Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@pgvn.org
  PHẨM THỨ BA : THỌ KÝ  
     II- Ở trong, đức Thế Tôn lại bảo Đại Bồ tát Hỷ vương rằng :
     - Này Hỷ Vương ! Nếu lại có Bồ tát nương vào chúng sinh của ta, qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, mà thí cho, hộ giới, niệm Nhẫn, phát khởi tinh tấn, vào thiền định, tu trí tuệ. Nếu lại có Bồ tát tín giải các pháp vô ngã thì vị này hơn vị kia về phước đức tụ sinh ra và mau chóng chứng Vô Thượng Chánh Giác. Vì sao vậy? Này Hỷ Vương ! Thuở xưa, đời quá khứ, chẳng thể tính được kiếp, lại quá không tính toán, chẳng thể lường, vô lượng chẳng thể nghĩ ca la đó (bất động) tam ma gia đó (bình đẳng) có đức Như Lai ra đời hiệu là Bảo Quang Uy Luân Vương Ứng Chánh Biến Tri Minh Hành Cụ Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn, thế giới tên là Hữu Bảo; kiếp tên là Ứng Vãng. Lại này Hỷ Vương ! Ca la đó, tam ma gia đó, đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai đó có Hữu Bảo thế giới giàu có phong túc rất là vui sướng, nhiều người chen nhau huyên náo, đất đai bằng phẳng như bàn tay, không có sành sõi, thừa thải vàng bạc, như sờ vào áo Cơ chơn lâu nê ca, tám con đường nối liền nghiêm sức thuần màu xanh dạ lưu ly. Và có hoa sen vàng Diêm phù na đa (Diêm phù đàn kim) tự nhiên sinh ra trong phần lớn đất đai. Hoa lớn như bánh xe, hương sắc đẹp đẽ thơm lừng. Thế giới đó rộng rãi có đến sáu mươi bốn câu trí trăm ngàn châu. Trong mỗi một bốn châu có sáu mươi bốn câu trí trăm ngàn thành. Những thành lớn đó đều rộng ba mươi hai dũ xà na, đều có tường vách bằng bảy báu và có nhiều câu trí na do đa trăm ngàn chúng sinh trụ ở. Mỗi một thành lớn có mười hai ngàn thôn, thành, phường, ấp vây quanh. Những đại thành đó nhất nhất đều có năm trăm ngôi vườn thọ dụng với đủ thứ những cây báu đầy hoa trái hương thơm vây quanh trang nghiêm. Trong những vườn đó nhất nhất đều có ba mươi hai ao hoa (hoa trì), trong ao ấy đầy tràn nước tám phần cụ túc (nước tám công đức). Cát vàng (kim sa) trải khắp, lan can báu vây quanh xen lẫn những thanh dạ lưu ly. Và có hoa báu Ưu ba la, ba đầu ma, Cứu mâu đà, Bôn trà lợi (Phân đà lợi)... sinh ra trong vườn ấy. Những loài chim như ngỗng, nhạn, giao thanh, khổng tướng, uyên ương, Ca la tần già, mạng mạng (cộng mạng) trụ ở trong những hoa Ưu ba la, Ba đầu ma, Cứu mâu đà, Bôn trà lợi đó, mỗi mỗi đều phát ra âm thanh. Này Hỷ Vương ! Ca la đó, Tam ma gia đó, đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai có khu vườn tên là Ái Kiến mà đức Thế Tôn đã ở trong đó. Đức vua cai trị xứ tên là Hữu Nguyệt y chỉ mà trụ chung với bảy mươi hai câu trí Thanh văn và tám mươi bốn câu trí Bồ tát đều chẳng thoái chuyển. Này Hỷ Vương ! Có Nguyệt Vương cai trị xứ, có bảy bảy mươi hai câu trí trụ ở. Trong các xứ đó có tám đường thông nhau. Lại này Hỷ Vương ! Có Nguyệt Vương cai trị xứ, rộng sáu mươi bốn dũ xà na với tường vách bằng bảy báu, lan can bảy báu, đủ thứ các trụ cửa báu và cây Đa la hàng lối la liệt đều mắc lưới gắn chuông nhỏ. Lại này Hỷ Vương ! Ca la đó, Tam ma gia đó, trong đó có Nguyệt Vương cai trị xứ, có vua tên là Bảo Nguyệt, ở trong bốn ngàn châu, chuyển luân tự tại, vì pháp thi hành vương pháp. Lại này Hỷ Vương ! Vua Bảo Nguyệt đó với vua hữu Nguyệt kia, chỗ cai trị đều tạo lập cung điện, nhà cửa bằng bảy báu, đều rộng bốn dũ xà na với bảy lớp tường ngăn... cho đến lưới gắn chuông thất bảo giăng mắc vây quanh và lưới bằng ngọc Ma ni che bên trên những thứ ấy. Trong cung điện nhà cửa đó, bốn phương có bốn ngôi vườn lớn, một tên là Tạp Họa (vẽ) Xa, hai tên là Thường Khai Hoa, ba tên là Hy Kiến, bốn tên là Chánh Hạnh Lạc. Trong vườn lớn đó có đủ thứ cây sinh ra. Đó là cây báu, cây cho hoa, cây cho mùi thơm, cây cho quả, cây anh lạc (cho chuỗi ngọc), cây cho áo, cây âm nhạc, cây phú sa (cát giàu), cây nguyệt thượng, cây nhật thượng viêm. Trong vườn lớn đó nhất nhất đều có bốn ao hoa lớn đầy ắp nước Chiên đàn na với lan can báu giáp vòng, đáy ao trải cát vàng Diêm phù na đa. Các hoa báu Ưu ba la, Ba đầu ma, Cứu mâu đà, Bôn trà lợi che bên trên ao ấy. Chim uyên ương hòa kêu. Lại này Hỷ Vương ! Vua Bảo Nguyệt đó có bốn mươi hai ngàn phụ nữ đứng vào hàng các thiên đồng nữ. Trong số đó có một thiên phụ (phụ nữ trời) rất lớn tên là Hữu Phước. Nhan sắc người ấy minh hiển hơn hẳn các trời. Lại này Hỷ Vương ! Vua Bảo Nguyệt đó có mười hai ngàn người con, hình sắc thắng diệu, người nhìn thấy đều tin yêu. Người con tối thượng tịnh sắc viên mãn cụ túc, có hai mươi tám tướng đại trượng phu trang nghiêm khắp thân. Này Hỷ Vương ! Vua Bảo Nguyệt xuất cung, đến trong vườn Ý Hỷ Kiến dạo chơi, hành lạc. Tối đại thiên phụ tên là Hữu Phước, trong lòng bỗng có một đứa trẻ hóa sinh trụ trên mu bàn chân, hình sắc thắng diệu, người nhìn thấy đều tin yêu, có hai mươi tám tướng đại trượng phu đầy đủ. Đứa trẻ đó, vào lúc sinh ra nói lời như vầy : “Các hạnh vô thường, vô trụ không có dừng yên, điên đảo hướng về pháp”. Đứa trẻ đó thuận nối nhau, nói kệ này :
 Các hạnh vô thường không dừng yên
 Không trụ, không bền đão hướng pháp
 Phàm tiểu niệm, đây là thường an
 Vì dục buông lung không chánh niệm
 Theo “hữu dục” người và chư thiên
 Đều là vô thường, tận pháp thể  
 Với dục chán đủ chưa có từng
 Không chắc khổ dục là căn khổ.
 Có Thế Tôn hiệu là Bảo Quang
 Ngài nói vô cấu vô vi pháp
 Các căn ở trong tịch không còn
 Và thánh lạc Bồ đề vô lậu
 Lời này Ngài nghe con trình lên :
 Như Lai ra đời khó gặp được
 Nên cùng đi đến bên Thế Tôn (Thiện Thệ)
 Trời hơn cả trời, quang minh hạnh.
 Này Hỷ Vương ! Lúc bấy giờ, vua Nguyệt Bảo hướng về đồng tử kia lại nói kệ rằng :
 Ông là trời, rồng, Dạ xoa, thần
 Đồng tử vì ta nói nghĩa ấy
 Ông sinh nói lời như vậy liền
 Với Phật pháp nói lời khen ngợi
 Ông chết ở đâu, đến thế gian?
 Ông tên là gì? Hướng ta nói !
 Ánh sáng đều soi khắp trong vườn
 Thắng đức uy thần, ông hiển chiếu.
 Đồng tử đáp lại rằng :
 Có đấng trượng phu ở phương Đông
 Tên đạo sư Tu Mê Lưu Tụ
 Con chết ở đó đến thế gian
 Pháp Vương Bảo Quang, con muốn thấy
 Như vậy Pháp Thượng là tên con
 Con nay phát nguyện tu Phật trí
 Ngài nếu muốn nghe tối tôn
 Nên cùng đi đến bên Thiện Thệ.
 Này Hỷ Vương ! Lúc bấy giờ, vua Nguyệt Bảo cùng với đồng tử Pháp Thượng và các phụ nữ, các vương tử và rất nhiều người vây quanh khóc đi đến vườn Ái Kiến, hướng về chỗ của đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai Ứng Chánh Biến Tri. Đến rồi, nhà vua đảnh lễ dưới chân đức Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lui về trụ ở một bên. Số rất đông người đi theo vua ấy cũng đảnh lễ dưới chân đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương rồi lui về trụ ở một bên. Đồng tử Pháp Thượng làm lễ dưới chân đức Thế Tôn đó rồi, miệng kêu ở dưới chân Ngài mà nói lời như vầy : “Thưa đức Thế Tôn ! Đức Như Lai Tu Mê Lưu Tụ gởi lời hỏi thăm đức Thế Tôn là ngài có được ít bệnh ít não, đi ở nhẹ nhàng, khí lực hành động thoải mái chăng?” Đồng tử nói rồi, đứng trước đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai và hướng về đức Thế Tôn đó mà nói kệ rằng :
 Đấng Vô Thượng Tư Nghị Cúng Dường
 Tối Thắng diễn nói hạnh Vô Tránh
 Độ thoát chúng sinh nhiều không lường
 Nhân Chúa tại tòa, nay con lễ
 Ba ngàn cõi này làm Giáo Vương
 Thế Tôn hay dùng Pháp bảo thí
 Vì người rộng nói báu pháp tàng
 Phá vua Ma la, quân La sát
 Trong chúng như trăng soi khắp cùng
 Nói đạo đi qua bờ giải thoát
 Giáo sư năm lực và năm căn
 Ngũ nhãn Thiện Thệ, con qui mạng
 Giáo Sư lìa hết các não phiền
 Hành trong đất này, vua Chuyển Luân
 Trừ bỏ ba cấu giống như mắt.
 Mắt thanh tịnh ly cấu thế gian
 Ma hầu la già, người, sinh chúng...
 Không ai chẳng hướng về người trên
 Tối Thắng không cao cũng không thấp
 Con nay kính lễ các Thế Thân (thân cận với đời)
 Được cùng chẳng được, hạnh bình đẳng
 Các tướng hoa nở, trượng phu trăng (trượng phu nguyệt?)
 Như hoa sen, chẳng nhiễm thế pháp
 Thế thân hay khiến cành ái tan (đoạn)
 Khéo điều (phục) đầy đủ, lòng đã phục
 Bình đẳng Thí, giới, lòng không sân.
 Chúng sinh khó phục, đã điều phục
 Trăng trong người Thiện Thệ phục lòng (?)
 Ngôn ngữ dịu dàng khéo thuận ý
 Khi nói hay động đến ba ngàn (thế giới)
 Trời rồng tu la và người nữa
 Họ nghĩ đây là con nói lên
 Đây là không, không chúng sinh tính
 Không có tướng, nguyện cũng lìa tan.
 Ngài nói trong này “vô xứ khứ”
 Cũng không có lại, chết cũng không
 Pháp giới chẳng động, không trú xứ
 Đời trước, đời sau chẳng đắm tham (trước)
 Ở trong khoảng ấy như hư rỗng
 Ngài nói pháp này, nghĩ ngợi không,
 Thế Tôn thường nói đến thật tế
 Trong này, các đời chuyển mê loàn (loạn)
 Như mù, đầy phiền não, sân nhuế
 Họ tác khởi niệm ngã và nhân
 Pháp này tợ như mây cùng huyễn
 Điều mắt thấy chẳng động rỗng không.
 Nhẫn thắng diệu này nếu có được
 Bọn đó Giáo sư đuổi theo luôn
 Giống như vẽ hư không đủ thứ
 Không chỗ, không có một chỗ dừng (trụ)
 Như vậy chỗ trụ tự nhiên biết
 Nên kia không có một chỗ dừng (trụ)
 Các tiếng khi nghe không có thật
 Cũng chẳng thể thấy trú xứ không (có)
 Hoặc nghe, hoặc nói cũng lại vậy
 Bản tính chúng chẳng động rỗng không.
 Pháp Thắng Giả, thể tướng cũng không
 Sẽ thấy sự thị hiện như huyễn
 Nếu thấy như thể không biệt phân
 Sẽ thấy Thiện Thệ cũng như vậy.
 Cõi, chẳng cõi, các cõi ngang bằng (bình đẳng)
 Chư Phật bình đẳng công đức Phật
 Các pháp bình đẳng pháp tịch không
 Các chúng sinh bằng không chúng sinh
 Bất tận mất hết ở trong tận
 Bất tận mất hết không trong tận
 Tận ấy chẳng tận, tận chẳng tận
 Nhẫn này như vậy thuận theo luôn.
 Phân biệt, phân biệt khởi phân biệt
 Các pháp cũng không chỗ khởi lên
 Nếu đã khởi thì thường chẳng khởi
 Nhẫn này như vậy thuận theo luôn.
 Thấy kiến (thấy) thường không có kiến thể
 Hoặc thấy chẳng như quán như thế
 Hoặc thấy những pháp này rỗng không
 Nhẫn này như vậy thuận theo luôn.
 Chưa từng có thể biết đời trước
 Tối thắng thật tế do chẳng biết
 Tế thường không tế, nếu biết thông
 Thì tiền tế (đời trước) đó theo đoạn dứt.
 Ở trong biên, vô biên chẳng nương
 Bờ này, bờ kia thường chẳng trụ
 Nếu trong ba cõi (hữu) không trú xứ
 Thì kia, thật tế trụ ở trong
 Nếu kia trụ ở trong thật tế
 Thì trong ba cõi, trú xứ không,
 Nếu trong ba cõi không trú xứ
 Thì kia thường trụ trong thật tế.
 Nếu sắc tợ như bọt nước gom
 Biết Thọ cũng như bọt nước nổi
 Tưởng niệm giống như lửa sáng hừng
 Nếu biết thì trụ trong thật tế.
 Các tụ là hữu vi, không bền
 Nếu biệt tợ như là cây chuối
 Biết ý cùng huyễn kia tương đồng
 Thì tụ tan đó đã tiêu diệt.
 Nếu với từ bi khéo tu hành
 Ở mình và người không y chỉ
 Tu niệm hạnh tối thượng sạch trong
 Thì sẽ làm Phật như trời Tịnh
 Nếu lìa rộng khắp các não phiền
 Thì kia chưa từng có thủ trước
 Bỏ các sở hữu, bỏ sạch trơn
 Bố thí đó được Phật ngợi khen.
 Nếu thân giống như trăng đáy nước
 Biết lời nói ra như tiếng vang
 Biết lòng như ánh chớp trong không
 Giới kia thù thắng trong ba cõi
 Đến bờ kia nếu Nhẫn điều xong
 Ý đó việc ngoài chẳng tổn hại
 Hay biết sáu căn như thôn không (xóm trống không)
 Nhẫn đó được Thiện Thệ tán thán.
 Không sở úy nếu ưa nhàn riêng
 Minh trí đôi lần hành cảnh giới
 Thân tâm tịch tịnh, hạnh trực, thuần
 (Tinh) Tấn đó thù thắng trong ba cõi.
 Nếu người diệt bản tính não phiền
 Rỗng không phân biệt người tịch trí
 Nếu tưởng chẳng chuyển trong ba cõi
 Thì định kia Thiện Thệ ngợi khen.
 Nếu biết trong này người không có
 Thì với Thượng trí, kia được liền
 Nên lìa hí luận mà tịch tịnh
 Trong ba cõi trí đó thắng hơn
 Nếu ở trong “hữu” không mệt mỏi
 Trong câu trí kiếp lúc hành khổ
 Chưa từng ham mộ thừa thấp hèn
 Bọn Ma la kia đều kinh hồn
 Như ở trong biển lấy giọt nước
 Con nói Tối Thắng, công đức trên
 Phật pháp rộng rãi không có biên
 Chưa từng được ở bờ cõi đó.
 Này Hỷ Vương ! Lúc bấy giờ, đồng tử Pháp Thượng ở trước đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai, khi nói bài kệ này thì khắp cùng những ba ngàn đại thiên thế giới sáu thứ chấn động, trăm ngàn câu trí na do đa âm nhạc đồng thời tấu lên và mưa xuống các hương thơm, vòng hoa cài tóc, hương xoa, hương bột. Tám ngàn vị Bồ tát đều sinh ra nhẫn ở trong pháp Vô sinh. Vua bảo Nguyệt ấy cùng các phụ nữ và các đồng tử với đại chúng đó đều phát tâm Vô Thượng Chánh Giác. Này Hỷ Vương ! Bấy giờ, đồng tử Pháp Thượng hướng về đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai bạch như vầy : “Thưa đức Thế Tôn ! Những Tam ma địa nào khiến cho Đại Bồ tát sẽ được nhiếp lấy các pháp? Sẽ được nhiếp lấy cõi Phật công đức trang nghiêm? Sẽ được đủ đầy chúng Thanh văn, Bồ tát? Sẽ được của cải thọ dụng vô thượng? Sẽ được vượt qua các ma la, các phiền não ác? Sẽ được đủ đầy chánh niệm, chánh ý, chánh thú, tàm quí, trụ trì trí tuệ? Sẽ được nhiếp thọ các điều đã nghe? Sẽ được đủ đầy ngũ thông thắng trí? Sẽ được vô trước ưa nói tổng trì? Sẽ được đủ đầy biện tài? Sẽ được đủ đầy sáu Ba la mật? Sẽ được đủ đầy sinh vào gia đình dòng họ hình sắc thọ dụng? Sẽ được vui lòng tiếng nói tác nghiệp? Sẽ được đủ đầy các công đức? Sẽ được giỏi biết vào, ra các định giải thoát Tam ma địa? Sẽ được đủ đầy các thứ trí công đức, chưa được Phổ trí mà luôn làm Phật sự vì chúng sinh?”. Đồng tử ở trước đức Phật ấy nói như vậy xong thì đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai hướng về đồng tử Pháp Thượng bảo như vầy : “Này đồng tử ! Hãy lắng nghe ! Lắng nghe ! Khéo dấy lòng suy nghĩ ! ta sẽ vì ngươi diễn nói ! Nếu đầy đủ Tam ma địa thì Đại Bồ tát sẽ được những điều này và vô lượng vô số chẳng thể lường thắng công đức khác nữa, cũng sẽ mau chóng hướng về đạo tràng Bồ đề. Này đồng tử ! Có Tam ma địa tên là Quyết Định Quan Sát Các Pháp Hạnh. Nếu được Tam ma địa rồi thì Đại Bồ tát vượt qua các cảnh giới ma la, sẽ mau chóng chứng giác đạo Vô Thượng Chánh Giác”. Đức Như Lai đó vì đồng tử kia dùng lời kệ rộng nói Tam ma địa này :
 Như nói như việc làm 
 Làm rồi chẳng nói dối
 Thân, miệng, ý sạch trong
 Có từ tâm ích lợi
 Với bi chẳng mất quên
 Và chán các dục hạnh
 Vì pháp vui cầu luôn 
 Thệ trí cũng chẳng bỏ
 Khéo léo trong từ ngôn (lời nói)
Xuống vào chúng sinh trí
 Chẳng tiếc với nghiệp thân
 Trong thân chẳng tham muốn
 Phải lìa lời ác liền 
 Với lòng chẳng hý luận
 Cứu giúp khổ chúng sinh
 Giác ngộ kẻ phóng dật
 Người siêng dạy tương ưng
 Kẻ hối khiến ra khỏi
 Chẳng trụ tưởng chúng sinh
(Bản Phạm văn thiếu một câu)
 Tưởng việc chẳng phân biệt
 Xa lìa khói lấy nâng
 Các tướng cũng sẽ diệt 
 Chẳng động trong thọ dùng
 Thường phải cầu trí tuệ
 Xa lìa lời thế gian
 Phải cầu được xuất thế 
 Chánh niệm chẳng mất quên.
 Thuận niệm với các pháp
 Như vậy sẽ khéo khôn
 Việc làm làm đầy đủ 
 Và thuận hạnh thế gian.
 Nên phải tin nghiệp báo
 Xa lìa lòng chẳng tin
 Nên phải tin chư Phật 
 Đó nên thuận niệm luôn.
 Thường nên nói tội lỗi 
 Phước tụ phải theo mừng
 Và khuyến thỉnh chư Phật
 Lễ bái, hướng Thế Tôn
 Thường hàng phục kiêu mạn
 Làm thiện không chán nhàm
 Cũng thường siêng tương ứng
 Toan làm chớ bỏ buông
 Thành tựu hạnh tu chính
 Phải biết sự tạo nhân
 Chớ theo danh thí thiết
 Bị trách chớ nổi sân.
 Chớ chấp trước ngôn ngữ
 Chớ nghĩ đây thật chân
 Chẳng cần trụ Dục giới
 Sắc, Vô sắc các dòng (giống).
 Như nghiệp đã chịu báo 
 Quả đó phải nên tin
 Chia cho vật sở dụng 
 Dạy bảo chẳng hủy thương.
 Bình đẳng với chúng sinh
 Một người cũng chẳng hại
 Siêng, lười đều chẳng sân
 Không ghét người sở đắc.
 Sở dục phải đầy lòng 
 Như pháp hộ thệ nguyện
 Với giới không lìa tan 
 Kiêu mạn phải trừ diệt.
 Chuyển đổi lỗi hận sân
 Ngu si cũng bứng đứt 
 Tham dục chẳng phát hành
 Theo được liền biết đủ.
 Lìa bỏ các thân quen 
 Không lợi lòng chẳng thấp
 Được lợi chẳng cao hơn
 Chỉ mừng được pháp lợi.
 Thường làm bình đẳng phân
 Phải lìa khỏi tích trữ
 Nghe được lời ác ngôn 
 Nhịn nên hay nín chịu 
 Thường hộ trì ngữ ngôn
 Bồ đề thừa phải nói
 Thường khuyên siêng tương ưng
Người tinh cần kề cận
 Kẻ trí luôn hỏi han 
 Tăng tu kỹ chánh định
 Chớ bỏ ngụ không nhàn 
 Trụ Đầu Đà thiểu dục
 Nên phải tin giải không
 Với việc không đắm trước
 Tụ lạc chẳng nương dừng (y chỉ)
Trong cõi chẳng tham dục.
 Chẳng thấy ta bên trong
 Chẳng ái trước cảnh giới
 Diệt các ý đảo điên 
 Với lòng luôn gìn giữ.
 Trí tuệ nên phải sinh 
 Thường hành nghiệp chánh hạnh
 Lòng ấy chẳng khiếp hèn
 Phải niệm ruộng phước tịnh.
 Các hành phải bỏ buông
 Thí rồi không cầu mong
 Cũng chẳng niệm trì giới
 Với Nhẫn không biệt phân,
 Chẳng phát khởi tinh tấn
 Trong định cũng chẳng nương
 Chẳng quên mất các pháp
 Trí tuệ nên giác thông.
 Nên phải vào các Ba la mật
 Trong công đức minh, nghĩ chưa từng,
 Nghe công đức người chẳng giận ghét
Hữu vi, vô vi lòng ngang bằng (bình đẳng)
 Niết bàn lúc nào cũng vin níu
 Với Hữu vi phải xa lìa luôn
 Giải thoát yên ổn luôn luôn biết
 Trong xóm tưởng như kẻ sát nhân
 Với chỗ Niết bàn thường sinh ái
 Hòa nhẫn luôn luôn trụ ở trong.
 Mặt vui không làm vẻ nhăn nhó
 Thấy người khác thì trước hỏi han
 Ở với người già từ (bi) tôn trọng
 Và tâm trí tuệ khéo nối liền.
 Với người khác chưa từng trách phạt
 Nếu có đấu tranh khiến lặng yên
 Với chỗ tịch tịnh thường khen ngợi
 Thường dạy hợp, chúng sinh hòa đồng.
 Ái, chẳng ái, lòng thường bình đẳng
 Thường phải cầu đến Tổng Trì Môn
 Như mẹ yêu thương các sinh chúng
 Như cha yêu thương các thánh nhân
 Yêu thương tôn trọng như thân cận
 Yêu Bồ tát như Phật Thế Tôn
 Yêu pháp cũng như yêu tự thân
 Và cầu điều nghe không chán đủ.
 Đã nghe pháp xong chánh tu hành
 Với Như Lai cũng thường cúng dường
 Với pháp thắng thượng phải tín giải
 Không tâm khiếp nhược, không giải đãi.
 Với Tam Bảo luôn phải cúng dường
 Thường phải nhịn chịu lời bất chánh
 Thường chẳng luyến ái với tự thân
 Thọ mạng cũng lại chẳng tham tiếc.
 Sống đời thanh tịnh, thường xin ăn
 Chẳng bỏ Đầu Đà, theo thứ lớp
 Chưa từng lìa chỗ ngụ không nhàn
 Xa, xa nữa, phải bỏ đồ chúng.
 Kẻ tại gia chớ ưa ở chung
 Với người xuất gia chớ làm loạn
 Chớ yêu, chớ trá, trước lời lành
 Dạy hóa nhiều người vào Phật trí.
 Khi nói pháp, lòng không khiếp hèn
 Phương tiện giỏi xem biết người khác.
 Với Phật luôn luôn khởi trong lòng
 Và thường nghĩ pháp chẳng phóng dật
 Cũng ở chỗ Tăng tôn trọng luôn.
 Và thường cúng dường với người trí
 Phương tiện khéo trí cũng thường gần
 Thường tác vô tránh với người định
 Với kẻ tinh cần giúp hảo tâm
 Cũng niệm tu pháp tin việc phước.
 Giáo hóa chúng sinh khiến làm lành
 Người tin phải yêu, lòng ngay thẳng.
 Nếu chạm việc khổ hay mở tan
 Thường nương thời hành, phi thời bỏ
 Thường hành khủng úy và thẹn thùng
 Trong tội ác đó sinh thẹn sợ.
 Các hạnh bất chánh xa lìa xong
 Được người chánh hạnh, luôn thân cận
 Vì giải thoát, với giới giữ gìn
 Cũng lại phải cầu đến hạnh Thánh.
 Bốn niệm xứ luôn nghĩ tu hành
 Cũng thường thân cận bốn chánh đoạn
 Và bốn như ý túc sẽ thành
 Với các căn cũng sẽ xuất sanh.
 Nên phải cầu lực cũng như định
 Với bảy giác phận luôn xét xem
 Thường phải tu hành tám phận đạo
 Xá ma tha cũng cầu nhóm gom
 Tỳ phát xá na luôn sinh Đế
 Tâm đã tùy hỷ mà xét xem
 Trong pháp tùy hỷ lại sinh hỷ
 Cũng sẽ siêu việt các phàn duyên (duyên vin vào)
 Nghe không trú xứ chẳng kinh sợ
 Chỗ chẳng thể được, chớ buông lung
 Thường phải cầu mong Bồ đề hạnh.
 Hạnh Phật sẽ làm, tin xưng lường
 Nên phải chán bỏ hạnh cảnh giới
 Cũng phải bỏ những hạnh trước làm
 Nghiệp mình tịnh, không nói người khác
 Luật hạnh chẳng phá, hằng thời làm
 Giỏi học cấm giới biệt giải thoát
 Bỏ phi thời, thường nương thời hành.
 Khéo hai trù liệu nên đi, lại
 Vật tốt biết lường tự cấm dừng
 Và ở dòng thánh đều biết đủ
 Cũng lại cầu vào Thắng trí thông.
 Trong Tam ma địa phải vin níu
 Và với định hạnh, biết vào trong
 Phải vào sở dục, lòng sinh chúng 
 Theo đúng lời nói thầy dẫn đường
 Cũng nên nhiếp lấy thuyết vô ngã
 Nếu kẻ siêng hợp khiến vui mừng
 Niệm tu hành như Tối thắng thể
 Tam ma địa này phải niệm luôn.
 Nghe đã tin Thanh văn chánh hạnh
 Đạo Duyên Giác phải học thuận tùng 
 Chủng tánh chư Phật phá ma đạo
 Tam ma địa này phải cầu luôn
 Phát hành Thắng Giác do ở Thí
 Người chẳng thoái chuyển hạnh Thế Tôn
 Nhiều câu trí kiếp hạnh kẻ trí
 Chính biển nghe là chỗ pháp hành
 Trong cảnh giới này, pháp tôn trọng
 Nếu tín giải là cửa thật chân
 Thị hiện này, trú xứ của Phật
 Ở pháp tạng này cầu báu trân
 Ở trong ruộng này cầu quả đó
 Phiền não nhiệt là trong hy viên (vườn vui lòng)
 Ưa trì pháp, đây là vườn tược
 Ái kiến đó là Tam ma địa
 Muốn cầu Bạch pháp, mẹ này sinh
 Người có sở dục được không nương
 Các tướng thắng diệu sẽ buộc lấy
 Các đẹp theo tướng cũng hiện lên.
 Đất nước trang nghiêm đây an trụ
 Đây cũng được nghe và giữ gìn
 Sinh ra đủ thứ, đây thuận giác
 Lời thanh tịnh, tiếng nói thật chân.
 Cũng hay vượt qua Ma la cảnh (cảnh giới ma)
 Nhiếp lấy xa xăm, mặc giáp đồng
 Giết hại phiền não, nương điều phục
 Đây cũng phá tan các chẳng lành (bất thiện)
 Muốn cho các thiện được xí thạnh
 Muốn được cầu nguyện làm trang nghiêm
 Nhiều chúng mà ma chẳng phá được
 Đây, lúc nói cũng không tận cùng.
 Đây cầu cùng thế gian bình đẳng
 Luận sư ngoại đạo chẳng chánh chân
 Đây hay qua khỏi Thanh văn pháp
 Bậc Độc giác thắng, đây là duyên 
 Trí nhất thiết trí, đây gìn giữ
 Sở thú chúng sinh đây cũng trụ
 Đây hay giáo hối người thật chân.
 Trong lúc đây chọn lời bạn lành
 Bậc căn vô cấu, đây thiên nhãn
 Và với pháp nhãn muốn cầu tìm
 Cầu người nói pháp đây thắp đuốc
 Cầu lời chân thệ, đây thật thành
 Cầu người tài thí, đây là xả
 Cầu giải thoát kiến, đây hợp cần
 Cầu người vui định, đây tịnh tín
 Muốn nghe biển pháp, đây chánh hành
 Câu mê lưu định, đây là lực
 Muốn cầu pháp đạo, chủ ngang bằng
 Vì muốn sự tịnh diệu trang nghiêm
 Tự tâm điều phục, đó là Phạm
 Phương tiện cầu pháp, đây hỷ tâm
 Và bất thoái chuyển, đây sở hạnh
 Đây là thú hướng hạnh nói năng
 Thường nghĩ người trí tuệ lợi căn.
 Đây là việc phương tiện đầu nghiệp (nghiệp bắt đầu)
 Trượng phu vua trâu, đó trí tràng
 Muốn cầu thắng thì đó bằng cung (tên)
 Cầu vô ngã là na la dạ (?)
 Nếu hướng Phổ trí, đây là đường
 Cầu thiện thoát là giới bình đẳng
 Đây là chỗ trời... lễ bái luôn 
 Đây là chỗ rồng... tung hoa mãi
 Và là người đều dâng cúng dường
 Dạ xoa hy hữu khen ngợi tốt
 Hàng trăm La hán cũng lễ mừng
 Bồ đề Thắng Thiên cũng xưng tán
 Nếu Như Lai đều niệm của mình
 Muốn hộ căn thì đó nang thành (quách)
 Như pháp trụ là hợp phương tiện
 Định y chỉ, đó được ngang bằng
 Các hữu nghi thì khiến phá tán
 Hữu mê hoặc thì đều khiến đoạn
 Cao mạn phiền não khiến diệt tan
 Muốn qua bờ kia, hay khiến độ
 Bệnh ràng buộc, đây là thuốc lành
 Người có bệnh, đây là trị thật
 Tên độc phiền não hay nhổ lên
 Muốn hợp lý là tạo suy nghĩ
 Trong chúng, sư tử rống không kinh (hải)
 Ở chỗ Thiện Thệ cầu nghe pháp
 Và thường đường này là Niết bàn
 Hay đoạn các đường ác sở hữu
 Ở chỗ ba cõi đều vượt lên
 Cầu cõi công đức, đây trang nghiêm
 Kim cương dụ định đây với đó
 Sinh tòa sư tử lần sau cùng.
 Việc cầu phước đức, đây chẳng mất
 Các việc muốn cầu, đây nhiếp hết
 Thường thiếu mệt thì khiến ngưỡng mong
 Chưa có tinh tấn, đây phát dục
 Nương níu duyên thì khiến lập yên
 Pháp hạnh khác biệt, che khiến trụ
 Có bình đẳng thể, đây thành tựu
 Nương vật kiêu, dật, đây trừ tan
 Lấy vật ngang ngược, đây buông bỏ
 Biết hết các thứ trí khắp cùng (châu biển)
 Cầu trí tuệ thì đây sinh xuất
 Cầu phước thiết hội (lập hội) đây chẳng mất
 Nương ba hữu (cõi) thì đây dứt nguyền
 Cầu Bồ đề, thường không có tướng.
 Ba đời các pháp không
 Biết rồi mà chẳng xả
 Thời thời phương tiện trí
 Làm vì các thế gian
 Chủng tính Phật thở than
 Trí Phật là từ đó
 Chớ cầu đến lỗi lầm 
 Ở người nói pháp đó
 Cũng lại chớ khi khinh 
 Sở kiến kia chưa học.
 Người nói pháp, chớ sân
 Phải ở gần tôn trọng
 Nghe thật phải biết chân (thật)
Chớ huỷ báng kẻ trí
 Thí pháp, vật chớ mong 
 Nói pháp chớ dè xẻn
 Nghe pháp tôn trọng chung
 Tâm ý chớ tán loạn
 Vì nói pháp hết lòng 
 Nếu thấy người ưa dục
 Thí pháp chớ đoạn dừng
 Chớ duyên vào việc khác
 Kham nhẫn hỏi thẳng thừng
 Hoặc hỏi vì giải thoát
 Hoặc kẻ có ác tâm, 
 Trong đó Nhẫn tạo tác.
 Hối và cả nghi hoặc 
 Đó đều đoạn vì ông
 Nếu thấy chưa được đạo 
 Đem đạo vì tuyên dương.
 Khi định này suy nghĩ 
 Dễ được trí Thế Tôn (Phật)
 Các sở tác, các cúng (dường)
 Người nói pháp ở bên
 Cầu tám phận thắng đạo
 Với việc khác chớ duyên
 Nếu tâm ác tranh cạnh 
 Khó phục khiến phục hàng
 Không nương “ đẳng túc” đó
 Thần túc nên cầu mong
 Niệm tuệ và hành xứ 
 Những người cầu pháp đó
 Phát khởi đều nói rằng :
 Hành Bồ đề nếu phát
 Thị hiện câu trí Phật 
 Đều cõi đó trụ yên
 Nói hóa độ chúng sinh
 Nếu người thuyết pháp đó (nói)
 Vị này là rất ngon 
 Nếu kia hành Lan nhã
 Và cầu du hí thông (thần thông)
Mà rống tiếng sư tử.
 Hạnh những trí giả đó
Với tịch diệt ngợi khen.
 Đoạn nhiệt có thanh lương
 Đây là câu “bất đọa”.
 Nói lợi ích mở trói 
 Hỷ lạc phát ở thân
 Lòng ấy cũng kinh (sợ) hỷ (mừng)
Người trí du hý trí
 Kia cầu trí khắp cùng (châu biến)
Tịnh tín những pháp đó,
 Trụ Phật trí chẳng thoái
 Quyết định vì Bồ đề
 Bạch pháp thuận huân tập
 Các ác đều bỏ đi
 Với hắc trợ giết hại 
 Bạch pháp liền tự lại (đến)
 Những người học giới kia
 Nếu muốn cầu phước đức
 Những người đó thành được.
 Nếu cầu thì tương ưng
 Những người đó đến được
 Tướng đoan nghiêm trong thân
 Hạnh này Phật thuận biết
 Các thánh thân cận xong 
 Trí sáng soi trong trí 
 Phổ trí Phật trí thành
 Trụ đây rồi sẽ thấy 
 Câu trí bậc đoan nghiêm
 Trong này, đó đại lực 
 Kẻ trí hỏi nghi nan
 Đoạn trừ các nghi ấy 
 Các hoặc đều diệt tan
 Trong này sinh Phật pháp
 Được người Thắng ngợi khen.
 Lìa bỏ các đời ác 
 Và sở hữu não phiền
 Chẳng mất các phước đức
 Với phước nếu cầu mong
 Thì họ duyên kẻ trí 
 Ái pháp là tột cùng
 Và vui mừng mắt pháp
Người dũng kiện thân gần.
 Biện luận pháp suối chảy(trôi chảy)
 Muốn cầu khéo ngữ ngôn
 Đã nói thì họ hộ 
 Người nói pháp sở hữu
 Và biết các nhân duyên
 Ưa gặp người nương cậy.
 Trong các pháp khéo ưng
 Hòa hợp chẳng hòa hợp
 Trí thể, phương tiện phân
 Nói đến các pháp xong.
 Như vậy hiện các pháp
 Trí tư duy thật chân
 Ở trong đoạn lưới khát
 Phải bỏ các ái trước
 Vô minh ở trong tan 
 Sẽ được hiện tiền sáng
 Khắp biết tính (sổ) ở trong
 Chỗ đó nói vô trước.
 Biết ý đủ thứ lòng 
 Ở đây rộng nói xong
 Sắc cùng danh nhiếp lấy
 Những đó nói ở trong.
 Chỗ sáu căn quan sát 
 Như thấy làng trống không
 Với xúc bên ngoài biết 
 Sẽ được thấy trí Phật
 Nếu lìa ba thứ ngôn (nói)
 Thì họ thủ ở trong
 Và diệt ba thứ ái 
 Thị họ nói ở trong
 Nói ở trong xả bỏ  
 Nếu chỗ sở sinh đó
 Với hữu họ đoạn tan 
 Ở trong định này nói
 Bệnh hợp dứt hẳn sinh
 Và lìa tên độc chết
 Các khổ tịch ở trong 
 Thì các dòng phân biệt
 Các lo khiến vui mừng 
 Ý ác khiến giải tán
 Thành phương tiện sạch trong
 Nếu người hành pháp đó
 Đầy đủ sự xét xem 
 Nếu có sự cầu thắng
 Tạo sáng trong ác sân 
 Nếu sở hữu mê nhãn (mắt mê)
 Trong nay sấm Phật vang
 Khi chuyển bánh xe pháp
 Hạnh mạnh, đây xưng dương
 Nếu trí thế gian đó
 Trong này khắp trừ tan
 Nếu trược loạn não phiền
 Trong này hại các kiến 
 Nếu sở hữu ta nương
 Thọ lấy và cho giữ (trì)
 Trong này đều nói xong
 Chẳng lẫn trong trí Phật
 Như vậy sẽ được hơn (thắng)
 Các pháp tăng trưởng luôn
 Đây là đạo trí khéo
 Bạch pháp tịch tụ luôn
 Xa lìa các nghiệp ác.
 Pháp Phật tu niệm luôn
 Nói sẽ không san lậu
 Chẳng đoạn giống Thế Tôn(Phật)
Phải trụ ở trong đó
 Chủng tính pháp sáng lên
 Thánh chúng đều nhiếp lấy.
 Ứng phục thầy luận bàn(luận sư)
Ngoại đạo muốn khởi dậy
 Nói pháp xưng rằng : lành
 Bọn họ sẽ hưng tán (khen ngợi)
 Hạnh Bồ đề thường hành
 Ở đó không tâm niệm.
 Như trăng, các chúng sinh
 Thường tạo ý bằng hữu
 Các pháp, như vầng dương (như nhật)
Luôn giữ suy nghĩ chính
 Giáo sư tưởng khởi luôn
 Ở trong nghĩ định ấy.
 Định này giống như vương (vua)
Vì chúng sinh rộng nói
 Vì người trí dẫn đường 
 Bạch pháp lòng chánh tín.
 Quả cam lộ chín thành 
 Khiến niệm trụ đời trước
 Thọ thai, nhiễm bẩn không
 Phép si nhi chán bỏ
 Công đức Phật đại tiên 
 Khi khen không bờ bến
 Khi trì tuệ Thế Tôn (Phật)
 Thiện Thệ khi đã nói
 Và trí khi chép thành 
 Khi nói sẽ được phước.
 Xa lìa ngoại đạo xong 
 Đây là chỗ bất động.
 Lời nói thọ thế gian 
 Lời nói của chư Phật
 Công đức quá khứ Phật
 Ở đời sau cầu mong
 Hiện tại trụ chư Phật 
 Đây là các bảo tàng.
 Khiến chúng sinh vào hạnh
Vì nói thừa Thanh văn 
 Với trí chẳng quên mất
 Phật pháp, đây là in (Ấn)
 Đây ra đó mạnh mẽ 
 Đây, báu không biến đổi
 Và các trí mau thành 
 Muốn hỏi công đức Phật
 Ham pháp không chán nhàm
 Tan các lửa phiền não
 Trí phương tiện sẽ thành
 Địa giới riêng suy nghĩ
 Thủy giới sẽ vào trong 
 Vào với định Hỏa Giới
 Phong Giới, trú xứ không (có)
 Không giới chẳng mê hoặc
 Trong trí giới hiện lên 
 Khiến vào với Pháp giới
 Chán lìa khỏi các hành
 Khiến tan các ái nhiễm
 Các biển “hữu” ghét thêm
 Trừ diệt các hoạn nạn
 Hạnh khác cũng biết rành
 Muốn nói không có hết.
 Trong phương tiện sạch trong(vô trược)
Chỗ ra sẽ thuận biết
 Ngã kiến phải bỏ xong 
 Cũng xa lìa Ngã sở
 Nhiễm trước phải trừ tan
 Kiêu mạn nên điều phục
 Như chó hành vì ăn 
 Không tham trong bố thí
 Đã ăn nên no tràn 
 Ăn rồi phải biết lạc (vui)
 Tại ấm không thiếu được 
Nước lớn phải qua nhanh
 Các luận chẳng thể phá
 Thuần trực không vin duyên
 Xa lìa khỏi thụy miên 
 Thân cận người nói pháp
 Trạo hí vượt qua liền 
 Cũng nên diệt nghi hoặc
 Và các dục khiến tan 
 Cũng lìa xa lười nhác
 Chỗ Ngã chẳng thấy được
 Vô ngã khiến hiển minh
 Chẳng trụ ở với mạng 
 Chạm pháp cũng chẳng nên
 Chẳng đấu tranh trong pháp
 Nói hợp nghĩa ngang bằng
 Dùng lòng giỏi suy nghĩ 
 Các hạnh sở hữu không
 Phải gần gũi người trí 
 Các nơi, khiếp nhược không.
 Trong đó phải tín giải 
 Tại chúng chớ kinh hoàng.
 Nói công đức người khác
 Chớ nâng cao thân mình
 Chỗ sở hạnh Biến trí 
 Luôn luôn cần phải hành
 Không ái trước trú xứ 
 Như chim bay mất tăm.
 Chớ hành vì lợi dưỡng 
 Cũng chẳng kể thân mình
 Tâm cũng chẳng giảm kém
 Khéo biết chỗ kinh hành
 Phải thuận theo tu niệm
 Chớ nghĩ, chớ nhớ mong
 Cũng sẽ cầu giải thoát 
 Luôn ở chỗ lặng yên.
 Thường niệm tu phạm hạnh
 Với định sẽ được nhanh.
 Từ ở lòng bình đẳng 
 Bi là nhiếp thuận tùng
 Dùng Hỷ làm lạc pháp 
 Chỗ Xả phải bỏ luôn
 Dùng Giới thương người khác
 Do định sẽ giác pháp
 Do trí làm nên làm 
 Về sau không hối não.
 Phải xuất trí không cùng(vô tận trí)
 Cũng nên lời khéo léo
 Nói Ngã vào ngữ ngôn
 Chỗ nói không cầu lợi
 Không ưa lời tạp ngôn
 Là trụ không mệt thiếu
 Chẳng bỏ chẳng lấy thêm
 Các pháp là Bồ tát
 Chớ hoại các pháp tan
 Như vậy nói minh hiển
 Chẳng lừa dối chúng sinh
 Phải qui y Tam Bảo
 Chính pháp nhiếp lấy tròn
Tạo nguyện phải bền chắc
 Vói tiểu thừa không ham
 Ngày đêm nên siêng hợp.
 Vì cầu các pháp nên 
 Biến Trí từ đó lại
 Chư Phật, đây kho tàng 
Tam ma địa như biển.
 Này Hỷ Vương ! Lúc bấy giờ, đức Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai vì đồng tử Pháp Thượng đó, dùng kệ tụng, rộng nói “Chư Pháp Hạnh Quyết Định Quan Sát Thuyết Tam Ma Địa” này. Khi Ngài nói Tam ma địa này thì vua Bảo Nguyệt và các con, quyến thuộc được chẳng thoái chuyển đối với Vô Thượng Chánh Giác. Đầy đủ một ngàn chúng sinh phát tâm Vô Thượng Chánh Giác. Học địa của vô lượng chúng sinh tăng trưởng. Này Hỷ Vương ! Ý ông thế nào về Ca la đó, Tam ma gia đó tên là Pháp Thượng đồng tử? Là ai khác ư? - Ông chớ có thấy người khác như vậy? Vì sao vậy? Này thiện gia tử ! Vì ông tức là Ca la đó, Tam ma gia đó tên là Pháp Thượng đồng tử vậy. Này thiện gia tử ! Ca la đó Tam ma gia đó tên là Bảo Nguyệt vương thì Đại Bồ tát Từ Thị hôm nay tức là Ca la đó Tam ma gia đó tên là Bảo Nguyệt Vương vậy. Như các con của vua đó lại tức là chúng Đại Bồ tát này tập hội ngồi đó vậy. Này Hỷ Vương ! Bấy giờ Đại Bồ tát Pháp Thượng cùng với cha, mẹ, tôn trưởng và bạn bè tri thức, đầy đủ ba mươi sáu ngàn câu trí chúng sinh cùng chung ở trong giáo pháp của đức Như Lai Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương mà bỏ nhà xuất gia. Này Hỷ Vương ! Họ yêu thích giáo pháp của đức Thế Tôn đó, làm tỳ kheo, tỳ kheo ni, Ưu Bà Ta Ca, Ưu Ba Tư Ca rất nhiều.
 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn đã biết ý nghĩa này rồi, lại muốn hiển minh thêm nữa, lúc này ngài liền nói bài kệ tụng sau đây :
 Ta nhớ xưa nhiều câu trí kiếp
 Có đấng Tối Thắng hiệu Bảo Quang
 Ngài có Tăng chúng cũng nhiều lắm
 Và các Bồ tát lậu tận xong.
 Nước Phật đó khả ái thanh tịnh 
 Trang nghiêm tự nhiên như thiên cung
 Trang hoàng, vườn, tụ lạc, thành ấp
 Bằng hoa trải như bàn tay bằng.
 Trong đó có vua tên Bảo Nguyệt
 Với hàng ngàn châu, tự tại vương
 Phước tuệ đầy đủ là bậc trí
 Rộng thần túc, vô biên kho tàng
 Vua ở vườn rừng vui du hí
 Thiên phụ có mang, đồng tử sinh
 Tên là Pháp Thượng đáng chiêm ngưỡng
 Thắng tướng trang sức rực sắc vàng.
 Đồng tử vừa sinh nói diệu ngữ (lời vi diệu)
 Nói về pháp Phật mà ngợi khen
 Nói tại gia ác, không nhàn đức
 Các tội lỗi dục cũng nói lên
 Hóa độ mẹ cha và thân thuộc
 Trí giả nghĩ khiến tin sạch trong (tịnh tín)
 Vua đó vui mừng mà nhảy nhót
 Hướng về bên Tối thắng Đại Tiên.
 Đồng tử chẳng lại vào gia nội
 Liền cùng cha mình ở trong vườn
 Chung với thân thuộc và đại chúng
 Ba mươi sáu ức bên Thế Tôn 
 Vua Đại Tượng đó đã đi đến
 Đó đã thấy Bảo Quang Pháp Vương
 Lòng thêm hớn hở, ái đệ nhất
 Lễ dưới chân rồi ngồi một bên
 Pháp Thượng cũng lễ chân Tối Thắng
 Rồi chắp tay mà hầu Thế Tôn
 Đã kính trọng Phật đó như vậy
 Đồng tử ca tụng bằng kệ khen
 Với Tối thắng, ông nhiều khen ngợi
 Pháp thể thật đức thầy dẫn đường
 Vua và các con cùng đồ chúng
 Duyên theo Bồ đề mà phát lòng
 Pháp Thượng hỏi han với đức Phật
 Nói định này, Tịch Tịnh ly trần;
 Mạnh mẽ trụ Tam ma địa ấy
 Bồ đề chứng giác, ma phục hàng.
 Đấng Lưỡng Túc Tôn nhận lời thỉnh
 Biết tâm đồng tử đã tịnh tin
 Liền vì ông nói định khó thấy
 Uy đức lớn thì dùng kệ khen
 Tam ma địa này Phật đó nói
 Chư Phật Bồ đề tịch ly trần
 Vua và các con cùng thần dân
 Liền trụ Phật trí chẳng thoái chuyển.
 Học, vô học, chỗ đó người đông
 Đã nghe được tịch định như vậy
 Lại còn nhiều câu trí chúng sinh
 Duyên với Bồ đề mà phát tâm
 Vua và các con cùng đồ chúng
 Phước ngũ dục đều khiến lìa, nhàm
 Lúc đó đồng tử là thượng thủ
 Ở đây bỏ nhà xuất gia liền
 Sở hữu yêu thích với thầy dạy
 Khắp nơi đầy người và chư thiên
 Đồ chúng Thiện Thệ đó nhiều lắm
 Ở trong, chẳng dễ được số lường
 Hỷ Vương ! Ông ở thuở xưa đó
 Chính là đồng tử Pháp Thượng xưng !
 Người ở trong đó làm phụ vương
 Nay là Bồ tát Từ Thị đó !
 Các vương tử sở hữu lúc đó
 Tức là các chúng hội ngồi đây !
 Chúng sinh tại cõi tương tục này
 Biết rồi khiến trong hạnh hành tịnh
 Vậy nên đã nghe xong Tịch định
 Nên phải thọ lấy, tịnh tín luôn
 Thường vì người nói không sẻn tiếc
 Sẽ có Phật trí chẳng khó khăn
 Số lượng phước đó chẳng dễ được
 Thời gian nói, nhiều kiếp không lường
 Định Thắng Thượng này nếu hay giữ
 Vì chúng sẽ nói chớ buông lung.
 Lúc bấy giờ, Đại Bồ tát Hỷ Vương bạch đức Phật rằng :
 - Hy hữu ! Thưa đức Thế Tôn ! Tam ma địa này tạo ra nhiều lợi ích mới có thể cho các Bồ tát các công đức pháp, khiến cho các vị ấy chuyển sanh. Thưa đức Thế Tôn ! Bồ tát được Tam ma địa này thì nên phải thân cận, nên phải tu niệm, nên phải làm nhiều những pháp gì? Nên phải chẳng thân cận, nên phải chẳng tu niệm, nên phải chẳng làm nhiều những pháp nào? Rất hay ! Thưa đức Thế Tôn ! Có những pháp nào? Không có những pháp nào? Thưa đức Thế Tôn ! Xin nguyện vì con rộng nói ! Thưa Tu Ca Đa ! Xin nguyện vì con phân biệt ! Bồ tát pháp nào có? Pháp nào không?
 Đức Phật dạy rằng :
 - Này Hỷ Vương ! Bồ tát, ở trong lưu chuyển, không có mỏi mệt. Bồ tát, ở trong chúng sinh, không có sai biệt. Bồ tát, ở trong của cải, không có thọ lấy. Bồ tát đối với thí không bất bình đẳng. Bồ tát đối với học không chẳng kính trọng, trì giới không có chỗ sinh, lòng không nhiệt não, lòng không khiếp nhược, không có tà giác, không chẳng suy nghĩ mà có sở đắc. Bồ tát, ở trong chúng sinh không có giết hại, ở trong của cải người không có trộm cắp, đối với vợ người không có ái trước, không nói nghiệp ác, không lời phá hoại, không có ác khẩu, không có nói thêu dệt, chẳng tham của người khác, không theo sân nhuế, không có thấy rừng hạnh nhiều, không có qua khỏi Bồ đề ái, chẳng hủy báng pháp, chẳng khi mạn Tăng, đối với những bậc đáng tôn không ai chẳng kính trọng, ở cửa giải thoát không có kinh sợ, ở trong việc làm người khác không có mệt mỏi, chẳng tự ngợi khen, chẳng hoại kẻ khác, trong hành động lưu chuyển không có tùy thuận, trong hành động phi lưu chuyển không gì chẳng thuận theo, đã phát lời thề thì nhất định chẳng thay đổi, đối với việc đã làm nhất định chẳng trùng hủy, việc làm của người khác thì biết ơn, việc làm của mình thì không mong cầu, đối với vô lực không có khinh khi, đối với người chưa học không có chê hèn, chẳng lưu luyến vợ con, không có yêu ghét, đối với giáo sư không có bí mật riêng, trong pháp làm thầy không có giấu giếm, ở trong các pháp không có tư tưởng phá hại, ở trong pháp thí không có mệt mỏi, ở trong cầu pháp không có lười chán, chẳng do lợi ràng buộc mà có điều giảng nói, chẳng do bố thí mà làm bạn bè, chẳng dua nịnh thừa sự, không có hai lưỡi, chẳng vì huyễn hoặc mà gần gũi thừa sự, chẳng ghét đối với pháp, không ngã, ngã sở, chẳng luyến đối với thân, chẳng ái đối với mạng, không có ngã kiến, không có tạo oán, trong thật, chẳng thật không có hủy báng, ở trong đọa pháp không sân phát giác, chẳng phải thiếu thời ái, chẳng phụ bạn bè, đối với chỗ gần gũi cận kề không có dối lừa, trong thật và chẳng thật chẳng phạm nâng lên, thả xuống, chẳng làm lừa dối; chẳng điều khiển phi thời, ở trong chúng sinh khác không tư tưởng cạnh tranh, ở trong phát sự không có giải đãi, chẳng tổn đến Nhẫn, chẳng đáp lại lời ác, chẳng ràng buộc với oán, chẳng khi thấp hèn, theo tiếng nói đùa không có ham mộ, ở trong tinh diệu không có chẳng xả, ở trong ăn uống không có chẳng phân chia, khi bố thí chẳng dùng vật xấu, ở chỗ phụ nữ không có phi hạnh, ở chỗ trượng phu không có nhiễm ô, chánh tín chẳng bỏ, học giới chẳng thông thả, không gì chẳng tàm quí, không gì chẳng tu sĩ (xấu hổ), không có thiếu phước, không có thiếu nghe, thí rồi chẳng hối, với trí chẳng lầm lẫn, ở trong Tam Bảo không gì chẳng kính trọng, ở trong thế đế chẳng là bền chắc, ở trong thắng nghĩa không có vào nhiễm trước, không có thấy rừng hạnh rậm rạp, không có ngã thủ, chẳng quên chánh niệm, ở trong chánh đoạn không có làm khác, ở trong thần túc không có vị say, trong căn chẳng mềm, trong lực chẳng yếu, ở trong giác phận không có chẳng biết, với đạo không chao đão, trong Tam ma địa không có trước tướng, trong Xa ma tha không có trụ chắc chắn, đối với Tỳ phát xá na không có phân biệt, với minh giải thoát không có độc chứng, ở trong các đế không có chướng ngại, trong “qua bờ kia” không chẳng phát khởi, trong tụ (nhóm) chẳng đắm trước, trong giới chẳng nương nhờ, chẳng phải thời chẳng được, ở trong Thanh văn không có thấy chứng (100). Đối với các Bồ tát không chẳng phải giáo sư, ở trong các Nhập không có ý niệm, ở các cảnh giới không có y chỉ, chẳng do tự nghiệp mà sinh đường ác, trụ ở trong thai không có khổ não, ở trong lưu chuyển không có hỷ lạc, ở trong lưu chuyển không có khổ tưởng, ở trong những chỗ sinh ra không có kinh sợ, đối với các chúng sinh không chẳng phải là ruộng, không thiếu hạt giống, ở chỗ gieo trồng trọn chẳng hy vọng, ở các ruộng phước người thọ không có trống khuyết, ở trong bố thí chẳng ràng buộc hạn lượng, ở trong trì giới chẳng ràng buộc hạn lượng, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ cũng chẳng ràng buộc hạn lượng, lưu chuyển cũng chẳng ràng buộc hạn lượng, Từ chẳng chia cắt, đại Bi không thiên lệch, không có Gia (nhà) mạn, không tư tài (của cải) mạn, không có sắc mạn, không tự tại mạn, không quyến thuộc mạn, không đa văn mạn, không trì giới mạn, không có trụ không nhàn mạn, không có kiêu mạn Đầu Đà công đức thiểu dục, không có mạn mạn, không có sân si, không có tùy miên ái, ở trong điên đảo không lấy làm thật, ở trong tịnh và bất tịnh chẳng lấy làm hai, chẳng ham sinh lên trời, chẳng ưa thích Dục, chẳng phải người đồng nghiệp nhất định chẳng thân cận, không chẳng cần (siêng) hợp, chẳng trì thế luận (biện luận của đời), ở trong ngoại đạo không chẳng thương xót, ở trong sự vật không có ràng buộc tư tưởng, đối với tự thân ấy chẳng muốn cầu vui, không có yêu giả trá, chẳng nương cậy ma la. Này Hỷ Vương ! Các Đại Bồ tát đã phát lời thề thì nhất định chẳng dời đổi cho đến Bồ đề trường rốt cùng (150). Này Hỷ Vương ! Các vị Đại Bồ tát, những vị này đều không, sở hữu khác của mình chẳng được làm thì nên phải chớ làm. Ở trong, người nào có thể tác pháp? Này Hỷ Vương ! Các Bồ tát phải chẳng hủy báng. Bồ tát chẳng hủy báng người khác thì tự được an định. Trong các việc làm chẳng động, chẳng hoãn (thông thả), phải gánh vác gánh nặng. Ở trong việc đen (hắc sự) phải chẳng làm theo. Ở trong việc trắng (bạch sự) phải làm lợi ích. Trong phần ít hạnh phải làm vượt qua. Trong vô lượng hạnh cũng phải đã vào. Trong việc thấm nhuần yêu thương phải làm xa lìa. Ở trong pháp lượng sẽ chẳng xa lìa. Đối với khổ sinh tử sẽ được giải thoát. Ở trong cuộc sống suy nghĩ, đã sinh ra thì sẽ chẳng giải thoát. Trong nghiệp bất thiện phải chẳng nhiếp lấy. Đối với các căn phải làm nhiếp lấy. Trong phiền não thí Bồ tát phải bỏn xẻn. Ở trong pháp thí Bồ tát phải chẳng xẻn lậu. Trong ngoại đao học phải chẳng tu học. Trong các chỗ Phật cho học phải giỏi tu học. Trong chẳng bình đẳng thấy nhẫn phải làm bất nhẫn. Trong chánh kiến nhẫn phải đầy đủ nhẫn. Trong ác tác nghiệp, phải làm giải đãi. Trong thiện tác nghiệp phải phát tinh tấn. Ở trong phi tưởng, phi phi tưởng sinh thì phải quên nhớ nghĩ. Ở trong năm thông dong chơi phải có mùi vị định. Ở trong chú thuật đáng sợ, đạo dùng độc, dựng dậy thay chết phải làm vô trí. Trong trí xuất thế phải làm trí tuệ. Phải như vầng trăng đối với các chúng sinh lòng bình đẳng, bạch pháp tăng trưởng. Phải như mặt trời xa lìa tối đen, tạo tác trí quang minh. Phải như đất xa lìa cả hai, đối với các chúng sinh lòng bình đẳng. Phải như nước sạch cùng với chẳng sạch, các cặn không ghét. Phải như lửa, các phiền não thiêu cháy. Phải như gió, đối với các pháp không sở trước. Phải như hư không, vô lượng trí. Phải như biển, cầu thiện căn không chán đủ. Phải như núi Mê lưu (?), các luận sự khác chẳng thể hàng phục. Phải như hoa sen, tám tháp thế gian chẳng nhiễm trước. Phải như cây cối, không phân biệt, phải như chủng tính, pháp vô tận, các phiền não chẳng thể dày xéo. Trong hạnh chúng sinh phải thú hướng, chẳng chấp trước các thú hướng, phải hướng vào trong Niết bàn. Phải tạo tác ruộng thiện, trừ khử gai nhọn ác sân hận. Phải khéo chọn lựa niềm tin làm hạnh ban đầu. Phải được quả lớn, nói bốn đế. Phải được lợi lớn ở trong Phật pháp. Phải được vô chướng ở trong Trí giải thoát Tam ma địa tam ma phát đế. Phải được hoan hỷ bằng pháp hỷ. Phải được đã qua ở trong bùn khổ sinh tử. Phải rơi vào tương ứng, phương tiện khéo léo. Phải tạo tác nghiệp thiện, thoát ly chẳng tương ứng. Phải quan sát thiện nhẫn ở trong chứng. Phải tạo tác ái ngữ bằng tịnh tín bên trong. Phải tạo tác bạn bè bền chặc cho đến Niết bàn, bạn bè tối thắng vậy. Phải tạo tác thuần hậu, không huyễn hoặc. Phải tạo tác chất trực, không dua nịnh quanh co. Phải tạo tác nhu nhuyến, dễ ở chung, Phải tạo tác khả lạc, tin nhuần bên trong. Phải đến các nơi, tùy thuận di chuyển. Phải tạo tác nhuận trạch (thấm nhuần) bằng Đại Bi. Phải tạo tác khát ngưỡng đối với Bồ đề trường. Phải tạo sự chẳng thèm khát ở trong các dục. Phải khiến no đủ đối với các Thanh Văn. Phải tạo sự giáo hóa đối với các Duyên Giác; Phải tạo nhớ nghĩ đối với các căn lành. Phải tạo sự phát giác ở trong bất thiện. Phải tạo tác thủ hộ đối với chánh pháp. Phải tạo tác sự chẳng đoạn dứt đối với Tam Bảo Chủng. Phải tạo sự rực cháy đối với các pháp thiện. Này Hỷ Vương ! Các Đại Bồ tát phải tịch diệt các nghiệp ác. Này Hỷ Vương ! Ta lược nói pháp bất thiện mà các Bồ tát không có vậy. Các hành động, các thiện pháp nên phải, ta nói có vậy. Như thế, các ông phải học ! Ta nói lời dạy bảo như vậy !
 Khi đức Phật nói kinh này thì Đại Bồ tát Hỷ Vương vui mừng và những Đại Bồ tát từ các phương khác đến tập họp, cùng các đại chúng trời, người, A tu la, Càn thát bà.v.v... nghe lời đức Phật nói không ai chẳng tùy hỷ, vui mừng, nhảy nhót, chẳng thể tự kềm chế, siêng làm cúng dường. Đối với lời đức Phật nói họ đều rất vui mừng.