Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Người trí dù khoảnh khắc kề cận bậc hiền minh, cũng hiểu ngay lý pháp, như lưỡi nếm vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 65
Tìm lỗi của người khác rất dễ, tự thấy lỗi của mình rất khó. Kinh Pháp cú
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Khi ăn uống nên xem như dùng thuốc để trị bệnh, dù ngon dù dở cũng chỉ dùng đúng mức, đưa vào thân thể chỉ để khỏi đói khát mà thôi.Kinh Lời dạy cuối cùng
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Tam Di Để Bộ Luận [三彌底部論] »» Bản Việt dịch quyển số 2 »»

Tam Di Để Bộ Luận [三彌底部論] »» Bản Việt dịch quyển số 2


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.27 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.38 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Luận về Tam Di Để Bộ

Kinh này có 3 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 |
Việt dịch: Thích Như Điển

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Như các bộ phái khác đã nói phía trước rằng con người là thường, không có gốc gác. Như vậy bây giờ chúng ta nói:
Nếu không có gốc gác ấy thành thường thì sự sanh tử không có gốc gác lại cũng là thường. Lời nầy chẳng phải như vậy. Con người không có gốc gác cũng chẳng thể nói như vậy.
Như các bộ phái khác đã nói ở trước rằng con người là thường, nhớ về đời quá khứ. Như vậy bây giờ chúng ta nói:
Nếu ta ấy chắc khác với ấm thì khi ấm hoại con người không mất; nên lúc nhớ về quá khứ chỉ với người nầy mà chẳng có người khác, mà sự lưu chuyển sanh tử thì không đoạn tuyệt. Điều nầy nói chẳng phải như thế.
Như các bộ phái đã nói phía trước rằng con người là thường và nói về xứ là như vậy. Bây giờ chúng ta nói:
Đoạn khổ lưu diệt cho đến Hữu Dư Y Niết Bàn, do thân tồn tại nên có tên gọi và qua bờ bên kia để ở. Bà La Môn cũng đến Vô Dư Y Niết Bàn, liền đến được Vô Dư Y Niết Bàn. Đây là điều Phật đã nói, nên chẳng nói con người là thường, là như vậy.
Như các bộ phái đã nói phía trước rằng con người thường đến bất động lạc. Như thế bây giờ chúng ta lại nói:
Lúc chứng Vô Dư Niết Bàn liền đến chỗ bất động lạc (niềm vui bất động). Nếu con người là thường thì chẳng sanh chẳng tử như Niết Bàn vậy. Chẳng sanh chẳng tử của thân lại cũng chẳng khác. Trí tuệ nầy ở nơi nơi xứ xứ lại cũng chẳng khác. Ăn, chẳng ăn, niềm vui ấy chẳng khác với sự thường hằng. Chẳng hề quên việc của quá khứ. Vì thường hằng cho nên không biến khác; lại cũng chẳng bị trói buộc và chẳng bị cởi trói. Cho nên con người thường hằng ấy, đây là lời nói nên giữ lại, là như thế.
Như các bộ phái đã nói phía trước rằng con người là vô thường và có gốc gác.
Như thế ta nay lại nói:
Có lậu khởi lên và đây gọi tên là con người với điều nầy chẳng thể nói ấm và người khác nhau. Cho nên con người khởi lên thì chẳng thể nói. Dùng điều nầy làm giả thuyết, giống như đã giải đáp phía trước.
Phật lại nói khác rằng:
Nếu con người vô thường thì chẳng sanh luân chuyển, tạo tác thiện, ác nghiệp hoại đi; chẳng tự tạo thiện, ác nghiệp mà nó tự đến, chẳng có nguyên nhân ở trước. Tất cả chúng sanh chắc chắn là một loại chẳng tạo nghiệp; nên kẻ được giải thoát ấy chẳng do nghiệp mà tự tạo thành. Liền cũng chẳng do nghiệp tự thành các công đức. Không có chỗ sanh ra ở đời trước, lại cũng chẳng thể nhớ nghĩ. Cho nên con người vô thường, với lời nói nầy nên giữ lại, là như thế.
Dùng giả thuyết nầy tức là đáp lại sự giải thích phía trước, cho đến các pháp không sanh và các pháp về sanh, lão, bệnh, tử... Con người vô thường là thế.
