Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Ai sống một trăm năm, lười nhác không tinh tấn, tốt hơn sống một ngày, tinh tấn tận sức mình.Kinh Pháp cú (Kệ số 112)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Đại Phật Đỉnh Như Lai Mật Nhơn Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh [大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經] »» Bản Việt dịch quyển số 9 »»

Đại Phật Đỉnh Như Lai Mật Nhơn Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh [大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經] »» Bản Việt dịch quyển số 9

» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (1) » Việt dịch (2) » English version (1) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.56 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.65 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Thủ Lăng Nghiêm

Kinh này có 10 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 |
Việt dịch: Hạnh Cơ

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Ma Chướng trên Đường Tu Tập
– Này A Nan! Những người tu tâm trong thế gian, vì không tu thiền định vô lậu nên không có được trí tuệ xuất thế gian. Họ chỉ giữ thân thanh tịnh, không hành động dâm dục, đi đứng ngồi nằm đều không nghĩ tưởng tới dâm dục. Niệm ái nhiễm không sinh thì họ vượt thoát lên khỏi cõi Dục; bản thân họ đã là bạn bè của hàng phạm hạnh, gọi đó là trời Phạm-chúng.
Trời Phạm-chúng, khi đã dứt trừ tập khí ngũ dục, tâm li dục hiển hiện, đối với các luật nghi đều vui vẻ tùy thuận; ngay lúc đó họ vượt khỏi trời Phạm-chúng, hoằng dương tịnh đức phạm hạnh, gọi đó là trời Phạm-phụ.
Trời Phạm-phụ, khi thân tâm viên mãn vi diệu, bốn oai nghi đi đứng ngồi nằm không còn khiếm khuyết, các cấm giới hoàn toàn thanh tịnh, lại có trí tuệ sáng suốt, thì liền lúc đó, họ có đầy đủ tư cách của một vị đại phạm vương, có khả năng thống lãnh toàn thể phạm chúng, gọi đó là trời Đại-phạm.
Này A Nan! Ba hạng thiên chúng vượt trội trên đây không còn bị mọi thứ khổ não bức nhiễu; tuy họ không tu tập theo chánh định của Phật pháp, nhưng trong tâm đã giữ giới trong sạch, các lậu hoặc của cõi Dục không lay động được, nên gọi đó là trời Sơ-thiền(226).
Này A Nan! Thứ đến, trời Đại-phạm khi thống lãnh phạm chúng, được phạm hạnh viên mãn, lắng tâm không giao động; do sự lặng trong mà bắt đầu phát ra ánh sáng, gọi đó là trời Thiểu-quang.
Ánh sáng nơi thân và ánh sáng nơi tâm cùng chiếu rọi nhau, rực rỡ vô tận, soi thấu mười phương thế giới; nội thân ngoại cảnh trong suốt, khắp nơi trở thành lưu li, gọi đó là trời Vô-lượng-quang.
Giữ lấy ánh sáng toàn vẹn, lấy đó làm âm thanh thanh tịnh để giáo hóa thiên chúng, ứng dụng không cùng, gọi đó là trời Quang-âm.
Này A Nan! Ba hạng thiên chúng vượt trội trên đây không còn bị các thứ lo buồn bức nhiễu; tuy họ không tu tập theo chánh định của Phật pháp, nhưng trong tâm đã thanh tịnh, các lậu hoặc thô trọng đã được điều phục, nên gọi đó là trời Nhị-thiền(227).
Này A Nan! Thiên nhân cõi trời Quang-âm kia phát huy ánh sáng viên mãn để thành tựu âm thanh làm phương tiện giáo hóa, hiển lộ diệu lí mà phát ra hạnh tinh thuần, xa lìa cái động của nỗi mừng mà bắt đầu hòa nhập vào niềm vui tĩnh lặng, gọi đó là trời Thiểu-tịnh.
Tịnh cảnh bây giờ cũng trống không, dẫn phát bao la không bờ bến, thân tâm nhẹ nhàng trong niềm vui tĩnh lặng, gọi đó là trời Vô-lượng-tịnh.
Thế giới và thân tâm, tất cả đều hoàn toàn thanh tịnh; đức tánh thuần tịnh thành tựu viên mãn, chỗ qui thác thù thắng hiện tiền, trở về cõi vui tĩnh lặng, gọi đó là trời Biến-tịnh.
Này A Nan! Ba hạng thiên chúng vượt trội trên đây, đầy đủ công năng tùy thuận, thân tâm an ổn, được niềm vui cực diệu vô lượng; tuy không có được chánh định của Phật pháp, nhưng trong tâm an ổn, hoan hỉ trọn vẹn, nên gọi đó là trời Tam-thiền(228).
Lại nữa, này A Nan! Thiên chúng ở cõi Tam-thiền kia, thân tâm không còn bị bức nhiễu, không còn những nguyên nhân gây đau khổ thì cái vui phát sinh; nhưng họ xét thấy cái vui cũng không thường còn vĩnh viễn, lâu rồi cũng phải hoại diệt, cho nên liền xả bỏ cùng lúc cả hai tâm vui khổ. Các tướng thô trọng đã diệt thì tánh phúc đức thanh tịnh phát sinh, gọi là trời Phúc-sinh.
Khi tâm xả bỏ đi đến chỗ viên dung, cái thấy về năng-xả sở-xả cũng không còn, hoàn toàn thanh tịnh; ở trong cái tịnh phúc không giới hạn đó, họ được tâm tùy thuận nhiệm mầu, cho đến cùng tột đời vị lai, gọi đó là trời Phúc-ái.
Này A Nan! Từ cõi trời Phúc-ái đi tiếp lên nữa thì có hai ngã rẽ: Nếu ở nơi cái tâm tùy thuận nhiệm mầu trước kia, nay nhờ sức thiền định thâm sâu mà phát ra ánh sáng thanh tịnh vô lượng, lại tiếp tục huân tu phúc đức cho đến chỗ tròn đầy sáng suốt, và an trụ nơi đó, gọi là trời Quảng-quả. Nếu ở nơi cái tâm nhàm chán cả khổ vui trước kia, nay lại nghiền ngẫm tăng tiến tu tâm phóng xả, liên tục không gián đoạn, cho đến lúc tròn vẹn cùng tột sự buông bỏ, thân tâm đều diệt, dứt bặt tư duy, trải 500 kiếp. Thiên nhân này đã lấy cái sinh diệt làm nhân tu tập, nên không thể phát minh cái tánh không sinh diệt, vì vậy, trong nửa kiếp đầu thì tu tập để đạt được sự diệt tư tưởng, đến nửa kiếp chót, lúc thọ mạng sắp hết, thì tâm tưởng tự sinh trở lại. Đó là trời Vô-tưởng.
Này A Nan! Bốn hạng thiên chúng vượt trội trên đây, tất cả các cảnh khổ vui trong thế gian đều không lay động được; tuy không phải là địa vị bất động vô vi chân thật của Phật pháp, nhưng trong tâm cũng đã có chỗ sở đắc về định buông xả, công dụng đã đến mức thuần thục, cho nên gọi là trời Tứ-thiền(229).
Này A Nan! Ở trong tầng trời Tứ-thiền này, lại còn có năm cõi trời Bất-hoàn. Các vị thánh ở năm cõi trời này, trước kia ở Dục giới đã đoạn trừ hết chín phẩm tập khí tư hoặc, cái khổ ở cõi Dục đã tiêu, mà cái vui ở các cõi Sơ, Nhị và Tam-thiền cũng không hưởng thọ; những cõi dưới đó không phải là chỗ ở của quí vị ấy nữa, nên an lập chỗ ở nơi đây, đồng phận trong tâm xả với thiên chúng Tứ-thiền.
Này A Nan! Khổ vui đều đoạn diệt, tâm chán khổ và tâm thích vui không còn giao tranh nhau, đó là trời Vô-phiền.
Phóng ra hay thu vào, cũng chỉ duy nhất một niệm xả; và niệm xả ấy cực kì vi tế, không thể nào suy cứu hay giao tiếp được, đó là trời Vô-nhiệt.
Chứng đắc thiên nhãn thông, thấy rõ trọn vẹn mười phương thế giới, không bị ngoại cảnh chướng ngại; tâm niệm lắng trong, không còn tì vết của cấu nhiễm, đó là trời Thiện-kiến.
Cái thấy tinh diệu đã hiện tiền, sức định tuệ tùy tâm vận dụng vô ngại, đó là trời Thiện-hiện.
Suy cứu cùng cực, từ nhiều niệm tiến đến chỉ còn một niệm; từ sắc thể thô trọng tiến đến chỗ cực vi tế, nhập vào cảnh giới toàn không, giáp giới cõi Không-vô-biên-xứ, đó là trời Sắc-cứu-cánh.
Này A Nan! Năm cõi trời Bất-hoàn(230) này, chỉ riêng bốn vị thiên vương của bốn cõi trời Tứ-thiền ngay phía dưới được nghe tên và kính ngưỡng, nhưng không thể biết sự thọ dụng thế nào, không thể thấy y chánh báo ra sao; cũng như hiện tại ở thế gian, đạo tràng của thánh nhân ở những chốn rừng sâu núi thẳm, đều là nơi các bậc A-la-hán trụ trì, mà người phàm phu thô lậu đâu có thể thấy biết được!
Này A Nan! Mười tám cõi trời trên đây, sống trong thiền định thanh tịnh tĩnh lặng, không giao tiếp bạn bè như ở nhân gian, nhưng vẫn chưa thoát khỏi hết cái hệ lụy của thân hình. Từ cõi trời Sắc-cứu-cánh đây, xuống cho đến cõi trời Phạm-chúng, gọi là cõi SẮC GIỚI.
Lại nữa, này A Nan! Từ cõi trời cao nhất của Sắc giới này đi lên, trong khoảng giữa sắc và vô sắc, lại có hai đường tẽ:
Nếu ở nơi tâm xả mà phát huy trí tuệ vô lậu đến mức sáng suốt viên mãn, thì vượt thoát trần gian, thành A-la-hán, tiến vào Bồ-tát thừa, đó gọi là bậc Hồi-tâm Đại A-la-hán.
Nếu ở nơi tâm xả mà thành tựu niệm chán bỏ, biết rằng còn có thân là còn có chướng ngại, bèn tiêu trừ cái sắc thân chướng ngại ấy để nhập vào hư không, đó gọi là cõi trời Không-xứ.
Các chướng ngại đã tiêu trừ, mà cái hư không vô ngại cũng diệt, chỉ lưu lại thức a-lại-da và phần vi tế của thức mạt-na, đó là cõi trời Thức-xứ.
Sắc không đã tiêu mất, phần vi tế của thức mạt-na cũng tiềm phục không hiện hành, mười phương vắng lặng, hoàn toàn không có chỗ đi về, đó là cõi trời Vô-sở-hữu-xứ.
Thức tánh vốn bất động, dùng sức diệt tận định để nghiệm xét cùng cực. Ở trong cái thức tánh vô tận mà miễn cưỡng tuyên bày cái tánh tận, cho nên hình như còn mà không phải còn, giống như hết mà không phải hết, đó là cõi Phi-tưởng-phi-phi-tưởng xứ.
Bốn cõi trời Không đó, muốn khiến cho tâm cảnh đều không, nhưng không hoàn toàn đạt được lí không. Nếu từ năm cõi trời Bất-hoàn lên đây mà tu tập thánh đạo, đến chỗ chứng nhập lí ngã không, gọi đó là bậc Bất-hồi-tâm độn A-la-hán. Nếu từ các cõi trời Vô-tưởng và Quảng-quả lên đây mà tu tập thiền định hữu lậu, mê trời hữu lậu, không nghe biết chánh pháp, cái đạt được chỉ là không tưởng, không có chỗ quay về, cho nên phải vào lại trong vòng lưu chuyển luân hồi. Này A Nan! Bốn cõi trời Không đó, thân tâm diệt hết, chỉ có định tánh hiện tiền, không có các nghiệp quả bằng sắc pháp; từ cõi Không-xứ cho đến cõi Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ, gọi là cõi VÔ SẮC GIỚI.
Này A Nan! Thiên chúng ở các cõi trời trên đây (ngoại trừ ở năm cõi Bất-hoàn), đều là người phàm phu được hưởng thọ phước báo; khi hưởng phước hết rồi thì trở lại luân hồi. Riêng các vị thiên vương của các cõi trời kia thì đều là Bồ-tát, luôn trụ trong chánh định, dần dà tiến lên trên đường tu tập hướng tới Phật đạo.
Tất cả thiên chúng đó đều do không rõ biết tánh giác sáng suốt nhiệm mầu vốn có nơi mình, cho nên vọng niệm tích tụ, rồi vọng sinh ba cõi; trong đó, các loài hữu tình, mỗi mỗi lại tùy theo vọng nghiệp mà chìm đắm trong bảy nẻo, thọ báo theo loại của mình.
Lại nữa, này A Nan! Trong ba cõi ấy còn có bốn loài A-tu-la: Có loài nguyên từ loài Quỉ, do phước lực hộ trì Phật pháp mà có được thần thông, nhập vào hư không; loài A-tu-la này sinh ra từ trứng, thuộc về loài Quỉ. Có loài nguyên từ loài Trời, vì kém phước đức mà bị đọa lạc, ở gần mặt trời mặt trăng; loài A-tu-la này sinh ra từ bào thai, thuộc về loài Người. Có A-tu-la vương nắm giữ thế giới, sức mạnh suốt khắp chư thiên, không hề sợ ai, hay tranh quyền mà gây chiến với các trời Phạm Vương, Đế Thích và Tứ Thiên Vương; loại A-tu-la này do biến hóa mà sinh ra, thuộc về loài Trời. Này A Nan! Lại có loài A-tu-la thấp kém, sinh trong lòng biển cả, lặn dưới vực sâu, ban ngày dạo đi trên hư không, tối về ngủ dưới nước; loại A-tu-la này do thấp khí sinh ra, thuộc về loài Súc-sinh.
Này A Nan! Xét cho cùng thì cả bảy nẻo: Địa-ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh, Người, Tiên, A-tu-la, và Trời, đều là những tướng hữu vi, chìm đắm trong các cảnh giới tối tăm, do vọng tưởng mà thọ sinh, rồi cũng theo vọng tưởng mà tạo nghiệp; ở trong bản tâm vô tác, mầu nhiệm, sáng suốt, tròn đầy, chúng đều như hoa đốm giữa hư không, chẳng có chút gì dính dáng, tuyệt không gốc rễ mối manh, chỉ thuần là hư vọng.
Này A Nan! Các loài chúng sinh đó, vì không nhận rõ bản tâm mà phải thọ khổ trong bảy nẻo luân hồi này. Trải vô lượng kiếp, chúng không hề có được sự thanh tịnh chân thật, cũng bởi do buông lung theo các nghiệp sát, đạo, dâm, hoặc ngược lại ba nghiệp trên thì sinh ra không-sát, không-đạo, không-dâm; có sát đạo dâm thì đọa vào ba đường ác, không sát đạo dâm thì vào bốn cõi lành; có và không cứ đắp đổi thay nhau, khởi tánh luân hồi không dứt.
Nếu khéo phát huy được đại định thì tâm tánh trở nên thường hằng, tĩnh lặng, nhiệm mầu, có và không đều không, không-có và không-không cũng diệt; lúc đó, niệm không-sát, không-đạo, không-dâm còn không có, thì lấy gì mà buông lung theo các việc sát, đạo, dâm?
Này A Nan! Vì không đoạn dứt ba ác nghiệp nên mỗi mỗi chúng sinh đều tự mình tạo nghiệp riêng. Từ những nghiệp riêng ấy nhóm chung lại thành nghiệp đồng phận, cho nên nơi thọ báo không phải là không có chỗ nhất định. Tất cả đều do một niệm vọng động phát sinh; mà vọng tánh thì không có thật thể, không thể truy tìm nguồn gốc từ đâu được.
Người tu hành, muốn đạt đạo Vô-thượng Bồ-đề, cần phải dứt trừ ba hoặc(231). Ba hoặc chưa trừ hết thì dù có được thần thông, cũng chỉ là những công dụng hữu vi của thế gian. Tập khí mê lầm chẳng tận diệt thì cuối cùng cũng rơi vào đường ma; tuy muốn trừ cái vọng, nhưng lại chồng chất cái vọng nhiều thêm. Như Lai nói đó là người rất đáng thương xót!
Cái vọng đó là do tự tâm mình tạo ra, không phải là lỗi ở tánh bồ đề. Nói như thế tức là lời nói chân chánh; nếu nói khác đi thì đó là lời nói của ma vương.
Lúc đó đức Phật sắp chấm dứt thời pháp, ở nơi tòa sư tử, Ngài vịn ghế thất bảo, xoay thân sắc vàng sáng rỡ, không đợi thỉnh hỏi, Ngài bảo khắp đại chúng và đại đức A Nan rằng:
– Quí thầy là hàng hữu học Thanh-văn, Duyên-giác, đã hồi tâm hướng về quả Vô-thượng Diệu-giác Đại-bồ-đề. Nay Như Lai đã vì quí thầy mà chỉ dạy pháp tu hành chân thật; nhưng vẫn còn một việc mà quí thầy chưa biết, đó là những ma sự phức tạp có thể gặp phải trong lúc tu tập thiền định. Nếu cảnh ma hiện ra mà không nhận biết, thì việc tẩy trừ tâm cấu nhiễm sẽ không làm đúng cách, lại còn rơi vào tà kiến. Hoặc là ma ngũ ấm nơi chính mình, hoặc là thiên ma, hoặc là các loại quỉ thần, li mị, những thứ ấy hiện khởi mà trong tâm nếu không biết rõ ràng, thì chắc chắn sẽ nhận giặc làm con. Mặt khác, trong lúc tu tập, mới được chút ít đã cho là đầy đủ. Như tì kheo Vô Văn, vừa được định Tứ-thiền bèn nói dối là chứng Thánh quả. Đến khi phước báo chư thiên hết rồi, tướng suy hiện ra, lại hủy báng rằng: “Đã chứng quả A-la-hán mà còn thọ thân sau!”, liền bị đọa xuống địa ngục A-tì. Vậy giờ đây quí thầy hãy lắng nghe cho kĩ, Như Lai sẽ vì quí thầy mà phân biệt rành rẽ.
Đại đức A Nan cùng hàng hữu học trong chúng hội đồng đứng dậy, vui mừng đảnh lễ, thành tâm kính nghe Phật từ bi chỉ dạy.
Đức Phật bảo đại đức A Nan cùng đại chúng:
– Quí thầy nên biết, mười hai loài chúng sinh trong thế giới hữu lậu, tâm thể vốn tròn đầy, sáng suốt nhiệm mầu, cùng với chư Phật mười phương không hai, không khác. Do vì vọng tưởng mà mê muội chân lí, rồi thành ra lỗi lầm, si ái phát sinh, đối với chân tâm bản giác hoàn toàn mê vọng, không thấy chân giác mà chỉ thấy có hư không. Mê vọng biến hóa không ngừng, nên từ hư không mà có thế giới sinh ra. Vậy thì các quốc độ nhiều như vi trần trong mười phương này đều không phải là vô lậu, mà đều do vọng tưởng mê lầm kiến lập.
Quí thầy nên biết, hư không vô biên sinh từ trong tâm quí thầy, chỉ như một làn mây mỏng điểm trên bầu trời xanh bao la, huống chi là các thế giới ở trong hư không ấy! Nếu trong số quí thầy, một vị nào đó tâm bỗng bừng sáng, quay về cội nguồn chân thật, thì mười phương hư không kia thảy đều tiêu mất; làm sao các quốc độ trong cõi hư không ấy lại được bảo toàn mà không bị rung đổ? Quí thầy tu thiền, tập định, ngay trong sự đi đứng ngồi nằm mà tâm thường tinh tường trong lặng, thì được cùng thông hợp với chư vị Bồ-tát và vô lậu đại A-la-hán trong mười phương. Trong khi đó thì tất cả ma vương, quỉ thần, chư thiên phàm phu, đều thấy cung điện của mình không có cớ gì, bỗng nhiên bị sụp đổ; đại địa rung động; các loài bay trên không, đi trên đất, bơi lội dưới nước, đều hoảng kinh sợ sệt; hạng người phàm phu hôn muội không biết có người tu hành sắp chứng quả, thấy vô cớ mà cảnh vật rung chuyển xê dịch thì nói ngoa rằng: do âm dương mất điều hòa.
Những loài thiên ma, quỉ thần kia đều có được năm thứ thần thông (chỉ trừ lậu tận thông là không có), còn luyến tiếc chốn trần lao này, đâu chịu để cho chỗ ở của họ bị phá đổ! Vì vậy, trong lúc quí thầy đang ở trong định thì quỉ thần, thiên ma, vọng lượng, yêu tinh, đến quấy phá. Nhưng các loài ma mị kia, dù có giận dữ thế nào đi nữa, chúng vẫn ở trong chốn trần lao sinh diệt, còn quí thầy thì ở trong cảnh giới diệu giác chân thường; cái sinh diệt muốn phá hoại cái chân thường thì cũng giống như gió thổi ánh sáng, như dao chém nước, chẳng hề hấn gì. Người tu chánh định như nước sôi, bọn tà ma như cục nước đá; nước đá gần hơi nóng thì chẳng mấy chốc liền tiêu tan. Các loài quỉ thần yêu ma kia tuy cậy có sức thần thông, nhưng cũng chỉ như khách trọ qua đêm. Chúng quấy phá được chăng, chính là do người chủ năm ấm ở trong tâm quí thầy; người chủ nếu mất chánh niệm thì khách mới được dịp quấy phá.
Lúc đang nhập định, nếu trí tuệ sáng tỏ, không chút mê lầm, thì các ma chướng kia không làm gì được. Năm ấm tiêu tan, nhập vào kho tàng ánh sáng, thì bọn tà ma kia đều phải chịu phận tối tăm. Lấy trí tuệ sáng suốt để phá trừ u tối, ánh sáng đi tới đâu thì bóng tối tự tiêu mất tới đó. Như thế thì yêu ma làm sao dám ở lại để quấy nhiễu người tu thiền định?
Nếu bị năm ấm mê hoặc, không thấy rõ cảnh ma, thì, này A Nan, ngay chính thầy là con của ma, và kết quả tu tập cũng chỉ trở thành ma quân mà thôi! Như cô Ma Đăng Già, sức hãy còn yếu ớt, nhưng chỉ dùng một câu chú mà bắt thầy phải phá luật nghi của Phật, trong tám muôn hạnh chỉ phá một giới; may mà tâm thầy còn thanh tịnh nên chưa bị chìm đắm. Còn bọn ma năm ấm đây, chúng muốn phá hoại pháp thân huệ mạng của thầy, như ông quan tể tướng, một hôm phạm tội, nhà cửa gia sản liền bị tịch biên, long đong phiêu bạt, không ai thương xót cứu giúp được.
Này A Nan! Thầy nên biết, thầy ngồi nơi đạo tràng, các niệm đều tiêu mất. Các niệm đã tiêu hết, thì trong tâm li-niệm, tất cả đều thuần nhất sáng tỏ, động tĩnh không đổi dời, nhớ quên như một. Ngay ở trạng thái đó mà nhập vào chánh định thì như người sáng mắt ngồi ở chỗ tối tăm, tánh tinh thuần tuy vẫn thanh tịnh nhiệm mầu, nhưng tâm chưa phát sáng; đó là bởi vì căn tánh vẫn còn bị sắc ấm hạn chế ngăn che. Khi nào con mắt sáng tỏ, mười phương rỗng suốt, không còn tối tăm, thì đó là lúc sắc ấm đã hết, người tu hành bấy giờ mới đạt được kết quả đầu tiên là vượt khỏi kiếp trược. Như vậy, xét kĩ lại nguyên do của sắc ấm, thì gốc rễ chính là vọng tưởng kiên cố.
Này A Nan! Đang trong lúc tu định mà sắc ấm chưa phá trừ, suy xét tinh tường tánh sáng suốt nhiệm mầu, trong khoảnh khắc thấy thân này như bóng, ngoại cảnh như mây, bốn đại không còn kết hợp, không có gì ngăn ngại; đó gọi là tâm tinh diệu sáng suốt tuôn tràn trước mắt. Nhưng đó chỉ là do dụng công tư duy mà tạm được kết quả như thế, không phải đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.
Này A Nan! Cũng ở trong tâm định này, suy cứu tinh tường tánh sáng suốt nhiệm mầu, tự thấy thân mình rỗng suốt, hành giả bỗng nhiên từ trong thân mình, nhặt ra những con sán lãi, mà thân vẫn bình thường, không bị thương tổn; đó gọi là tâm tinh diệu sáng suốt tuôn tràn nơi hình thể. Nhưng đó chỉ là do tu tập tinh tiến mà tạm được kết quả như thế, không phải đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.
Cũng ở trong tâm định này, tinh tường suy cứu trong thân ngoài cảnh, khi ấy thì hồn phách, ý chí, tinh thần, ngoài cái thân ra, đều xen nhập vào nhau, đắp đổi làm chủ, làm khách của nhau. Bấy giờ, hành giả bỗng nghe tiếng nói pháp ở trên không, hoặc nghe khắp mười phương đồng diễn bày diệu nghĩa bí mật; đó gọi là tinh thần hồn phách đắp đổi khi lìa khi hợp. Nhưng đó chỉ là do nhân lành bao đời tích tập, bây giờ tự phát huy mà tạm được kết quả như thế, không phải đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.
Cũng ở trong tâm định này, lắng trong thấu suốt, ánh sáng từ bên trong hiển hiện, chợt thấy mọi vật trong khắp mười phương đều biến thành màu vàng kim, tất cả các loài đều hóa thành chư Phật; lại thấy đức Phật Tì Lô Giá Na ngồi trên đài thiên quang, có hàng ngàn đức Phật vây quanh; trăm ức quốc độ cùng với hoa sen cùng lúc xuất hiện. Ấy gọi là tâm thức linh ngộ; nhưng đó chỉ là sự huân tập do từng được nghe kinh pháp từ bao đời, bây giờ tâm sáng phát ra chiếu soi khắp các thế giới; chỉ tạm nói là như thế, chứ không phải đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.
Cũng ở trong tâm định này, suy cứu tinh tường tánh sáng suốt nhiệm mầu, quán sát không ngừng, ức chế hàng phục tự tâm; cố gắng thái quá, bỗng thấy mười phương hư không đều thành màu bảy báu, hoặc màu trăm báu, tất cả đồng thời đầy khắp mà không chướng ngại nhau; các màu xanh vàng đỏ trắng, mỗi mỗi hiện ra tinh thuần, không hỗn tạp. Đó chỉ là do dụng công ức chế thái quá, khiến cho định lực vượt hơn tuệ lực mà tạm có kết quả như thế, không phải đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.
Cũng ở trong tâm định này, tĩnh lặng rỗng suốt, phát sinh ánh sáng tinh thuần, không loạn động, bỗng nhiên nửa đêm, ở trong nhà tối mà hành giả trông thấy mọi vật tỏ rõ như giữa ban ngày, mà những vật trong nhà tối ấy vẫn y nhiên, không chút gì thay đổi. Đó là tâm tinh tế kín nhiệm làm lắng trong cái thấy, nên thấy rõ suốt chỗ tối tăm mà tạm được như thế, không phải là đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.
Cũng ở trong tâm định này, trọn vẹn dung thông với hư không, bỗng nhiên hành giả thấy tứ chi đồng như cây cỏ, dù lửa đốt hay dao cắt cũng không có cảm giác gì; thậm chí ngọn lửa hực không thể làm cho nóng, dù cắt thịt cũng giống như chẻ cây. Đó là các trần đều tiêu, bốn đại giải trừ, tiến thẳng vào chỗ thuần nhất, mà tạm được kết quả như thế, không phải đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.
Cũng ở trong tâm định này, thành tựu tâm thanh tịnh; dụng công làm trong sạch tâm đến cùng cực, hành giả bỗng thấy mười phương sơn hà đại địa đều biến thành Phật độ, đầy đủ bảy báu, chói sáng cùng khắp; lại thấy hằng sa chư Phật đầy khắp cõi hư không, lầu các đại điện trang nghiêm hoa lệ; nhìn xuống thấy địa ngục, nhìn lên thấy thiên cung, rõ ràng không chướng ngại. Đó là ngày thường nghe kinh pháp mà khởi tâm ưa thích cảnh thanh tịnh và chán ghét cảnh uế nhiễm, quán tưởng huân tập lâu ngày mà hóa thành như thế, chứ không phải là đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.
Cũng ở trong tâm định này, suy cứu đến những cảnh sâu xa, bỗng ở giữa đêm, hành giả thấy những cảnh tượng ở phương xa, nào chợ búa, giếng nước, đường lớn, hẻm nhỏ, nào bà con quyến thuộc; và nghe cả lời nói ở những nơi ấy. Đó là do tâm bị định lực dồn nén, dồn ép đến cùng khiến ánh sáng bay ra mà thấy được chỗ xa cách, chứ không phải là đã chứng bậc thánh. Nếu hành giả gặp cảnh giới này mà không bám chặt, không cho là mình đã chứng bậc thánh, thì đó là cảnh giới thiện tường; nếu tự đắc mà cho là mình đã chứng bậc thánh, liền rơi vào tà kiến.
Cũng ở trong tâm định này, suy cứu đến chỗ tinh thuần cùng cực, hành giả tự thấy mình là một v