Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 8)
Không nên nhìn lỗi người, người làm hay không làm.Nên nhìn tự chính mình, có làm hay không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 50)
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Trung Ấm Kinh [中陰經] »» Bản Việt dịch quyển số 2 »»

Trung Ấm Kinh [中陰經] »» Bản Việt dịch quyển số 2


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.49 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.6 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Trung Ấm

Kinh này có 2 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | Quyển cuối
Việt dịch: Thích Nữ Tịnh Quang

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

PHẨM THỨ SÁU
THẦN TÚC

Bây giờ Đức Diệu Giác Như Lai liền dùng thần túc hóa ra ba nghìn đại thiên cõi, trên đến cõi trời Phi tưởng, Phi Phi tưởng, dưới đến địa ngục Vô Cứu đều toàn sắc vàng, giống như Đức Diệu Giác Như Lai không khác, ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp tròn sáng bảy thước, đều ngồi đài sen báu trên tòa cao, cùng diễn xuất phạm âm, tiếng vang ba nghìn đại thiên quốc độ.
Mỗi một chư Phật nói ra tám vạn bốn nghìn tập hạnh. Người mà thấy được ánh sáng kia thì dâm, nộ, si, ái đều tự tiêu diệt. Chư Phật khác tiếng cùng âm đồng nói kệ rằng:
Kinh pháp vốn vô thể
Đã diệt nay phục hưng
Đoạn trừ pháp hữu lậu
Trong ba cõi độc hành
Tử sanh qua bao kiếp
Gặp lại ruộng phước lành
Sắc vàng soi cùng khắp
Được giải thoát nhờ đây
Thần lực nào hết được
Xét rõ vốn không hình
Đại bi, đại từ tâm
Chặt đứt các vô minh
Nguồn ngạch năm ấm khổ
Nổi trôi được đưa qua
Sông tử sanh bốn sử
Thuyềp pháp đến bờ kia
Phương tiện nào ngần ngại
Vào vô vi cảnh đó
Xưa ta phát thệ rằng
Phải độ người chưa độ
Thân tu thanh tịnh hạnh
Miệng nói lời chân ngữ
Lòng mong cứu tám nàn
Việc ác sao sanh khởi
Bấy giờ có Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, gối hữu sát đất, chắp tay quỳ trước Phật bạch rằng: Hay thay Thế Tôn. Thần túc vô lượng không thể nghĩ bàn. Điều mà con hỏi bây giờ, nếu Ngài chấp nhận con mới bộc bạch.
Đức Diệu Giác Như Lai bảo Bồ Tát kia: Lành thay! Lành thay! Này Bồ Tát, ông cứ hỏi. Ta sẽ phân biệt rõ ràng điều đó.
Thế rồi Bồ Tát ấy bạch Phật: Thế Tôn, thần túc của Như Lai không thể hiểu thấu, khiến cho ba nghìn đại thiên thế giới này sáng rỡ sắc vàng, là Tam muội gì có thần biến này?
Phật bảo Bồ Tát: Thần biến này là Tam Muội Vương Tam muội. Chỉ có Chư Phật mới có thể biến hiện, chẳng phải Thanh Văn Bích Chi Phật làm được. Tu hạnh Tam Muội Vương Tam muội này, sẽ được tám vạn bốn nghìn Tam muội khác. Hoặc có Tam Muội gọi là Hư Không Tạng, hoặc có Tam muội gọi là Thăng Pháp Đường, hoặc có Tam muội gọi là Nguyệt Quang Thanh Tịnh, hoặc có Tam muội gọi là Phá Hữu Nhập Vô, hoặc có Tam muội gọi là Nhất Ý Bất Loạn, hoặc có Tam muội gọi là Trừ Khử Trần Cấu, hoặc có Tam Muội gọi là Bạt Tam Độc Căn Khổ, hoặc có Tam muội gọi là Diệt Quá Khứ, Đương Lai Kim Hiện Tại Bệnh, hoặc có Tam Muội gọi là Khai Cam Lồ Pháp Vương.
Lúc này Đức Thế Tôn muốn giải thích nghĩa đó, mới nói ra kệ rằng:
Đạo lực hạnh trong sạch
Thân miệng ý chẳng phạm
Thệ nguyện độ vô số
Kẻ chìm sâu sanh tử
Kim cương khó hư hoại
Nhị thừa nào lãnh hội
Quán thân căn bổn khổ
Tư duy, đạt bốn quả
Lập hạnh không thối chuyển
Lặng yên ngồi đạo tràng
Hết thảy vào Định ý
Hai, ba đến bảy kiếp
Đất nóng qua kiếp thiêu
Tâm vẫn không lay động
Phá hết cõi ma binh
Mới thành vô thượng đạo
Tam muội định ý lực
Phước báo không thể suy
Khiến ba loại chúng sanh
Được thành vô thượng đạo
Xét kỹ tâm mọi loài
Khó độ hay dễ dàng
Đừng để mãi đắm chìm
Vướng dòng sanh tử mãi
Ta vốn không sắc này
Thể kim quang phóng ra
Hằng kiếp siêng khổ hạnh
Tu định được thân này
Khi Đức Diệu Giác Như Lai nói kệ này, Chư Phật Thế Tôn đồng thời đưa tay khen Đức Diệu Giác Như Lai, dùng kệ nói rằng:
Đấng Trượng phu, Nhị túc
Cao tuyệt không ai hơn
Lìa dứt ba cõi khổ
Sáng rực bởi một màu
Nay nghe Như Lai nói
Đạo Định ý-Thần túc
Nghe pháp-tánh-tướng kia
Tướng tướng đâu lường được
Tám loại thanh tịnh âm
Pháp thù thắng mười sáu
Ba mươi hai hạnh nghiệp
Lợi ích hết mọi người
Bậc Thiên Nhơn tuyệt nhất
Ánh sáng soi quần sanh
Ở mãi đường đói khát
Tám giải thoát là cơm
Nước trong không dục vọng
Hóa thành thất giác hoa
Không vướng gốc năm ấm
Hoa sen thanh khác gì ?
Hương xông nghe lan xa
Như Lai, năm phần hương
Dầu không hằng lưu bố
Xưa ta cầu Phật đạo
Và thệ nguyền cùng lúc
Hôm nay chứng quả rồi
Nào sai xưa đã nguyện
Pháp hữu tướng, không tướng
Tuệ, phân biệt nhiệm mầu
Rõ thấu đường phương tiện
Ngay khi Đức Thế Tôn nói kệ này, có trăm ức chúng sanh Trung ấm mong muốn cầu sắc thân của Phật phát ra thân vàng, như ta hôm nay thần biến vô lượng cầu mong tương lai đều sẽ thành Phật, đều cùng một hiệu, hiệu Diệu Giác Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
PHẨM THỨ BẢY
PHÁ LƯỚI ÁI

Bấy giờ Đức Diệu Giác Như Lai, hầu muốn phá kiết sử của ái. Muốn cho bốn chúng tự thấy chứng nghiệm, liền nhập Tam muội Bất động khiến cho chúng kia biết được dục ái, sắc ái và không sắc ái.
Lúc này Đức Thế Tôn lại tự mình suy nghĩ rằng: Chúng sanh cõi dục này có ái và chẳng có ái, hữu lậu và vô lậu, hữu vi và vô vi, khả ký và bất khả ký. Chúng sanh cõi sắc: chẳng phải có, chẳng phải không, phi tưởng, phi bất tưởng thức thấy được pháp. Trong ba cõi, Dục là nặng nhất, đam mê khó mà lìa. Các chúng sanh Trung Ấm nên tu Thánh Giáo, chúng sanh Ngũ Thức có trước, có sau. Chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Thức, có người chấp Niết Bàn và không chấp Niết Bàn.Tại sao chúng sanh Trung Ấm gặp Phật thì được chứng ngộ? Loài này vừa có bệnh thì lo vô ngã (không còn cái ta); với sinh mạng thì luôn lo lắng vô thường, trước sinh sau chẳng sinh, sau sinh trước chẳng sinh. Lời của Phật chẳng phải là căn bổn phát tâm ý của họ, nên tu pháp Phật như pháp Thanh Văn. Loài có Năm sắc thức thì căn bổn chưa thành. Thấy Phật, biết Phật mỗi mỗi đắm chấp. Có nhiều phước báu, kẻ đọa cũng không ít. Không kể thân của chúng ta là pháp hành hoặc chẳng phải pháp hành, ba cõi đều bị lưới ái che khuất, muốn ra khỏi mà khó thoát được, giống như ném cuộn chỉ, những sợi chỉ tơ trở lại bên mình. Các chúng sanh trong ba cõi, đã bỏ chỗ này rồi vẫn quay lại chỗ này.
Bây giờ Đức Thế Tôn bèn nói kệ rằng:
Ba cõi là nhà lửa
Lửa cháy mạnh hừng hừng
Điều tâm ái luyến tham
Sẽ vào ba đường ác
Sinh trước không sinh sau
Ái có pháp trọng khinh
Pháp Năm Sắc Thức là
Dễ độ nay và sau
Đường tám nạn tử sanh
Cùng Niết Bàn đối đãi
Pháp không kia không đây
Tuyệt vời nào đối xứng
Thần Túc tiếp muôn loài
Thấy rồi thì cứu độ
Quá khứ tương lai Nhơn
Càn, Thát, A tu la
Trời, Rồng và Quỷ thần
Chẳng ai không được độ
Lành thay Đấng Chí Tôn
Khéo thuyết pháp nhiệm mầu
Giúp chúng sanh thọ khổ
Qua bến bờ vô vi
Dứt bệnh thân miệng ý
Vắng lặng không động gì
Tựa kẻ đói gặp cơm
Kẻ khát thì được uống
Chỉ quán trừ ái kiết
Tam thoát cửa Cam Lồ
Ta phát tâm vô thượng
Ái trừ nào khát tưởng
Nơi lửa rực nhảy vào
Đắc thành bậc tuyệt hảo
Vô số Phật đã qua
Mai sau và hiện tại
Như ta nay giáo hóa
Nào nghĩ suy bỉ ngã
Chánh pháp trừ tà pháp
Trần cấu trọn diệt trừ
Pháp tổng trì vô ngại
Suy tư-phân biệt quán
Trăm nghìn ức kiếp qua
Dạo chơi chư Tam Muội
Tứ không định ý pháp
Đến đi không nhọc mệt
Nơi chư Phật dạo qua
Nhiều ích nào tổn giảm
Vừa đặt chân cất bước
Chỗ độ chẳng thể lường
Ngay nơi Ta cất bước
Các hữu tình chúng sanh
Tùy loài mà được độ
Trong ba cõi đầy cùng
Đắc ba pháp tùy tâm
Như thế không ngừng nghỉ
Pháp tám giải vô ngại
Ly xả thọ mạng căn
Nào suy ba cõi tưởng
Ngũ nghịch kiết hại người
Ngươi sanh biết ngươi sanh
Ngươi diệt biết ngươi diệt
Ngươi cao biết rằng cao
Ngươi thấp biết rằng thấp
Trung gian nơi không thoát
Vượt nó chỗ nào đi
Nên biết Phật lực lớn
Vào khắp pháp tổng trì
Do vốn thệ nguyện rằng
Sẽ độ người chưa độ
Tứ đẳng: từ -bi-xả …
Tràn đầy các mười phương
Tay Phật đưa Cam Lồ
Như mẹ thương con dại
Lại thấy mẹ không cha
Và cha chẳng phải mẹ
Ba cõi bốn đảo điên
Như kim cương khó dạy
Như vật mới vào lò
Bụi dơ tiêu cháy trước
Người ngay không thay đổi
Như bùn sinh hoa sen
Phật đạo thật-chơn-chánh
Chẳng lo chẳng buộc ràng
Không còn khởi tục lụy
Tâm nào có đến đi
Lúc này ở trên tòa có Bồ Tát tên là Diệm Quang liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, gối hữu sát đất, chấp tay quỳ trước Phật bạch rằng: Như nay Thế Tôn nói pháp chân thật, hoặc nói hữu pháp, hoặc nói vô pháp, hoặc nói hữu vi, hoặc nói vô vi, hoặc nói hữu ký, hoặc nói vô ký. Nay chúng sanh đã lãnh thọ, dùng pháp hóa gì mà được độ thoát?
Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng kệ trả lời rằng:
Các pháp đúng có một
Không hai cũng không ba
Ái thức chẳng ái thức
Lìa hẳn chỗ bào thai
Phá ngay, trói buộc ái
Thì mọi loài sạch ái
Như Lai-Thần đức lực
Tự biết túc mạng bổn
Hoặc ở cung Vương Thiên
Nơi Chuyển Luân cai trị
Hoặc ở chốn nghèo hèn
Dưới cùng Vô Cứu Ngục
Mỗi mỗi Ngài phân rõ
Tâm cấu nhiễm chúng sanh
Khi Đức Thế Tôn nói kệ này xong, có tám mươi tám ức na do tha chúng sanh Trung Ấm, liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, gối hữu sát đất chắp tay quỳ trước Phật bạch rằng: Chao ôi! Khổ này mới thật là khổ! Trong các thứ khổ, ái kia là khổ nhất; chỉ xin Thế Tôn cho phép chúng con làm kẻ xuất gia. Lúc này Đức Thế Tôn im lặng bằng lòng. Thế rồi chúng sanh Trung Ấm nghe Phật thuyết pháp liền được chứng quả A La Hán.
PHẨM THỨ TÁM
BA ĐỜI BÌNH ĐẲNG

Bấy giờ trên tòa có Bồ Tát tên là Bất Yếm Hoạn Kiếp, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, gối hữu chấm đất, chắp tay quỳ trước Phật bạch rằng: Thần lực tối thắng của Như Lai vô cùng vi diệu không thể suy lường. Như Lai thần đức lưỡi rộng và dài, không phạm lỗi lầm như chúng sanh. Nay đây, ba loại chúng sanh quá khứ, tương lai và ngay bây giờ, Ngài vì chúng sanh quá khứ hay vì chúng sanh tương lai và hiện tại?
Bấy giờ ĐứcThếTôn bảo Bồ Tát Bất Yếm Hoạn Kiếp rằng: Lành thay, lành thay! Chỗ hỏi của ông đối với ba loại chúng sanh được nhiều lợi lạc, nhiều sự thấm nhuần và dứt được gốc vô minh, thân nghiệp được thanh tịnh, chẳng phải chỉ có Phật mới nói.
Lúc này Đức Thế Tôn bèn nói kệ rằng:
Người, lúc ở trong thai
Tự bìết túc mạng mình
Bỏ kia nay thọ đây
Ba đời rõ như thế
Thức trước khác thức này
Thân trước khác thân này
Chỉ vì ngu lầm mê
Chẳng biết vào cửa đạo
Ở bốn sử, niệm này
Phát khởi bao nhiêu vọng
Than ôi già-bệnh-chết
Chìm đắm ở ba đời.
Thế rồi Đức Thế Tôn muốn giải thích nghĩa đó liền nói kệ tiếp:
Ta vốn không sắc này
Thọ- tưởng- thức cũng vậy
Ta không, kia cũng không
Nào có thọ- tưởng-thức
Không sắc là sắc pháp
Pháp loạn tưởng chúng sanh
Chín phẩm thì sai biệt
Phân biệt pháp ba đời:
Thượng thượng pháp tối diệu
Không quá khứ vị lai
Thượng trung rất tế vi
Thượng hạ vô giác quán
Trung thượng đoạn ba kiết
Trung trung diệt ba trần
Trung hạ thoắt nhiên ngộ
Đây gọi là Phật Tử
Hạ thượng tuy là nặng
Song như bọt nước kia
Thoạt nổi lại thoạt chìm
Hạ trung các hữu tình
Khổ vốn rất sâu nặng
Ngoài ta ai thấu hiểu
Hạ hạ hàng chúng sanh
Đi qua nhiều kiếp khổ
Ta hóa độ loài kia
Chẳng còn Phiền não nữa
Có bao nhiêu tâm người
Ngồi trên tâm không ngộ
Hoặc nguyện Phật tương lai
Hay cầu Ngài hiện tại
Các loại chúng sanh này
Khó mà tế độ được
Nhân sinh vốn không hình
Nơi trở về hư không
Sống chết cùng vần xoay
Niết Bàn, là gì nhỉ?
Nếu cho có hữu tình
Thân-miệng-ý làm lành
Tịch nhiên vào dìệt độ
Già-bệnh-chết nào còn
Một lòng phát thệ rộng
Cũng chẳng vì tự mình
Hư không, không nắm được
Hư-thực nào có tên
Như Lai tiếng phạm thiên
Phân biệt pháp thật tướng
Thấu rõ tuệ không-vô
Đấng độc hành ba cõi
Hữu giác: pháp không ý
Quán thân nào đắm luyến
Vô giác: ở ba thiền
Tiến vào đường bất thối
Khi thành Phật đến nay
Lấy đó làm bổn nghiệp
Thành Phật cũng nhờ đây
Niết Bàn nào khác đó
Bởi siêng tạo công đức
Chưa đạt vào tướng thật
Nghe tứ, không lìa tứ
Các Phật ấn là đây.
Đương lúc Đức Thế tôn nói xong kệ này, tất cả chúng sanh nhiều không thể tính kể, và Ngũ Sắc Thức Trung Ấm, chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng muốn đắc pháp Lìa Bỏ Ba Đời Không Vui.
Lúc này Đức Thế Tôn nói lại kệ rằng:
Quá khứ chẳng có đây
Hiện tại cũng vậy thôi
Đức Di Lặc tương lai
Giáo hóa nào sai khác
Ta chỉ nói mảy may
Như bụi trên móng tay
Muốn nói hết cõi giới
Ai người thấu hết đây
Nay đang ở Trung Ắm
Dời đến Vô Tưởng Thiên
Địa ngục người chịu khổ
Nghe Pháp được ngộ liền.
Bấy giờ Đức Thế Tôn bèn dung thần lực đưa chúng sanh Trung Ắm đến cõi trời Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Xứ Thức. Lúc này Đức Thế Tôn cũng dung thần lực đến đó. Khi đến cõi Phi Tưởng,Phi Phi TưởngThức rồi, Ngài bèn dựng lên một tòa cao bằng bảy báu trang nghiêm đều có Hóa Phật. Mỗi mỗi Hóa Phật đều có bốn chúng, mỗi mỗi chúng thảy đều thành tựu phép tắc uy nghiêm. Trong chúng sanh này có người tụng kinh thuyết nghĩa, hiền thánh im lặng,hoặc có vị nhập định, xuất định.
Thế rồi Đức Diệu Giác Như Lai lại dung Thần Túc Thập Lực tiếp độ chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Thức kia như Trung Ấm thân không sai khác.
Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng oai nghi phép tắc như thông lệ của chư Phật, khiến cho vô lượng Hoá Phật hiệp làm một Phật, hoặc dùng một thân hóa ra vô lượng, hoặc ở dưới cây diễn nói giáo pháp, hoặc nhập sơ thiền, định ý bất loạn, hoặc ở núi cao một mình thiền định, hoặc ngồi nơi vắng vẻ xuất ra mười tám thân biến: dưới thân ra lửa, trên thân ra nước, trên thân ra lửa, dưới thân ra nước. Trời đất nếu không thì không có quái ngại. Hoặc hiện diệt độ mà không diệt độ. Hoặc hiện ra thân thể vô thường như thịt trương lên thối nát, như xác bồ câu trắng. Hoặc hiện ra tay chân đều ở chỗ khác.
Lúc này chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Thức thấy sự thay đổi này trong lòng hoảng sợ tự mình sanh tâm bảo rằng, hẳn là Niết Bàn thì không bệnh, không già, không có các sự thống khổ. Nay xem ra pháp này có sinh, có già, có bệnh, chết khổ. Giờ gặp Như Lai giáng thần tại đây nếu không thuận theo các tướng trên thì không chọn địa ngục mà vào, tức là vào ngôi nhà của Ta, Ta vốn quá khứ cùng người kia đâu có khác. Đời trước thức kia là A Nan Đà Già Lan Đà, thấy Phật lễ bái: “Lành thay Thế Tôn! Không gì tôn quí hơn là giáng thần cõi này, như gặp hoa ưu đàm bát la, nếu Phật không giáng thần ở đây chúng con ở mãi nơi chốn biên địa, sát hại vô lượng thân Già Lan Đà”. Lại tự tuyên bạch: “Nay gặp Đại Thánh như mặt trời làm tan hết tuyết, nếu không gặp ngài, Kẻ đó sẽ đọa làm thân con chồn bay nhảy rất hại, nào có thoát nghiệp, dùng bổn nguyện này được thoát khỏi khổ. Cõi hư không vô lượng, đấng Uy Đức ba cõi. Hàng Bích Chi Thanh Văn chỉ thấy được bằng con mắt giới hạn”.
Lúc này thức Già Lan Đà bèn khởi niệm: chúng ta đồng sinh, sinh ở cõi thức này tội phước chưa phân, hoặc đọa tà kiến làm thân con phi li. Ta vốn thọ thân không chỉ ba cõi, khi ở thân Trung Ấm Ngũ Sắc và Vô Sắc đã phát khởi ý nghĩ này: Các thức Phi Tưởng đều sống với tâm khổ não. Bọn chúng ta tuy sanh chỗ này nhưng chẳng được Niết Bàn, Chẳng phải là nơi an ổn.Nay gặp Như Lai nói pháp chân thật, chặt đứt nghìn vạn cửa, không đến cũng không đi, tham dục gốc sanh ngã, nay ta lại diệt nó là vượt qua vô minh kiết sử đời nay và đời sau, có sanh và có khổ, già, bệnh, như bóng lại có hình, như ánh trăng, cây lá…bóng rọi trên sông nước, như loài chó hoang ăn thức ăn hoàn toàn chẳng ra gì.
Ta nay là Phật ba đời pháp thì vừa có, vừa không, giáo hoá vốn không thay đổi, sanh vốn chẳng có sanh, hay thay phép mầu nhiệm khó độ mà độ được, kẻ ngu khờ thế gian cho Ta là chân thật, ngay khi bỏ mạng này còn đâu thân của Ta. Phân biệt trong thân kia đâu là mạng hay thọ, sống chết khổ lụy phiền, vứt đó rồi thọ đây, khổ nóng lạnh trong thai, chào đời lo sống chết, mẹ thì vui nuôi ta, không sanh ai có nạn, nổi chìm như bọt nước, thần thức luyến thân kia, xoay vần trong năm nẻo, đã đến chỗ buộc ràng, biển tử sanh năm đường, không đến cũng chẳng đi. Tâm là gốc hại thân, người hết “ngã” nạn đâu? Hư không nào gốc ngọn, sao biết thường, vô thường. Như thức Vô Tưởng kia, thấy thức Già Lan Đà, một làm vua Biên Địa, một làm loài Hóa Sanh, ba cõi rất là khổ, nơi đây không Niết Bàn, như đi giữa đồng trống, chỉ đông cho là tây, nơi tất cả các khổ, đều đạt được giải thoát.
Bấy giờ chúng sanh Phi Tưởng, Phi Vô Tưởng Thức bèn ở trước Phật tìm lời rồi nói kệ:
Xưa con thờ Ngũ Hỏa
Nướng đốt thân thể đen
Nằm ở trên gai góc
Thân khoác áo sọ người
Vắt chân lên Nhật Nguyệt
Thờ cúng hết thảy thần
Nay làm Phi Phi Tưởng
Được thấy thân Như Lai
Xấu hổ việc làm xưa
Nơi đây nào thoát được
Rõ chánh pháp giáo hóa
Như Lai tự giáng thần
Được thoát chẳng vọng tâm
Ở hẳn nơi an ổn
Năm dục, sanh tử cấu
Trói buộc ở bốn dòng
Tâm luyến mê ba cõi
Lửa trí huệ đốt trừ
Bốn quả-chúng sanh tu
Nào thấy sanh gốc ngọn
Mê thức chúng con là
Như con nay không khác.
Lúc này Đức Diệu Giác Như Lai lại dung kệ trả lời rằng:
Các người vốn là chơn
Hơn tám vạn kiếp qua
Bởi tử sinh vô thường
Chết kia rồi sống đây
Loài hữu tình các ông
Chưa từng già bệnh chết
Chỉ mong cầu Niết Bàn
Đâu phải chân thật pháp
Trần dứt thức chưa diệt
Trở lại cõi tam đồ
Ngoài ta ngươi không ngộ
Ai cứu được khổ đây
Ta từ vô lượng kiếp
Thề độ lão, tử, sanh
Đâu phải nghiệp tiền thân
Hay hậu thân phải chịu
Vốn được kim cương định
Nay mới giáo hóa ngươi
Đất chẳng thể làm trời
Trời làm đất sao được
Nước không thể ra lửa
Lửa làm nước được đâu
Hết thảy kẻ ngu mê
Thì vạn loài có ngã
Ngu si không rõ pháp
Cho là đạo chánh chơn
Như người kia mỏi mệt
Trong chốc lát nghỉ ngơi
Dầu sống tám vạn tư
Như một ngày trước mắt
Là hữu tình năm khổ
Không có ngã, chỗ nào?
Phân biệt pháp-tướng thân
Phân biệt không-vô pháp
Sanh thì chẳng thấy sanh
Chết nào đâu thấy
Điều căn bổn tử sanh
Do việc làm đã tạo
Ba ác đạo luân hồi
Bệnh si là nguồn cội
Danh sắc, lục nhập pháp
Đây là thói của đời
Xúc nhập cùng sắc pháp
Ái nhập thêm khoái cảm
Mê hoặc của mọi loài
Mười hai duyên chẳng hiểu
Như thiêu thân vào lò
Đức Diệu Giác nói rằng
Nếu ngươi cấu trần nặng
Thì ta cấu tâm nặng
Thành thân Phật như ta
Trãi qua không ngằn cõi
Tâm cấu nặng phá tan
Phân rành tưởng-chẳng tưởng
Căn nguyên kiết sử là
Không thường bảo là thường
Chuốt khổ nói là vui
Suy không cho là có
Vô ngã lấy làm ngã
Loài Tưởng-Phi Tưởng
Tập điên đảo lâu ngày
Như thiêu thân ham lửa
Nạn thân, không tránh được
Lầm mê rớt sáu đường
Sanh Trời Phi Tưởng này
Tựa như đốn phứt cây
Gốc còn, cây sống lại
Bốn đảo điên mê lầm
Chứa mầm vô minh cả
Cửa cam lồ nay mở
Phật đạo vốn chơn như
Căn bổn khổ dứt trừ
Hết hẳn không còn dư
Dòng biển dài bốn sử
Sanh sanh, sanh không ngừng
Ta nay tung ba cõi
Và đến bên kia bờ
Nơi bình yên-vô úy.
Bấy giờ khi đức Thế Tôn nói kệ này xong, chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Thức đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, ở Vô Dư Niết Bàn và không rời Niết Bàn. Hoặc có người muốn sanh Thiên thì Ngài nói pháp Thập Thiện. Nếu muốn sanh trong cõi Người, Ngài vì họ nói Ngũ Giới, hoặc người hướng đến Ba Ác Đạo thì Ngài nói về các loại sau đây: núi đao, cây kiếm, xe lửa, lò than…ba trăm ba mươi sáu ức vô số người chán sợ kiếp sống, nghe pháp Thanh Tịnh liền thành đạo quả.
Lúc này Đức Thế Tôn lại dung thần túc Thập Lực Vô Úy đưa chúng sanh Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng Thức kia cùng đến cõi chúng sanh Ngũ Sắc Thức. Ngài chỉnh đốn đạo thọ, trang nghiêm cõi nước, phóng ánh sáng lớn. Mỗi mỗi ánh sáng đều có Hóa Phật, mỗi mỗi Hóa Phật đều ngồi trên tòa cao bảy báu, đủ ba mươi hai tướng hảo, nói về lục độ không cùng.
Chúng sanh Ngũ Sắc kia thấy Như Lai biến hóa, tâm Phiền não trói buộc thoáng chốc trừ sạch, không còn thích muốn ràng rịt sanh tử,
Thế rồi Đức Thế Tôn dùng phạm âm thanh tịnh mà nói kệ rằng:
Khổ, từ sanh tử oán
Dùng phương tiện trừ đi
Tứ đẳng, đại bi tâm
Vượt qua vô lượng cõi
Nay kẻ lợi căn này
Mới nghe không dám thọ
Thấy Phật tướng, sắc thân
Thảy nhập tịch, diệt độ
Mới hay đạo thánh hiền
Khó nghĩ bàn vô lượng
Diệt cấu chẳng còn sanh
Đạo thánh hiền nào khác
Ngay khi Đức Thế Tôn nói kệ này xong, vô hạn vô lượng chúng sanh Ngũ Sắc Thức thảy đồng một hiệu ở đời tương lai, hiệu Phổ Quảng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
PHẨM THỨ CHÍN
KHÔNG SANH DIỆT

Bấy giờ Đức Diệu Giác Như Lai như muốn dời đến các cõi nước của các Phật mới bảo với ba loại chúng sanh phát tâm hướng đến cầu đạo Niết Bàn: Nay ta bây giờ nói pháp cho các ngươi, nếu có điều nghi ngờ thì cứ hỏi ta, Niết bàn có sanh có diệt không chứ?
Lúc này ba loại chúng sanh nghe lời nói của Như Lai mới bạch Phật rằng: Từ cõi Dục lên đến cõi Phi Tưởng, Phi Phi Tuởng phát tâm hướng về Đại Thừa Bất Tư Nghì pháp, chưa từng nghe có pháp hữu vi, vô vi, gì là hữu dư, gì là vô dư, thế nào là pháp thượng nhơn, thế nào là pháp phi thượng nhơn?
Bấy giờ Đức Thế Tôn phân biệt Cú Nghĩa, Tự Nghĩa và Vô Tướng Nghĩa cho ba loại hữu tình.
Thần lực Như Lai có ba mươi hai pháp, những gì là ba mươi hai? Nhớ được căn bổn đã sanh của mình trong kiếp quá khứ. Biết được túc nghiệp của mình trong mỗi đời sống, chết kia sống đây, chết đây sống kia. Dùng nhãn thức thông quán sát như thấy hạt châu trong lòng bàn tay. Dùng nhĩ thông nghe được những tiếng như con nhặn đi, con ruồi bò…và tất cà các tiếng nhỏ nhất đều nghe hết thảy. Xưa có ba cõi, nay không ba cõi, các người phát tâm ngộ mỗi mỗi đều sai khác, trung gian đều thay đổi. Thế nào là ba cõi? Thế nào chẳng phải ba cõi?
Bấy giờ lúc Đức Thế Tôn nói điều này, ba loại chúng sanh lại sanh nghi ngờ. Lúc ấy Đức Thế Tôn biết điều suy nghĩ của tâm chúng sanh kia là muốn được nghe Ngài nói pháp Quán Vô Tướng, nên dùng kệ nói rằng:
Tại sao gọi là đầu?
Tại sao gọi là chân?
Tại sao gọi là hoa?
Tại sao gọi là quả?
Mạng người ở cái đầu
Chết ra tro bụi đất
Gốc cây, trăm hoa cỏ
Bứng bỏ gốc nào sanh
Quán các pháp tướng này
Không đầu cũng chẳng chân
Pháp hữu dư, vô dư
Như đây mà hiểu được
Nếu cho có Niết Bàn
Thân mạng ta hiện còn
Nếu nói không Niết Bàn
Nơi nào còn ba loại
Nên Phật dùng Thần Lực
Khiến người rõ hữu, vô
Ta xem ba cõi khổ
Vừa có cũng vừa không
Niệm trước khác niệm sau
Thân trước khác thân sau
Vô số kiếp ta qua
Cất chân vào đối đãi
Ở đó khởi đại bi
Nhị thừa đâu bước nổi
Lúc ta khởi đại bi
Thấy kẻ khổ ba đường
Như mẹ hiền nuôi con
Không gì không no đủ
Xưa ta chỉ bố thí
Nay được theo điều mong
Bảy báu các kỳ trân
Khởi tâm tức thời được
Huống gì bốn đẳng cụ
Sáu độ cứu chúng sanh
Ai rành rẽ điều này
Chỉ Phật-Phật thấy biết
Nay Đang nói với ngươi
Hữu dư, vô phân rõ
Muốn đắc Quan Ngã Giới
Ta mới dùng thần thức
Đến nước kia làm Phật
Tên gọi Thích Ca Văn
Bảy mươi hai hằng hà
Tây Nam Độ trang nghiêm
Chỉ dùng Nhất Thừa hóa
Không Bích Chi, Thanh Văn
Cõi kia vui sướng lắm
Khởi niệm liền hiện bày
Chẳng giống cõi nước này
Dâm, nộ, si trói buộc
Một tiếng khắp bốn phương
Người nghe, tìm…được độ
Cõi kia cây bảy báu
Khi gió thổi cành cây
Lá lá hướng cùng nhau
Đồng nói pháp Không ngằn
Trong cõi nước ta kia
Tuổi thọ nào tính kể
Hiện dùng thời diệt độ
Mười hai kiếp pháp còn
Muốn hay kiếp ngắn dài
Hiền kiếp là một ngày
Tính số tháng ngày nay
Làm thành mười hai kiếp
Ba loại người các ngươi
Biết công đức ta không
Đến cõi Đông Phương kia
Tám mươi ức do tha
Nước đó là Bất Chung
Phật hiệu là Tịnh Giới
Đệ tử học ta nay
Phủi tóc đắp cà sa
Gối quỳ nghe thánh pháp
Phật đó rõ tâm ta
Các hàng chúng sanh ấy
Thấy ta khoác pháp phục
Với thế dục chẳng màng
Đồng lòng vui nẻo đạo
Oai nghi tiết lễ đủ
Cấm giới giữ chẳng sai
Đang khi ta nằm ngủ
Thấy kẻ dửng áo long
Đây bởi túc mạng mình
Cùng với người thệ nguyện
Lìa dục không vướng bận
Chẳng có tướng diệt sanh
với phạm hạnh chuyên hành
Bởi ta thần lực Phật
Từ chết được khỏi chết
Chẳng biết niệm điều này
Nào hiểu sinh rồi diệt
Nơi năm nẻo vần xoay
Pháp cam lồ tứ thánh
Đủ no hết thảy người.
Ngay khi Đức Thế Tôn nói kệ này, có một trăm bảy mươi ức chúng sanh thấy hàng đệ tử cạo bỏ râu tóc và nhận Thánh giáo, mong ước muốn được pháp quán tư duy, không thích thế tục, xuất gia làm sa môn. Đức Phật bảo, ba loại chúng sanh cách phương đông bắc của ta hiện giờ vô hạn, vô lượng hằng hà sa số. Có cõi nước kia tên là Thanh Minh, Đức Phật tên là Minh Nguyệt, người dân nước kia không có dâm, nộ, si, cũng không có kiêu mạn, ngã mạn hoặc biếng nhác, chúng sanh nước kia hằng thích an tĩnh, độc tọa, không bị hệ niệm phát khởi, không còn loạn tưởng cho dù sấm nổ sét đánh tâm vẫn chẳng dao động.
Lúc này Đức Diệu Giác Như Lai đi đến cõi kia rồi ngồi trên đất, chúng sanh cõi kia thấy ngài tọa thiền đều cùng tọa thiền. Đức Phật dùng thẩn lực để quán pháp Vô Tướng. Ngài phóng vào tâm chúng sanh giống như bàn tay di chuyển sự vật khiến cho chúng sanh kia biết được hữu thường và vô thường, biết được nỗi khổ của sanh, già, bệnh, chết. Hoặc có chúng sanh biết rõ hữu niệm, hoặc có chúng sanh biết rõ hữu trì, hoặc có chúng sanh biết rõ hữu an, hoặc có chúng sanh biết rõ tự thủ.
Đức Phật hầu muốn hiện công đức của Tứ Thiền, liền ở trước mặt ba loại chúng sanh, Ngài từ Sơ Thiền rổi vào ra Nhị Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền. Từ Tứ Thiền trở lại Tam Thiền, Nhị Thiền, Sơ Thiền. Từ Sơ Thiền đến Tam Thiền, từ thiền thứ tư đến thiền thứ hai, đây gọi là Sư Tử Phấn Chấn Tam Muội.
Bấy giờ Đức Thế Tôn hiện thần túc Tam Muội Ý Định này, độ chúng sanh nhiều vô số kể, đều cùng đồng phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, có vị mong muốn quả Tu Đà Hoàn, quả A La Hán…được pháp Nhãn Tịnh đắc Bích Chi Phật đạo.
Ngay lúc bấy giờ Đức Diệu Giác Như Lai thoáng chốc biến mất.
PHẨM THỨ MƯỜI
GIÁO HÓA KHÔNG VÔ HÌNH

Bấy giờ Đức Diệu Giác Như Lai xả bỏ thân Trung Ấm, Nhập Tam Muội Hư Không Tạng.
Ngài dùng tiếng thét mà cất lên tám loại âm thanh. Tám loại âm thanh là gì? Chẳng phải tiếng nam, chẳng phải tiếng nữ, chẳng phải tiếng dài, chẳng phải tiếng ngắn, chẳng phải tiếng sang quí, chẳng phải tiếng đê hèn, chẳng phải tiếng rầu khổ, và chẳng phải tiếng tươi vui. Lúc này Đức Thế Tôn ẩn hình chẳng thấy, Ngài diễn xuất tám vạn bốn nghìn các Độ Vô Cực. Sao gọi là tám vạn bốn nghìn Độ Vô Cực? Tưởng, Phi Tưởng Hữu Ái ở gốc bệnh phiền não như trăng bị mây che. Tất cả chúng sanh bị dục dẫn dắt. Có bốn trăm bệnh thoạt sanh rồi thoạt mất. Người phạm tội ngũ nghịch muốn thoát khỏi khổ báo, không còn tám địa ngục và cảm giác hãi hùng.
Phương Tây Nam Bắc Đông cũng vậy, dựa vào trình độ chúng sanh Đức Phật mới nói pháp này. Ngay lúc này ba loại chúng sanh nghe Hư Không nói tiếng không sắc, không hình nơi trung gian đó trình bày các pháp: Lành thay chư Phật dạy không sắc không hình, khó nghĩ bàn được! Thế rồi ba loại chúng sanh hình thù sai khác, cùng một thứ tiếng, dùng kệ kính hỏi Hư Không rằng:
Như Lai vốn ở đây
Ba mươi hai tướng tốt
Từ bi thương muôn loại
Lợi lạc khó đong lường
Vì con nói pháp mầu
Tám bậc, cành Thánh Đạo
Ẩn hình nghe tiếng Phật
Vạn vật đều không thường
Như Lai sắc vàng rực
Thực có, nay thấy đâu
Chỉ nghe tiếng vang ra
Phật không, ta nào có
Xét con gốc sinh tử
Lưu chuyển mãi không dừng
Chỉ vì mê lầm sắc
Phước bặt mà tội sanh
Như Lai-Đại Thánh Tôn
Dạy người hành các pháp
Bỗng chốc ly hình tướng
Dùng âm hưởng chỉ bày
Vốn bởi duyên xưa nên
Hình đi, tiếng vì con
Già bệnh sinh lo buồn
Bốn rắn cắn thân con
Thịt xương từ đất nuôi
Tươi mát lo nước bồi
Ráo khô nhờ lửa sưởi
Buông giãn từ gió thổi.
Chẳng vướng pháp ba thừa
Lìa có vì đang có
Tâm cấu dứt lâu rồi
Bốn đại còn tồn tại
Như Lai Đại Thánh Tôn
Bốn điều không đối đãi
Lúc nói có bốn đại
Lúc bảo không bốn đại
Lại nói không bốn đại
Rồi lại có bốn đại
Pháp bất định là đây
Ai người hành rốt ráo?
Bấy giờ Đức Như Lai liền nói kệ để trả lời âm thanh kia rằng:
Phật tử biết “không” chăng?
Tất cả hành vô thuờng
Nhân sinh không nguồn cội
Nào có gốc sinh duyên
Tiếng ta và tiếng ngươi
Đáng được, không đáng được
Ta từ vô số kiếp
Chẳng vì một chúng sanh
Mỗi mỗi niệm dứt ngay
Độ ít nào thấy chán
Đã độ vô số kể
Cũng chẳng lấy làm vui
Xưa ta là một kẻ
Riêng tu không độ người
Rồi sau đối với người
Thệ nguyền ta chẳng trái
Đây cõi Diêm Phù Đề
Sát Lợi, vua bốn họ
Ngoài Bà La Môn đó
Giai cấp khác đâu bằng
Nhân vì quán pháp giới
Sanh, già, bệnh,chết khổ
Ta không kia cũng không
Vì đâu sanh tử có?
Sanh đó nếu có nguồn
Vậy sanh đến từ đâu?
Thiết nghĩ gốc tử sanh
Niết bàn ở ngay ta
Rõ thấu pháp Niết Bàn
Không Phật cũng chẳng ta
Pháp từ nơi nào sanh?
Rối đến nơi đâu diệt?
Pháp chân thật Phật dùng
Nơi sanh đây chết kia
U mê được thấy rõ
Nói có cũng chẳng có
Nói không nào phải không
Xoay vần biển tử sanh
Vì năm dục trói buộc
Không tránh không tiên sách
Tự rớt vực tử sinh
Đến khi rành tội phước
Hối hận quá muộn màng.
Bấy giờ khi Đức Thế Tôn nói kệ này xong, có tám mươi bảy ức na do tha chúng sanh hiểu được pháp Không Hình Tướng và phát tâm Vô Thượng Phật Quả Bồ Đề.
PHẨM THỨ MƯỜI MỘT
CÓ SẮC-KHÔNG SẮC

Bấy giờ ở trên tòa có một vị Bồ Tát nghe trong hư không có tiếng Như Lai thì ngước nhìn hư không mà khen rằng: Hay thay! chỉ nghe tiếng Như Lai nào thấy hình kia. Sắc này chẳng có gốc sắc, các ấm cũng lại như thế. Chúng sanh cõi dục này không thể không độ, cần phải dùng kiếm tuệ phứt trừ khiến không còn chi. Xưa ta tu phạm hạnh, chẳng phải việc làm của thân miệng ý, chẳng một, chẳng hai, ngã dục từ nó mà phát sanh, do đây rớt ba đường. Mỗi niệm muốn diệt các tưởng cũng không có quá khứ, hiện tại, vị lai. Các chư Phật quá khứ giáo hóa các quần sanh khi nói quá khứ thì không nói hiện tại, vị lai. Khi nói vị lai thì không nói quá khứ, hiện tại. Khi nói hiện tại thì không nói quá khứ, vị lai. Hoặc nói có ba đời, hoặc nói không ba đời.
Lúc này Đức Thế Tôn muốn trùng giải nghĩa trên mới nói kệ rằng:
Gốc sanh già bệnh
Chư Như Lai cấu trần
Muốn vào Trung cứu tế
Chỉ vì địa ngục nhơn
Chẳng giống Diệu Giác Tôn
Ở Trung Ấm giáo hóa
Với pháp mầu tuyệt nhất
Kẻ hạ căn sao thấu
Như người ôm bát xin
Tùy người khác cấp cho
Người ôm bát nghĩ rằng
Không biết có hay không
Chưa chứng tự nói chứng
Là căn bổn tà kiến
Chánh pháp nói phi pháp
Lưu chuyển vực năm đường
Pháp phân biệt chánh pháp
Ở pháp tánh chẳng mất
Nếu không mất pháp tánh
Đây là lời chư Phật
Pháp tánh, không ba việc
Và không khứ, lai, kim
Nếu cho là hiện tại
Hiện tại đúng lúc nào?
Hoặc nói là quá khứ
Quá khứ ra làm sao?
Và nếu là tương lai
Tương lai nào là đúng?
Ai biết được phép này
Hiểu thông ba đời Phật
Thấu suốt không tạp tưởng
Y theo hạnh đại thừa
Chúng sanh có thiện duyên
Không gì không độ được
Ví như người mang nợ
Muốn vui vẻ trả xong
Trong ngoài đều thông đạt
Rong chơi chẳng e dè.
Bấy giờ Bồ Tát Đai Thế Chí và Quan Thế Âm nương theo âm hưởng giáo hóa của oai thần Phật liền dùng thần khẩu mà nói kệ rằng:
Gốc sanh già bệnh chết
Chư Như Lai cấu trần
Muốn vào Trung bạt khổ
Chỗ nào chẳng tới lui
Thầy tôi Vô Lượng Thọ
Kiếp kiếp vẫn còn hoài
Xưa tôi từng thệ nguyện
Chỉ vì địa ngục nhơn
Chẳng giống Diệu Giác Tôn
Ở Trung Ấm độ người
Với pháp mầu siêu tuyệt
Nguyện tôi khi thành Phật
Như Diệu Giác khác gì.
Khi Đức Quán Thế Âm nói kệ này xong có ba ức chúng sanh phát tâm Vô Thượng Phật Quả Bồ Đề.
PHẨM THỨ MƯỜI HAI
HOAN HỶ

Bấy giờ Đức Diệu Giác Như Lai vào Tam Muội Tịch Diệt, hầu muốn du hành tha phương thế giới và nhìn lại tâm niệm hăng hái của chúng sanh đã độ không thể suy lường, giống như tỳ kheo nhập pháp Tứ thiền, tâm ý thơ thới, không đói, không khát. Trong lòng ngài cảm thấy mừng vui. Hay thay, sự giáo hóa không sai với bổn nguyện. Thế rồi ngài nói kệ rằng:
Như Lai thần túc lực
Lìa khổ, bất thiện, hữu
Phân thân hóa nơi nơi
Muốn độ kẻ có duyên
Hiền kiếp nghìn chư Phật
Hóa độ đâu có khác
Cũng ở trong ba loại
Chánh pháp trừ phi pháp
Mở cửa pháp cam lồ
Bít lấp ba đường ác
Xưng dương Đại Trí Tuệ
Nhổ bật gốc ngu si
Tự trang nghiêm các pháp
Đều thanh tịnh trong ngoài
Từ bi, bốn đẳng tâm
Tràn đầy khắp mọi hướng
Gìn giữ thân, miệng, ý
Sinh, già, bệnh, vượt ngoài.
Khi Đức Thế Tôn nói kệ này, ba loại chúng sanh đầy khắp các cõi Tam Thiên Đại Thiên thế giới nương theo lời dạy của Ngài ở trong hư không đều phát tâm Vô Thượng Chánh Chơn Đạo Ý, vui vẻ phụng hành làm lễ rồi lui.
KINH TRUNG ẤM
QUYỂN HẠ
HẾT

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 2 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

TỪ ĐIỂN HỮU ÍCH CHO NGƯỜI HỌC TIẾNG ANH

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
1200 trang - 54.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
1200 trang - 45.99 USD



BẢN BÌA CỨNG (HARDCOVER)
728 trang - 29.99 USD



BẢN BÌA THƯỜNG (PAPERBACK)
728 trang - 22.99 USD

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 13.58.121.131 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập