 phẩm đức của chư Phật, bao gồm pháp thân đức, bát-nhã đức và giải thoát đức.
[63] Văn Cú dùng “ngũ vô gián”, chỉ 5 tội nặng phải đọa vào địa ngục vô gián, cũng gọi là ngũ nghịch tội, bao gồm: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, làm thân Phật chảy máu và phá hòa hợp tăng.
[64] Ba loại trí tuệ, chỉ văn tuệ (do nghe pháp), tư tuệ (do suy xét pháp) và tu tuệ (do tu tập, thực hành pháp).
[65] Văn Cú gọi là Trung sư (忠師), chúng tôi chưa rõ là vị nào.
[66] Tức là các pháp thế giới tất đàn, vị nhân tất đàn và đối trị tất đàn.
[67] Ở đây liệt kê tương ứng với phần thứ hai ở trước, theo trình tự các thí dụ: thứ nhất là đám mây, thứ hai là mưa xuống, thứ ba là mặt đất, thứ tư là cỏ cây, thứ năm là sự thấm đẫm và thứ sáu là sự tăng trưởng của cỏ cây.
[68] Tức là 6 ý nghĩa này đã nói ở trước, bao gồm: Thứ nhất là 10 danh hiệu của chư Phật, thứ hai là 4 hoằng thệ nguyện, thứ ba là 3 trí sáng suốt, thứ tư là 1 tâm Phật có đủ 3 trí, thứ năm là Phật có đủ 5 loại mắt, thứ sáu là 3 nghiệp của chư Phật đều vận hành theo trí tuệ.
[69] Hai ý ở đây tức là nói về 10 danh hiệu của chư Phật và 4 hoằng thệ nguyện, lược 4 ý theo sau.
[70] Trong đoạn văn này Văn Cú mô tả việc phân chia cấu trúc không đủ chi tiết nên rất khó hiểu, chúng tôi phải kết hợp giữa ý nghĩa các đoạn và cấu trúc tổng thể để hiểu đúng và bổ sung các chi tiết phân chia cấu trúc của đoạn này. Độc giả có thể xem cấu trúc chung trong biểu đồ ở đầu phẩm.
[71] Văn Cú dùng “誓扶餘習 - thệ phù dư tập” là cách nói lược rất khó hiểu. Tham khảo Duy-ma kinh lược sớ thùy dụ ký (維摩經略疏垂裕記) quyển 2, thấy giải thích cách dùng này là: “願扶餘習者, 以習為入生死之種, 誓願扶之受身利物。 - Nguyện phù dư tập giả, dĩ tập vi nhập sanh tử chi chủng, thệ nguyện phù chi thọ thân lợi vật.” Như vậy, “dư tập” ở đây chỉ những tập khí còn sót lại, chưa dứt trừ hết. Vị Bồ Tát dùng chính những tập khí này để phát nguyện thọ thân trong sanh tử mà giáo hóa, làm lợi ích cho chúng sanh.
[72] Tức là chỉ 5 thời thuyết pháp, từ Hoa nghiêm, A-hàm, Phương đẳng, Bát-nhã và Pháp hoa-Niết-bàn, được ví như 5 vị được chế biến từ sữa. Hàng Nhị thừa theo Phật được nghe đầy đủ cả 5 thời thuyết pháp này.
[73] Nguyên tác dùng “智斷 - trí đoạn”, chỉ trí tuệ có công năng dứt trừ lậu hoặc.
Lá thư hằng tuần và Chia sẻ Phật pháp bài số 1 - năm 2024
Về mối quan hệ giữa tiếng Việt và tiếng Hán với nguồn gốc dân tộc Việt Nam
Giấc mơ Phù Đổng
Niệm Phật Tam-muội
Thế nào là pháp vi diệu?
Chương 19: Từ thiền định đến hành động
Ngắm ảnh xưa ngâm bài thơ bất hủ
Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63) 

Trang chủ