Hỏi rằng: Vì sao bảo là có con người ?
Đáp rằng: Phật bảo có ba loại người.
Hỏi rằng: Những gì là ba ?
Đáp rằng: Nương vào để nói con người rồi nói con người mất, rồi nói con người (kẻ nói ấy bị gọi tên an, lại gọi tên chế và lại gọi tên giả).
Hỏi rằng: Tại sao lại nương vào để nói ?
Đáp rằng: Như Phật đã dạy, nói lời Bạt Bà Gia. Đây chính là hành sở, nương tựa vào để nói. Đây chính là tên an.
Tên nầy nương vào để nói giống như lửa. Như Phật bảo Xá Lợi Phất – Có người tên là voi, trắng sạch dễ thương. Tứ đại tạo thành và có tên là ta. Như thế tất cả lại cũng giống như sữa. Như vậy nương vào kinh điển để nói; đây gọi tên là nương vào để nói.
Giống như hình tướng, được hình tướng người và sự được hình tướng người ấy khó thể nói. Sự khác hình tướng và sự khác hình tướng ấy khó nói. Khác nhau mà được hình tướng người rồi nương vào hình tướng ấy để được gọi là nương vào hình tướng người. Nếu người nói: Sắc nầy chính là ta thì sắc nầy đã thành tên mà ta thấy. Nếu người nói sắc ấy chính là ta thì 5 ấm quá khứ chính là người. Phía trước đã nói việc thành nầy là sự sai trái.
Lại nói: Nếu người nói: Được sắc là người và khác với sắc; nên gọi là khác với cái ta thấy. Nếu người nói khác ngã thì lấy người của quá khứ ấy khác với năm ấm, thành ra điều nầy sai.
Được tướng của con người là từ việc nầy. Không phải là chơn thuyết. Nếu người nói: Sắc là được từ sắc tướng của con người và từ đây việc nầy trở thành tà kiến. Nếu là kẻ tà kiến thì nói lời vô ngã. Điều nầy đã nói qua phía trước, thành ra đều không đúng là như vậy. Đây chính là ba điều sai.
Cho nên thật khác tà kiến; chẳng theo thật dị, chẳng theo tà kiến. Nương vào hình tướng được hình tướng con người là điều có thể nói. Cho nên được hình tướng của con người cộng với hình tướng thật là điều có thể nói.
Do vậy có lúc sắc khởi lên; có lúc sắc ấy thành hình tướng con người lại khởi lên và có lúc sắc ấy mất đi. Lúc ấy được hình tướng con người lại cũng mất đi. Chẳng như thế thì chẳng thể nói. Như vậy ngũ ấm, 12 cửa ngõ; 5 đường mà trong đường ấy của A Tu La và ấm ấy chính là 7 đường của con người. Sanh có nơi – Ca La La, A Phù Đà, Na Nhục Đoàn Chi. Khi đứa bé mới sanh còn nhỏ rồi trung niên, già cả, lành dữ ghi vào tâm. Giới luật bị phạm như thế trên tất cả đều hòa hợp và chẳng hòa hợp. Nương vào các pháp phía trên có tên là nương vào thuyết con người, có thể rõ biết vậy.
Hỏi rằng: Vì sao nói con người qua khỏi ?
Đáp rằng: Lấy lúc nầy độ cho lúc khác. Phật gọi là độ chúng sanh; nhưng vì sao lại nói: Độ thuyết chúng sanh ? Nói về quá khứ, nói về vị lai và nói về hiện tại. Vì sao nói về quá khứ ?
Như Thiên Sứ Tu Đa La nói về chỗ khải thỉnh Diêm La; người nầy trước chẳng rõ cha mẹ, huynh đệ v.v... chẳng rõ công đức; chẳng biết thiện, ác v.v.. Mong dạy cho điều nầy là như thế.
Như Phật đã dạy rằng: Trong một thời của kiếp quá khứ ta đã từng làm Đảnh Sanh Vương; nên đây gọi là nói về quá khứ.
Sao lại còn nói về vị lai ?
Như Phật đã nói rằng: Trong khi còn làm Chuyển Luân Thánh Vương, lúc đầu nhập vào thai mẹ như nhập vào điện đường là như thế. Như Đức Phật nói về Đức Di Lặc, A Dật Đa sau nầy thành Phật có tên là Từ Thị. Tên nầy nói vào thời tương lai, là như thế.
Sao lại nói về hiện tại ?
Đáp rằng: Như Phật thường hay nói về người An Già, có tai hay đeo nhiều loại trang sức và ngay ở tay chân cũng vậy. Như Phật đã nói: Bậc Đại phú Trưởng Giả có nhiều tài sản quý báu được như ý lớn, là như thế. Đây gọi tên là nói về hiện tại. Phật nương vào việc làm của 3 đời chế ra 3 cách gọi, như thế phải nên rõ.
Do việc làm trải qua như vậy; nên gọi là độ thuyết.
Sao lại bảo rằng diệt thuyết ?
Đáp: Tùy theo nương vào người nói và người độ. Phật nói diệt thuyết nhơn; có nghĩa là như trong quá khứ lúc thân thể hoại diệt; đây gọi tên là diệt thuyết, là như thế.
Như Phật đã nói: Lậu tận Tỳ Kheo, ngũ ấm vô thường diệt. Đây gọi là diệt thuyết. Như Phật nói kệ rằng:
Kẻ trí chưa thể lường
Được đến vô động lạc
Đây gọi là diệt thuyết, như thế thấy và nương vào đó để nói. Còn độ thuyết chính là nói có người khi xả ngũ ấm anh hữu xứ và khi thọ ngũ ấm có hữu là như vậy.
Còn kiến diện thuyết thì Phật nói lại không có thọ, ấm, xứ là như vậy.
Hỏi rằng: Vì xả ngũ ấm diệt tận, giốngnhư hữu sở dư ?
Đáp rằng: Nghi chỗ nào? Rằng: Trước đó thấy ý của Thầy hay chống trái nhau; nên sanh nghi. Cũng có các bộ phái khác thấy ngũ ấm một bên. Từ đây có qua bên hữu kia. Như thế là vì sao? Do thức sanh ra vậy.
Phật bảo: Người nầy rõ biết giới huân, định huân và đây là thức thượng sanh thắng xứ. Phật lại nói kệ rằng:
Thiện ác hai loại nghiệp
Nghiệp nầy người đời tạo
Nghiệp nầy là vật nầy
Tự nắm, tự chạy theo
Ấm thô là ác nghiệp
Ấm tế là thiện hạnh
Thiện ác hai đều tạo
Tùy chấp theo đó đi.
Người nầy vãng sanh, thọ cái nghĩa gốc nầy. Nên đây nói là kỳ độ. Người có thiên nhãn thấy được sự qua khỏi nầy.
Như Phật bảo các vị Tỳ Kheo rằng: Ta thấy chúng sanh bị sanh là như vậy và tất cả cũng là vậy. Còn các bộ phái khác thấy ngũ ấm một bên. Từ đây có qua bên hữu kia, là như thế.
Các bộ phái khác lại nói về người cũng như thế. Từ đây có qua hữu kia. Đó chẳng phải là ấm. Vì sao vậy? Phật nói kệ rằng:
Đời nầy vui hoan hỷ
Đời khác lại vui hơn
Tạo phước hai đời vui
Tự thấy nghiệp tịnh nầy
Giáp căn sanh đường lành
Chẳng giúp đọa đường ác
Phật lại bảo rằng: Sự chết nầy rơi vào chỗ sanh là như thế. Cho nên như các bộ phái khác thấy người cũng như thế. Từ đây có qua kia, có phi ấm, là như vậy. Lại cũng có những bộ phái khác nói không có người. Từ có nầy qua có kia. Vì sao vậy? Như Phật đã nói với người trời mới là con người thấy như thế.
Phật lại bảo rằng: Đó chính là nương vào chỗ việc làm. Đây chính là tên thọ. Như lửa nương vào củi và thọ lãnh tên nầy là như thế.
Phật lại nói tất cả người có đức khi sanh ra trong đời nầy thì nhiều người nhận được niềm vui. Như thế đời trước đã sanh rồi, chẳng phải sanh lại nữa. Cho nên gọi là không có người. Xả bỏ cái nầy, qua cái kia có; cho nên sanh ra nghi ngờ.
Rằng: Như trước đã hỏi vì xả bỏ ngũ ấm diệt tận giống như là hữu sở dư. Bây giờ nếu xả ngũ ấm thì ngũ ấm không còn dư lại cái gì. Từ cái hữu nầy qua cái hữu kia, như Phật nói kệ rằng:
Buông bỏ hình người nầy
Thọ thân trời đầy đủ
Như Phật nói rằng: Con người không có gì, vì tất cả của cải quý báu cũng xả bỏ tùy theo từng nơi như thế. Phật cũng nói cho đến khi chết, xả bỏ thân nầy thì xúc ấy tự đi, mà khi còn sống thì nói rằng: Tất cả là của tôi (có sự hiện hữu của ngã). Khi chết đi, tất cả đều phải bỏ tất cả và cảm xúc (sự xúc chạm) cũng tự rời khỏi. Giới định duyên vào tâm ấy và do thiện nghiệp nên sanh thiên. Cho nên Phật nói rằng thiện tâm là vậy; điều ấy có thể sanh về cõi trên. Do đó khi xả bỏ ngũ ấm hết rồi, liền sanh về nơi tốt đẹp kia. Nương theo nghiệp chẳng mất. Phật lại nói kệ rằng:
Nghiệp nầy, đây vật nầy
Tự mang, tự kéo theo
Khi thân trung ấm được vãng sanh ở nơi cõi kia và căn thân thọ lại ấm xứ và dùng thiên nhãn để thấy được sắc ấm ấy.
Như các bộ phái khác đã nói về ngũ ấm nhứt biên. Từ đây (cái nầy) có mất và qua kia có. Cho nên nói: Bỏ cái nầy là như thế.
Như trước đã nói: Như người nầy từ cái có nầy đến cái có kia. Duy chỉ con người mới như vậy cho đến con đường thật, khác, chẳng qua. Nếu thật khác, nếu thường, nếu chẳng thường... thành tà kiến.
Như trước đã nói về thật, dị thường, bất thường... bị che đậy bởi tà kiến. Từ đó, con người cùng với ấm thật, khác khó thể nói. Do vậy người nầy sanh qua nơi kia cũng khó nói là như thế.
Hỏi rằng: Tại sao khi thân con người mất thì 5 loại hữu lại khởi lên ?
Đáp rằng: Khi lòng dục của con người mất là lúc cái hữu khởi; nương vào 5 ấm mà có. Đây được gọi là cái hữu trong 5 ấm, có thể nói như vậy. Theo quá khứ để nói là nương vào người nầy. Điều nầy có thể nói như vậy. Cho nên điều nầy chẳng thể nương vào con người. Từ đó không nương vào nghĩa,chẳng phải người nầy có thể nói được. Như vậy khi thấy được pháp thì nên diệt. Niệm diệt thì hành diệt và niệm niệm tương tục, đây là điều mà Phật đã nói phải nên rõ biết. Do vậy khi xả bỏ ngũ ấm thì tất cả thân đều mất, con người từ cái có nầy trải qua cái có kia. Cho nên nói là có người xả bỏ ngũ ấm và sanh vào kia. Rồi thọ theo ngũ ấm kế tiếp của cái có là như vậy.
Hỏi rằng: Vì như trước đã thọ ngũ ấm rồi, sau đó người nầy xả bỏ ngũ ấm phải không ?
Đáp rằng: Chẳng phải vậy. Nếu như chỗ hỏi ấy sanh ra hữu và kẻ sanh ra hữu ấy sau khi mất ở bậc thánh hay người liền thọ hữu. Chẳng mất bốn sự chấp thủ. Nếu ấm và người khác nhau thì đây chẳng phải như vậy.
Hỏi rằng: Có phải trước xả thân ngũ ấm của người và sau đó thọ lại thân ngũ ấm khác ?
Đáp rằng: Chẳng phải vậy. Căn cứ theo chỗ hỏi ấy thì mỗi người mỗi tâm niệm, lại trở thành hai loại hữu và chính đây là chỗ không phải.
Hỏi rằng: Bây giờ làm sao xả bỏ thân người và thọ thân ngũ ấm khác? Chỉ trong một lúc thì thọ hay chẳng phải một lúc ?
Đáp rằng: Chỉ trong một thời gian.
Hỏi rằng: Ra sao ?
Đáp rằng: Khi người mất, tâm niệm sau cùng khởi lên và trong ấy ấm tâm chưa khởi. Cuối cùng trong mỗi niệm mất đi thì ấm tâm liền khởi. Lúc ấm tâm khởi lên, lúc ấy thành có con người. Cho nên nói xả thân người, thọ ấm là có và vì sao lúc ấm tâm khởi lên và từ trong người đó hữu xứ lại thành và tâm ở nơi xứ nầy. Đây gọi là sanh ra (sanh lầm). Do vậy mà cùng thời nên rõ. Có người xả bỏ ngũ ấm sanh hữu xứ và khi thọ ngũ ấm thì trung gian là hữu. Như thế cho nên tất cả như ta đang nói là vậy.
Hỏi rằng: Ấm ấy có gốc gác chăng ? Mà từ ấm ấy lần lượt sanh cho đến bây giờ. Vì sao có gốc, vì sao chẳng có gốc như thế và chỗ nghi ra sao ?
Đáp rằng: Phật bảo các vị Tỳ Kheo! Sanh tử vốn không có gốc. Chúng sanh luân chuyển sanh tử và các gốc gác khó rõ biết. Như vậy vì chẳng thật nên khó rõ biết. Vì có thật nên cũng chẳng rõ biết. Như 12 câu hỏi đã nói, có 13 cửa là không thật; nên khó rõ biết. Vì vô trí nên chẳng rõ biết. Vì sao người ở cõi vô sắc giới lại chẳng rõ biết người ở 2 cảnh giới kia? Chẳng rõ việc thế giới nầy thành hay chẳng thành ? Việc đúng thật rất khó đáp. Có thể cái gốc đầu tiên thay đổi và đây là cái có sơ khởi là điều có thể nói được. Do đây mà chúng ta sanh nghi.
Hỏi rằng: Gốc gác của con người trước khi sanh thì chẳng rõ biết, vì thật có, vì thật không. Nếu có tri kiến thì có thể nói được không ?
Đáp rằng: Thật hữu ấy cũng khó rõ biết. Vì sao vậy ? Ví dụ như có vật thật; nhưng bị che đậy vậy; nên không rõ. Lại cũng như một hạt bụi cực nhỏ, khó rõ biết. Lại như chất khoáng ở dưới mặt đất, cũng khó rõ biết. Lại như mí mắt bị cận thị; nên chẳng rõ biết. Lại như con mắt bị yếu; nên khó rõ biết. Lại như mảy lông, lại như hạt cải, lấy hạt cải ấy chia chẻ ra và sắc tướng ấy thật khó rõ biết. Lại như nước chảy của sông Hằng mà lấy một ít muối ném vào đó và vì lưu lượng nước nhiều nên muối kia chẳng còn. Lại như vật quý nằm ngay trong vách nên khó thể thấy. Lại như quỷ thần thường ẩn hình, khó thể thấy. Như người không trí chẳng rõ biết mệnh sống bao lâu; nên chẳng thể rõ. Như vật quý nằm ngay trong tường mà chẳng rõ biết. Như vậy cái gốc gác của con người thật có như thế nào, thật khó rõ biết là như thế.
Khó nói rằng từ gốc gác nầy hoặc bụi, hoặc mảy lông mà cái thật có ấy chẳng rõ biết. Ngoài cái thấy của con người ra, dùng thiên nhãn mới có thể thấy mảy lông.
Lại như dưới mặt đất kia, tuy dùng thiên nhãn có thể thấy được. Nếu như mắt thịt thì tự chẳng thể thấy gần làm sao thấy điều nầy được. Như bờ biển bên kia chẳng thể vượt qua, kẻ đến rồi mới thấy. Như sợi tóc người có mắt sáng mới thấy. Rồi dùng một hạt cải để chẻ ra thì mắt sáng sẽ thấy. Nơi nước sông Hằng mà bỏ một nắm muối, chỉ có con cá ở gần mới rõ biết. Giống như của báu bị che; chỉ có người có thiên nhãn mới rõ biết. Những vị quỷ thần ẩn hình, tuy thấy được đồng loại. Người có pháp thuật có thể thấy; nhưng mạng sống thì không rõ biết. Người biết được tâm trí của kẻ khác thì rõ như vậy mà bên trên đã nói về tất cả cái hữu ấy cũng khó thể thấy, không thể rõ biết. Tuy nhiên tất cả cũng có thể rõ biết và có thể thấy rằng gốc gác của con người không có ai rõ biết cả. Giống như bảo vật bị che chắn là thật có. Sự chẳng rõ biết ấy không có nguyên nhơn; nên nói thật hữu ấy chẳng rõ biết. Vì sao vậy ? Vì chẳng ai đo lường được. Như núi tuyết thật có mà chẳng thể nói hết được. Vì sao vậy ? Vì chẳng thể đo lường được vậy.
Lại nói: Có phải vì biết núi tuyết ấy thật có nhưng khó tính đếm phải không ?
Đáp: Thấy núi tuyết thật có số lượng nhưng lược qua. Gọi là núi tuyết thật có ấy có thể rõ biết. Còn việc đo lường thì khó thể biết được.
Lại nói: Nếu lược qua có thể rõ thì điều nầy chẳng rõ ràng. Chỉ có sự lược qua mà rõ hết; nhưng số lượng đo lường thì thật chẳng biết. Như vậy thành vô minh sao ?
Lại hỏi rằng: Chẳng thật vậy! Số lượng chẳng thể rõ chăng ?
Đáp rằng: Chẳng thật, chẳng thể rõ. Vì sao vậy ? Như trong kinh nói rằng: Phật dạy: Vật không có chỗ thật nên không rõ tiếng nói.
Như Phật bảo các vị Tỳ Kheo rằng: Như dầu đèn tắt thì than ấy và màu đen nầy khó rõ biết. Cứ như thế cho đến khi núi Tu Di và các biển lớn, đất đai sang kiếp tận và kiếp hỏa nổi lên đốt cháy hết tất cả cho đến bụi trần; thì màu đen nầy cũng chẳng thể rõ biết là như thế.
Phật dạy: Gốc gác khó rõ biết lại cũng như thế ấy, như dầu đèn tắt và màu đen thuộc bụi bặm nầy chẳng thật có; nên cũng chẳng rõ biết. Như vậy gốc gác ấy cũng khó rõ biết lại cũng như thế.
Hỏi rằng: Như vật thật, có chỗ, Phật nói chẳng thể rõ biết âm thanh là sao ?
Đáp: Như trong luật có nói: Có người cầm bình rượu trong tay. Người nầy lấy tay mang vật ấy lên cúng cho vị Tỳ Kheo. Thực ra vị Tỳ Kheo ấy chẳng biết là vật gì, nên khi ăn, vô tội là như vậy. Cho nên điều nầy không có nguyên nhơn.
Lại nói rằng: Chẳng thật, chẳng rõ biết. Nếu nguồn gốc là thật có, Phật thật rõ biết từ kia khởi lên, chẳng nên nói không rõ biết. Dùng lời Phật nói chẳng thể rõ biết để nói nguồn gốc là không thật có chăng ?
Đáp rằng: Nghĩa nầy chẳng phải vậy. Phật thật rõ biết chẳng từ kia sanh như thế gian hỏi về thường và vô thường v.v... Phật chẳng bao giờ đáp lại. Do vậy mà chẳng có nguyên nhơn. Lại nói chẳng phải như thế; nên nguồn gốc chẳng rõ biết. Phật nói rằng: Chẳng thể rõ biết. Nếu Đức Phật nói thẳng là không có nguồn gốc thì thành ra đoạn kiến. Nếu Đức Phật nói có nguồn gốc, lại trở thành thường kiến. Hai loại nầy nói chẳng thể được; nên không nên nói vậy. Từ đó Phật nói chẳng rõ biết là như thế.
Hỏi rằng: Nếu sanh tử có nguồn gốc thì thành thường kiến; nếu không có nguồn gốc thì thành đoạn kiến.
Bậc thánh cái gốc sanh tử đã tận diệt; nên đã khởi lên nguồn gốc khác; nên rõ biết điều nầy chẳng giống như thế. Cái nguồn gốc khác liền khởi lên nghĩa là thành đoạn kiến. Vì nguồn gốc của sanh tử chẳng thật có; nên chẳng rõ biết. Vì sao vậy ? Vì sự sanh tử luân chuyển vô cùng vậy. Phật bảo các vị Tỳ Kheo rằng: Có nương tựa vào nguồn gốc của ái cũng khó rõ biết. Từ đây khởi lên ái, liên hệ với quá khứ và rồi từ đây khởi lên ái và sẽ khởi lên ở đời vị lai. Như thế tất cả chính do đây vậy. Nếu không có cái gốc là ái thì sự sanh tử không có thật. Cái gốc ấy khó rõ biết.
Lại nữa do sự sanh tử có khởi lên ấy, còn nếu không có sanh tử thì cũng chẳng có Niết Bàn. Như Phật bảo Ngài A Nan rằng: Khi hữu lậu ngũ ấm diệt tận rồi; ấy có tên là diệt; ấy có tên là Niết Bàn.Phật lại bảo A Nan rằng: Niết Bàn tuy diệt tận; nhưng lại không có nguồn gốc, mà điều nầy cái sanh ấy không mất cái gốc. Cho nên cái gốc của sanh tử chẳng thật có gốc ấy chẳng thể rõ biết là như vậy.
Lại nữa do nguyên nhơn hòa hợp thay đổi nên tất cả con người chẳng thể lấy cái ngã để làm nguyên nhơn gốc. Nếu lấy ngã để làm nguyên nhơn thì sự sanh tử không cùng tận; cho nên không có gốc là như vậy.
Lại nữa, nhớ rõ biết về quá khứ vô số thế giới như Phật đã nói về quá khứ. Do vậy nếu muốn rõ về những pháp mà do thức tùy theo đó khởi lên, thì chính đây là thức ấy thật vô số. Cảnh giới lại cũng vô số; nên sự biết ấy cũng lại vô số. Từ đó sự sanh tử không có gốc gác là như vậy.
Lại nữa sự sanh tử không có nguồn gốc, mà nếu sự sanh tử có nguồn gốc thì quá khứ sanh ra gốc ấy, lại là có. Thế nhưng ở đây chẳng thật có quá khứ, cái gốc của sanh không rõ biết là như vậy.
Lại nữa do ái chuyển đổi mà thành. Phật bảo rằng: Cái gốc sanh ra quá khứ chẳng rõ biết. Nếu sanh tử mà cái gốc chẳng có thì cũng chẳng có tên gọi, mà cũng chẳng có pháp nào chẳng có tên như thế.
Lại nói: Không pháp không tên; không tên gọi ấy chẳng thật. Tuy không tên nhưng lấy không tên ấy chính là tên nầy. Do vậy có tên, mà tên nầy chẳng có thật. Như đã nói: Cái gốc gác của quá khứ có thật; nên nguồn gốc cũng thật. Điều nầy chẳng phải vậy, cũng không đúng như thế. Như đã nói chẳng có pháp nào có tên. Nếu là thật, thì có pháp có tên, lại cũng chẳng có tên và chẳng thật. Vì sao vậy ? Vì không tên vậy. Nếu như chẳng có pháp nào chẳng thật, thì tên nầy lại cũng chẳng thật. Thật có pháp thì tên nầy lại thật có, mà không có pháp thì tên nầy lại cũng chẳng thật. Lý do ấy nguồn gốc của sự sanh ra nầy chẳng thật có là như vậy.
Lại nói: Nếu mà thật, chẳng thật ấy là điều bất định thì chẳng thật ấy thành sự thật và sự thật thành ra chẳng thật. Ở đây không phải vậy.
Lại nữa có pháp nói là che khuất. Không có pháp nào là không có pháp ban đầu hiển ra thành thật và chẳng thật mà có thể thấy, do chỗ ấy không che khuất. Nên đây có tên là thật. Giống như đánh vật thì kêu thành tiếng. Tiếng nầy không có nguồn gốc là vậy. Nguyên nhân sanh ra ấy có thể nói như sừng thỏ. Cho nên sự sanh tử chính là nguồn gốc nầy.
Lại nói: Nếu sự sanh tử khôhg có gốc, lại chẳng có ngọn. Như vậy sự không đầu không đuôi nầy cùng với Niết Bàn chẳng khác chăng? Chỗ nầy không đúng như vậy. Vì lẽ đây thật không có gốc, do ngũ ấm biến đổi sanh ra tướng ấy vậy. Do đây mà vô thường. Do cái nhơn biến đổi ấy; nên cái quả lại cũng biến đổi như vậy.
Hỏi rằng: Nếu sự sanh tử không có nguồn gốc thì trong ấy cái ngọn cũng sẽ không. Trong cái ngọn không ấy thì sự sanh tử cũng lại không nốt. Giống như rừng không cây không ngọn, trong ấy lại cũng không, từ đấy chẳng có rừng nầy; như vậy sự sanh tử cũng sẽ không là như thế ?
Đáp rằng: Chẳng phải vậy. Vì sao thế ? Giống như vật tròn trịa, không có gốc mà cũng không có ngọn. Vật không có đầu đuôi ấy, sự sanh tử cũng lại như thế.
Lại rằng: Như vật tròn ấy không gốc không ngọn, lúc có lúc không. Cái một ấy có thể hoại và sự sanh tử cũng lại như vậy.
Lại rằng: Lo rằng như sự sanh tử không hết. Chỗ chấp ấy không có gốc gác. Tất cả pháp đều không. Đây chính là việc chấp ít và lấy cái nhơn ở trước để thay đổi sanh ra vậy. Cho nên không có gốc. Nguyên nhân ấy hoại thì sự sanh tử cùng tận. Sự sanh tử cùng tận thì nguyên nhân ấy cũng hết. Như trước đã nhớ nghĩ về quá khứ vô số thế giới vậy. Do đây Phật dạy rằng không có gốc gác. Nếu sự sanh tử có nguồn gốc, thì nguồn gốc của sự sanh tử kia chỉ do ấm thay đổi và vốn ấm ấy không có gốc. Do đây thành thường kiến. Nương vào ấm ấy và nương vào sự biến đổi nầy Phật nói có chúng sanh, là như thế.
Lại nói: Ấm triển chuyển không có gốc và chúng sanh triển chuyển cũng lại như vậy. Chúng sanh lại chẳng thể triển chuyển. Vì sao thế ? Vì lẽ Phật đã nói rằng sanh tử không có gốc gác.
Hỏi rằng: Nếu sanh tử không có gốc, Phật vì sao lại nói chẳng thể rõ biết ? Mà chẳng nói thẳng là không ?
Đáp rằng: Nếu Phật nói thẳng là không thì chẳng thể khởi lên 3 loại tà kiến. Ba loại tà kiến ấy gồm: Một là cái ngã có trước khi thân chưa sanh ra chăng? Thứ hai là cái ngã có sau khi sanh ra chăng? Ba là cái ngã ấy bây giờ đang sanh ra chăng? Do sanh nghi; nên Phật nói không rõ biết. Cho nên Phật nói nên rõ biết là như thế. Phật nói pháp có hai loại. Thế nào là hai? Một là pháp và hai là chúng sanh.
Những gì là pháp? Như chỗ Phật nói: Nguyên nhân sanh ra không rõ biết,có gốc gác là ái ấy cũng không rõ biết. Pháp ấy chính là nói vô sanh tử là cái gốc có thể nói. Còn thế nào là chúng sanh? - Do vô minh che lấp nên gọi là chúng sanh, bị luân chuyển trong sanh tử và vì chúng sanh mà thuyết pháp vậy. Vì chúng sanh luân chuyển trong sanh tử, cho nên Phật vì đó nói pháp.
Lại nói: Như lúc ấy pháp đến và tâm nầy nương vào đó để qua. Lúc ấy Phật nói là chúng sanh.
Hỏi rằng: Sao Phật nói có pháp sanh ra có gốc gác lại chẳng thể biết ?
Đáp rằng: Phật chẳng thể vì chúng sanh mà nói không có gốc gác.
Lại nói: Như lúc ấy pháp nương vào đó để qua. Lúc ấy Phật nói đây là chúng sanh. Lúc bây giờ pháp vô thường có thể nói mà chẳng thể nói chúng sanh là thường hay vô thường. Như thế gốc gác sanh ra có thể nói mà cũng có thể chẳng nói. Nên rõ biết sự sanh tử là không có gốc gác vậy.
Luận Tam Di Để Bộ
Hết quyển Trung

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 3 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Gõ cửa thiền


Vì sao tôi khổ


Kinh Bi Hoa


Các bài tiểu luận về Phật giáo của Trần Trọng Kim

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.144.25.74 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập