Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Với kẻ kiên trì thì không có gì là khó, như dòng nước chảy mãi cũng làm mòn tảng đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Lời nói được thận trọng, tâm tư khéo hộ phòng, thân chớ làm điều ác, hãy giữ ba nghiệp tịnh, chứng đạo thánh nhân dạyKinh Pháp Cú (Kệ số 281)
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Ai bác bỏ đời sau, không ác nào không làm.Kinh Pháp cú (Kệ số 176)
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Dễ thay thấy lỗi người, lỗi mình thấy mới khó.Kinh Pháp cú (Kệ số 252)
Rời bỏ uế trược, khéo nghiêm trì giới luật, sống khắc kỷ và chân thật, người như thế mới xứng đáng mặc áo cà-sa.Kinh Pháp cú (Kệ số 10)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Phát Bồ Đề Tâm Kinh Luận [發菩提心經論] »» Bản Việt dịch quyển số 1 »»

Phát Bồ Đề Tâm Kinh Luận [發菩提心經論] »» Bản Việt dịch quyển số 1


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Việt dịch (2) » Việt dịch (3) » Việt dịch (4) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.54 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.61 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Luận Phát Tâm Bồ Đề

Kinh này có 2 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 |
Việt dịch: Quảng Minh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Phẩm 1: Khuyến Phát
Kính lạy khắp pháp giới
Khứ lai hiện tại Phật
Đấng đại bi cứu thế
Đẳng không1, bất động trí2.
Có một pháp gọi là Đại phương đẳng3, tối thượng diệu4, thuộc ma đắc lặc già tạng5, là chỗ tu hành của bồ tát. Pháp đó có năng lực (một) khuyến khích các vị bồ tát vui thích tu tập Vô thượng bồ đề; (hai) có thề làm cho chúng sanh phát tâm rộng sâu; (ba) kiến lập thệ nguyện đều vì trang nghiêm bồ đề6; (bốn) bằng cách xả thân mạng tài bảo để nhiếp phục tham lận; (năm) tu tập ngũ tụ giới7 để dẫn dạy chúng sanh không phạm cấm hạnh; (sáu) hành tất cánh nhẫn8 để điều phục sân si; (bảy) phát khởi tinh tấn một cách mạnh mẽ để an chỉ chúng sanh; (tám) thực tập các thiền định để biết các loại tâm tánh; (chín) tu hành trí tuệ để diệt trừ vô minh; (mười) ngộ nhập như thật pháp môn để rời xa các chấp trước; (mười một) nói bày các pháp rất sâu là không, vô tướng; (mười hai) xưng tán công đức để Phật chủng không đoạn dứt. Có vô lượng phương tiện như vậy làm pháp môn thanh tịnh trợ giúp đạo bồ đề. Đây chính là những pháp thượng thượng thiện mà tôi muốn phân biệt, chỉ bày rõ ràng cho hết thảy chúng sanh đạt đến cứu cánh là quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Các người con Phật, nếu là đệ tử Phật, thọ trì lời Phật dạy, thường vì chúng sanh diễn nói giáo pháp, thì trước nên xưng dương công đức của Phật, chúng sanh nghe rồi mới có thể phát tâm cầu trí tuệ Phật. Do phát tâm như vậy nên Phật chủng không đoạn dứt. Hàng tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di thường niệm Phật, niệm pháp, và lại còn niệm công hạnh của đức Như lai: Lúc hành đạo bồ tát, vì cầu pháp mà đức bồ tát phải trải qua a tăng kỳ kiếp thọ các cần khổ. Với tâm niệm cầu pháp như vậy, đức bồ tát được nghe thuyết pháp, dù chỉ là một bài kệ. Đức bồ tát được nghe giáo pháp qua sự chỉ dạy lợi mừng9, thì đã gieo trồng thiện căn, tu tập Phật pháp, chứng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, vì đoạn trừ các khổ não của vô lượng chúng sanh trong đường sanh tử vô thỉ. Hàng đại bồ tát muốn thành tựu vô lượng thân tâm thì phải cần tu tinh tấn, phát đại nguyện sâu, hành đại phương tiện, khởi đại từ bi, cầu đại trí tuệ vô kiến đảnh tướng10. Cầu các pháp lớn của chư Phật như vậy rồi, lại phải biết pháp đó vô lượng vô biên. Do pháp vô lượng nên phước đức quả báo cũng lại vô lượng. Đức Như lai dạy rằng: “Nếu các bồ tát lúc ban đầu phát tâm cho dù một niệm hạ liệt, thì phước đức quả báo của họ trăm ngàn vạn kiếp nói không thể hết. Huống lại, một ngày, một tháng, một năm cho đến trăm năm, tập quen nhiều niệm, thì phước đức quả báo đâu thể nói hết. Vì sao vậy? Vì việc làm của bồ tát là không cùng tận, vì muốn cho tất cả chúng sanh đều trụ Vô sanh pháp nhẫn11, được quả Vô thượng chánh đẳng giác”.
Các người con Phật, Bồ tát sơ phát bồ đề tâm, thí như biển lớn lúc bắt đầu khởi sự khô cạn, phải biết sự khô cạn đi theo thời gian, từ bậc hạ, trung, thượng cho đến không còn cấp bậc, thì chỗ chứa bảo châu như ý hiện bày. Bảo châu đây đều từ biển lớn sanh ra. Bồ tát phát tâm cũng lại như vậy, từ lúc sơ phát tâm rồi dần dần phát huy, phải biết bồ đề tâm tăng trưởng từ người, trời, thanh văn, duyên giác, bồ tát, Phật đà. Bồ đề tâm là chỗ phát sanh tất cả thiện pháp, thiền định, trí tuệ12.
Lại nữa, như tam thiên đại thiên thế giới từ lúc sơ tạo, đến khi hình thành, thứ tự có 25 hữu13. Tất cả chúng sanh trong các hữu đó thảy đều gánh vác (nhân quả), làm chỗ nương tựa nhau. Bồ tát phát bồ đề tâm cũng lại như vậy, từ lúc sơ phát tâm rồi dần dần phát huy (trong các hữu), khắp vì tất cả vô lượng chúng sanh, bao gồm lục thú, tứ sanh, chánh kiến, tà kiến, tu thiện, tập ác, hộ trì tịnh giới, phạm tứ trọng tội, tôn phụng tam bảo, chê bai chánh pháp, chư ma, ngoại đạo, sa môn, phạm chí, sát lợi, bà la môn, phệ xá, thủ đà la, mà vì gánh vác tất cả, làm chỗ nương tựa cho chúng sanh.
Lại nữa, bồ tát phát tâm, lấy từ bi làm đầu. Tâm đại từ của bồ tát thì vô lượng, vô biên, cho nên sự phát tâm cũng không có giới hạn, trùm khắp chúng sanh giới. Thí như hư không trùm khắp tất cả (không chỗ nào không có), bồ tát phát tâm cũng lại như vậy, vì tất cả chúng sanh mà phát tâm nên không chỗ nào không có (sự phát tâm của bồ tát). Cũng như chúng sanh giới vô lượng, vô biên không có cùng tận; bồ tát phát tâm cũng lại như vậy, vô lượng, vô biên không có cùng tận. Hư không không cùng tận, nên chúng sanh giới không cùng tận. Do bồ tát phát tâm ngang bằng chúng sanh giới14, mà chúng sanh giới không có giới hạn, nên sự phát tâm cũng không có giới hạn15. Nay tôi nương ý chỉ của Phật mà nói bày một chút phần của chúng sanh giới, như sau:
Phương đông có thiên ức hằng hà sa a tăng kỳ thế giới của chư Phật, cho đến phương nam, phương tây, phương bắc, bốn hướng trên dưới, mỗi mỗi có thiên ức hằng hà sa a tăng kỳ thế giới của chư Phật. Hết thảy đem nghiền nát làm vi trần. Các vi trần này cực nhỏ đến nỗi nhục nhãn không nhìn thấy được. Một trăm vạn ức hằng hà sa a tăng kỳ tam thiên đại thiên thế giới, chỗ có bao nhiêu chúng sanh thảy đều tụ tập, chung lấy một trần. Hai trăm vạn ức hằng hà sa a tăng kỳ tam thiên đại thiên thế giới, chỗ có bao nhiêu chúng sanh, chung lấy hai trần. Như vậy, lần lựa lấy mười phương, mỗi phương có thiên ức hằng hà sa a tăng kỳ thế giới của chư Phật, chỗ nào có địa chủng đều nghiền làm vi trần, gom lại hết, thì chúng sanh giới cũng không thể cùng tận.
Thí như có người chia chẻ một sợi lông làm trăm phần, lấy một phần sợi lông, nhúng vào nước biền lớn. Tôi nay nói bày ít phần về chúng sanh giới cũng lại như nước trên một phần sợi lông, những điều chưa nói như nước biển lớn. Giả sử chư Phật trong vô lượng vô biên a tăng kỳ rộng bày thí dụ, nói cũng không hết (về chúng sanh giới). Sự phát tâm của bồ tát có khả năng che khắp hết thảy chúng sanh giới như vậy. Vì sao? Các người con Phật, vì bồ đề tâm đâu thể cùng tận vậy. Nếu có bồ tát nghe lời như trên mà không kinh, không sợ, không thối lui, không quên mất, phải biết người đó quyết định có thể phát bồ đề tâm. Giả sử, vô lượng hết thảy chư Phật trong vô lượng a tăng kỳ kiếp xưng tán công đức của người đó cũng không thể cùng tận. Vì sao? Vì bồ đề tâm không có giới hạn, không có cùng tận, nên có vô lượng lợi ích như thế. Cho nên nay tôi tuyên nói vì muốn cho hết thảy chúng sanh được nghe để phát bồ đề tâm vậy.
Phẩm 2: Phát Tâm
Vì sao bồ tát phát bồ đề tâm, và do nhân duyên gì tu tập bồ đề?
Nếu bồ tát thân cận thiện tri thức16, cúng dường chư Phật17, tu tập thiện căn18, chí cầu chánh pháp19, tâm thường nhu hoà, gặp khổ kham nhẫn, từ bi thuần hậu, thâm tâm bình đẳng20, tin ưa đại thừa21, cầu trí tuệ Phật22. Nếu người nào có đủ 10 pháp như vậy mới có thể phát tâm cầu đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lại có 4 duyên cho sự phát tâm tu tập Vô thượng bồ đề. Những gì là 4 duyên? Một là, tư duy về chư Phật mà phát bồ đề tâm; hai là, quán thân quá hoạn mà phát bồ đề tâm; ba là, thương xót chúng sanh mà phát bồ đề tâm, bốn là, cầu quả tối thắng mà phát bồ đề tâm.
1. Tư duy về chư Phật lại có 5 sự:
1. Tư duy mười phương quá khứ, vị lai, hiện tại chư Phật, lúc ban đầu phát tâm, các ngài cũng đủ những tánh chất phiền não như ta ngày nay, rốt cùng trọn thành chánh giác, là đấng Vô thượng tôn. Do duyên việc này mà phát bồ đề tâm.
2. Tư duy tất cả ba đời chư Phật do phát đại dũng mãnh nên các ngài chứng được quả Vô thượng bồ đề. Nếu quả vị bồ đề đây là pháp có thể chứng thì ta cũng sẽ chứng được. Do duyên việc này mà phát bồ đề tâm.
3. Tư duy tất cả ba đời chư Phật do phát đại minh tuệ, ở trong vỏ bọc vô minh mà kiến lập thắng tâm, tích tập khổ hạnh, các ngài đều có thể tự cứu, vượt thoát tam giới. Ta cũng như vậy, phải tự cứu tế. Do duyên việc này mà phát bồ đề tâm.
4. Tư duy tất cả ba đời chư Phật, khi ở trong nhân loại đều có hùng tâm, nên các ngài đều vượt qua biển lớn sanh tử phiền não. Ta cũng là bậc trượng phu, cũng vượt qua được. Do duyên việc này mà phát bồ đề tâm.
5. Tư duy tất cả ba đời chư Phật do phát đại tinh tấn, bỏ thân mạng tài bảo, cầu nhất thiết trí. Ta nay cũng phải theo học như chư Phật. Do duyên việc này mà phát bồ đề tâm.
2. Quán thân quá hoạn mà phát bồ đề tâm, lại có 5 sự:
1. Tự quán thân ngũ ấm, tứ đại của ta đều hay khởi tạo vô lượng ác nghiệp, nên muốn bỏ lìa.
2. Tự quán thân mình có chín lỗ thường chảy đồ hôi dơ chẳng sạch, nên sanh nhàm chán.
3. Tự quán thân mình có vô lượng phiền não tham sân si thiêu đốt thiện tâm, nên muốn trừ diệt.
4. Tự quán thân mình như bong bóng, bọt nước, niệm niệm sanh diệt, là pháp đáng xả, nên muốn buông bỏ.
5. Tự quán thân mình bị vô minh che lấp, thường tạo ác nghiệp, luân hồi sáu nẽo, không có lợi ích.
Cầu quả tối thắng mà phát bồ đề tâm, lại có 5 sự:
1. Thấy các đức Như lai có tướng hảo trang nghiêm, quang minh trong
suốt, gặp Phật thì trừ được phiền não, nên phát tâm tu tập.
2. Thấy pháp thân thường trú thanh tịnh vô nhiễm của các đức Như lai, nên phát tâm tu tập.
3. Thấy các đức Như lai có giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, giới pháp thanh tịnh, nên phát tâm tu tập.
4. Thấy các đức Như lai có 10 lực23, 4 món vô sở uý24, đại bi tam niệm xứ25, nên phát tâm tu tập.
5. Thấy các đức Như lai có nhất thiết trí, thương xót chúng sanh, lòng từ bi bủa khắp, thường vì tất cả kẻ ngu mê mà làm người dẫn đường chân chánh, nên phát tâm tu tập.
Thương xót chúng sanh mà phát bồ đề tâm, lại có 5 sự:
1. Thấy các chúng sanh bị vô minh trói buộc.
2. Thấy các chúng sanh bị các khổ bức bách.
3. Thấy các chúng sanh huân tập nghiệp bất thiện.
4. Thấy các chúng sanh tạo cực trọng ác.
5. Thấy chúng sanh không tu chánh pháp.
Vô minh trói buộc, lại có 4 mục:
a. Thấy các chúng sanh vì si ái làm cho mê lầm, mà thọ lãnh các quả khổ rất dữ dội.
Thấy các chúng sanh không tin nhân quả, tạo tác nghiệp ác.
Thấy các chúng sanh xả bỏ chánh pháp, tin nhận tà đạo.
Thấy các chúng sanh chìm trong sông phiền não, trôi nổi theo bốn dòng26.
Các khổ bức bách, lại có 4 mục:
Thấy các chúng sanh sợ sanh lão bịnh tử, nhưng không có tâm mong cầu giải thoát, lại còn tạo nghiệp.
Thấy các chúng sanh ưu bi khổ não, nhưng thường gây tạo (nghiệp nhân) không có thôi dứt.
Thấy các chúng sanh ái biệt ly khổ, đã không giác ngộ, tham đắm dây dưa.
Thấy các chúng sanh oán tắng hội khổ, thường khởi hiềm nghi, ganh ghét, trở lại gây thêm oán thù.
Huân tập nghiệp bất thiện, lại có 4 mục:
Thấy các chúng sanh vì lòng ái dục, làm các điều ác.
Thấy các chúng sanh biết dục sanh khổ nhưng không bỏ dục.
Thấy các chúng sanh muốn cầu an vui nhưng lại không muốn giữ giới đã thọ.
Thấy các chúng sanh không ưa khổ quả nhưng tạo khổ nhân không có thôi dứt.
Tạo cực trọng ác, lại có 4 mục:
Thấy các chúng sanh huỷ phạm trọng giới, lo buồn khiếp sợ, rồi cũng phóng dật.
Thấy các chúng sanh khởi tạo cực ác, ngũ vô gián nghiệp, hung dữ ương ngạnh, tự mình che lấp, không lòng hổ thẹn.
Thấy các chúng sanh chê bai chánh pháp, đại thừa phương đẳng, chuyên ngu tự chấp, khởi lòng kiêu mạn.
Thấy các chúng sanh ôm chặc sự thông minh hiểu biết, nên đủ duyên tố đoạn dứt thiện căn, trở lại cống cao, vĩnh viễn (chấp chặc) không có hối cải.
Không tu chánh pháp, lại có 4 mục:
Thấy các chúng sanh sanh nhằm bát nạn27, không nghe chánh pháp, không biết tu thiện.
Thấy các chúng sanh gặp Phật ra đời, được nghe chánh pháp nhưng không khả năng thọ trì.
Thấy các chúng sanh tập nhiễm ngoại đạo, khổ thân tu nghiệp, trọn chẳng kết quả như lòng mong cầu.
Thấy các chúng sanh tu chứng phi tưởng phi phi tưởng định28, cho là niết bàn, khi thiện báo hết, rơi lại tam đồ.
Bồ tát thấy các chúng sanh vô minh tạo nghiệp, đêm dài thọ khổ, xa lìa chánh pháp, quên mất đường ra, vì những việc đó mà phát tâm đại từ bi, chí cầu quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Như việc cứu lửa cháy đầu, tất cả chúng sanh có khổ não, ta phải cứu giúp không sót một ai29. Các người con Phật, nay tôi lược nói hạnh ban đầu của bồ tát cùng nhân duyên phát tâm, nếu nói rộng ra thì vô lượng vô biên.
Phẩm 3: Nguyện Thệ
Bồ tát phát tâm xu hướng bồ đề như thế nào và lấy hạnh nghiệp gì để thành tựu bồ đề?
Bồ tát phát tâm trụ ở bậc Can tuệ địa30, trước phải kiên cố phát khởi chánh nguyện, vì nhiếp thọ tất cả vô lượng chúng sanh, rằng: Tôi cầu đạo Vô thượng bồ đề vì cứu hộ độ thoát chúng sanh không sót một ai, vì muốn chúng sanh đạt đến cứu cánh Vô dư niết bàn. Cho nên bồ tát lúc ban đầu phát tâm phải lấy tâm đại bi làm đầu, vì tâm đại bi mới có thể phát khởi, chuyển vận mười chánh nguyện thù thắng cao cả. Sao gọi là mười?
Tôi nguyện đời trước cho đến ngày nay lo tu bồi thiện căn, đem thiện căn này thí cho tất cả vô biên chúng sanh, cùng với chúng sanh hồi hướng Vô thượng bồ đề. Mong nguyện trên của tôi niệm niệm tăng trưởng, sanh ra đời nào cũng thường buộc nguyện này nơi tâm, trọn không quên mất, lấy đó làm đà la ni thủ hộ (tuệ mạng của mình).
Tôi nguyện hồi hướng đại bồ đề quả rồi, đem thiện căn này ở trong tất cả cõi chúng sanh (cư trú và có Phật ra đời) thường được cúng dường tất cả chư Phật, nguyện không sanh vào quốc độ không có Phật.
Tôi nguyện được sanh vào quốc độ có Phật rồi, thường được thân cận, theo hầu hai bên Phật như bóng theo hình, không một khoảng sát na nào rời xa Phật.
Tôi nguyện được thân cận Phật rồi, theo chỗ cảm cầu của tôi, (đức Phật) vì tôi mà thuyết pháp, liền được thành tựu bồ tát ngũ thông31.
Tôi nguyện được thành tựu bồ tát ngũ thông rồi, liền thông đạt thế đế 32, là pháp tướng giả danh33 cùng khắp, thông đạt đệ nhất nghĩa đế34, là pháp tánh chân thật như thế35, được chánh pháp trí36.
Tôi nguyện được chánh pháp trí rồi, không một niệm quên lãng, vì chúng sanh thuyết pháp bằng sự chỉ dạy lợi mừng, đều khiến cho họ được thông hiểu (Phật pháp)37.
Tôi nguyện có khả năng làm cho chúng sanh thông hiểu rồi, nương thần lực của Phật, biến khắp đến mười phương thế giới, không bỏ sót thế giới nào, để cúng dường chư Phật, nghe nhận chánh pháp, rộng nhiếp chúng sanh.
Tôi nguyện đối trước chư Phật nghe nhận chánh pháp rồi, liền có khả năng tuỳ chuyển pháp luân thanh tịnh. Mười phương thế giới tất cả chúng sanh nghe tôi thuyết pháp, nghe danh hiệu tôi, liền được xả ly tất cả phiền não, phát bồ đề tâm.
Tôi nguyện giúp cho tất cả chúng sanh phát bồ đề tâm rồi, thường tuỳ thủ hộ lẫn nhau để diệt trừ những điều vô lợi ích, đem đến vô lượng điều an vui, xả thân mạng tài bảo, nhiếp thọ chúng sanh, cùng nhau gánh vác chánh pháp.
Tôi nguyện thường gánh vác chánh pháp rồi, dù thực hành chánh pháp mà tâm vô sở hành38. Như chư bồ tát thực hành chánh pháp mà tâm vô sở hành, nhưng không việc gì không hành (vô sở bất hành39), vì giáo hoá chúng sanh mà không bỏ chánh nguyện.
Đây là mười đại chánh nguyện của bồ tát phát tâm. Mười đại chánh nguyện này biến khắp chúng sanh giới, nhiếp thọ tất cả hằng sa các nguyện của chúng sanh. Nếu chúng sanh giới hết, nguyện tôi mới hết. Nhưng chúng sanh giới thật không thể cùng tận, nên đại nguyện này của tôi cũng không cùng tận.
Lại nữa, bố thí là chánh nhân bồ đề, vì nhiếp thủ tất cả chúng sanh. Trì giới là chánh nhân bồ đề, vì đầy đủ thiện căn, đầy đủ bản nguyện. Nhẫn nhục là chánh nhân bồ đề, vì thành tựu được 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp tuỳ hình. Tinh tấn là chánh nhân bồ đề, làm tăng trưởng thiện hạnh, vì chúng sanh mà siêng năng giáo hoá. Thiền định là chánh nhân bồ đề, vì bồ tát khéo tự điều phục và có khả năng biết các tâm hành của chúng sanh. Trí tuệ là chánh nhân bồ đề, vì đầy đủ khả năng biết rõ tánh tướng của các pháp.40
Tóm yếu mà nói, sáu ba la mật là chánh nhân bồ đề. Bốn tâm vô lượng, 37 phẩm trợ đạo pháp, muôn hạnh lành cùng hỗ tương, trợ nhiếp để thành tựu bồ đề. Nếu bồ tát tu tập sáu ba la mật, tuỳ theo công hạnh mà từ từ tiếp cận quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Các người con Phật, người cầu bồ đề thì không được phóng dật41, vì (ba nghiệp) phóng dật sẽ làm hư hoại thiện căn. Nếu bồ tát chế phục sáu căn không cho phóng dật42 thì người đó tu tập được sáu ba la mật. Bồ tát phát tâm, trước phải chí thành kiến lập thệ nguyện một cách chắc chắn. Người lập thệ nguyện thì trọn không phóng dật, giải đãi, khinh dễ thối lui. Vì sao? Muốn lập nguyện chắc chắn cần phải có 5 điều kiện gìn giữ:
Luôn giữ tâm vững chải.
Luôn điều phục phiền não.
Luôn ngăn ngừa phóng dật.
Luôn phá trừ ngũ cái43.
Luôn chuyên cần tu tập, hành sáu ba la mật.
Như chư Phật khen ngợi:
Như lai đại trí tôn
Nói ra công đức chứng
Nhẫn tuệ, sức phước nghiệp
Thệ nguyện là tối thắng.
Làm sao lập thệ? Nếu có người đến cầu xin các thứ nơi ta, ta đối với họ tuỳ lúc mà bố thí, cho đến không sanh một niệm bỏn sẻn, tiếc nuối. Nếu sanh ác tâm bằng khoảng khảy móng tay dùng sự bố thí làm nhân duyên cầu tịnh báo, thì luận chủ tôi rất chê trách. Mười phương thế giới vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp hiện tại, vị lai chư Phật cũng nói người đó quyết định không thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nếu tôi tu trì giới, dù mất thân mạng vẫn kiến lập tịnh tâm, thệ không thay đổi, hối hận. Nếu tôi tu nhẫn nhục, bị người xâm hại cho đến bị cắt chặt thân thể cũng vẫn giữ lòng từ ái, thệ không giận ngăn. Nếu tôi tu tinh tấn, gặp cảnh lạnh nóng bất chợt, gặp nạn vua quan, giặc giã, nạn nước lửa, gặp sư tử cọp sói, gặp chỗ không có nước uống, không có cơm ăn, nhất định tâm phải kiên cường, thệ không thối lui, quên mất (bồ đề tâm). Nếu tôi tu thiền định, bị ngoại cảnh khuấy rối không thể nhiếp tâm, phải buộc niệm quên cảnh, thệ không khởi loạn tưởng phi pháp dẫu trong chốc lát. Nếu tôi tu tập trí tuệ, quán tất cả pháp như thật tánh mà tuỳ thuận thọ trì, không khởi nhị kiến đối với điều thiện, bất thiện, hữu vi, vô vi, sanh tử, niết bàn.
Nếu tôi phát thệ nguyện mà tâm có hối hận, giận ngăn, thối lui, loạn tưởng, nhị kiến thì dù chỉ trong khoảng khảy móng tay tu tập trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ để cầu tịnh báo, thì luận chủ tôi rất chê trách. Mười phương thế giới vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp hiện tại, vị lai chư Phật cũng nói người ấy quyết định không thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Nếu bồ tát lấy mười đại nguyện làm hạnh hộ trì chánh pháp, lấy sáu đại thệ làm tâm ngăn trừ phóng dật thì nhất định có thể tinh cần tu tập sáu ba la mật, thành tựu Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Phẩm 4: Đàn na ba la mật
Bồ tát tu hạnh bố thí như thế nào? Bồ tát bố thí vì tự lợi, lợi tha, cả hai đều lợi. Bố thí như vậy thì có thể trang nghiệm đạo bồ đề.
Bồ tát vì muốn điều phục chúng sanh khiến rời khổ não mà thực hành bố thí. Người tu hạnh bố thí thì đối với tài vật của mình thường sanh lòng xả. Chúng sanh đến cầu xin thì khởi lòng tôn trọng, tưởng như cha mẹ, sư trưởng, thiện tri thức. Với người nghèo cùng hạ tiện thì khởi lòng thương xót, tưởng như đứa con ruột của mình. Bồ tát tuỳ theo nhu cầu của họ mà sanh lòng hoan hỷ, cung kính giúp đỡ họ. Đây gọi là bồ tát ban đầu phát tâm tu tập bố thí.
Do tu tập bố thí nên thiện danh được lưu bố và sanh ra nơi nào thì cũng có tài bảo dư dật, đây gọi là tự lợi. Bồ tát có thể giúp cho chúng sanh sinh tâm thoả mãn rồi giáo hoá điều phục chúng sanh khiến không có lòng keo bẩn, đây gọi là lợi tha. Do bồ tát đã tu vô tướng đại thí44, giáo hoá chúng sanh khiến cùng lợi ích như mình, đây gọi là cả hai đều lợi. Do tu bố thí mà đạt được địa vị Chuyển luân thánh vương, nhiếp thọ được tất cả chúng sanh vô lượng, cho đến thành tựu pháp tạng vô tận của chư Phật, đây gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Bố thí có ba phần: một là pháp thí, hai là vô uý thí, ba là tài vật thí.
Bồ tát dùng pháp thí thì trước phải khuyên người thọ giới, tu tâm xuất gia, phá các tà kiến bằng cách nói ra những điều sai lầm, khổ đau của sự chấp thường, chấp đoạn trong phạm trù bốn điên đảo45, lại phân biệt khai thị nghĩa chân đế46, khen ngợi công đức của sự tinh tấn, nói tội lỗi ghê gớm của sự phóng dật. Đây gọi là pháp thí.
Nếu có chúng sanh sợ hãi nạn vua, sư tử, cọp, sói, nước lửa, trọm cắp … bồ tát thấy rồi, có thể vì họ cứu giúp thì gọi là vô uý thí.
Bồ tát không có lòng bỏn xẻn đối với tài vật thí, trên từ trân bảo, voi, ngựa, xe cộ, tơ lụa, lúa nếp, áo quần, ăn uống, dưới đến một nắm gạo, một tấc vải, dù ít, dù nhiều, cho theo nhu cầu, vừa ý người cầu xin, đây gọi là tài thí.47
Tài thí có 5 yếu tố:
Chí tâm cho.
Tin tâm cho.
Tuỳ lúc cho.
Tự tay cho.
Như pháp cho48.
Có 5 việc không nên bố thí:
Tài vật phi lý không đem cho người vì là vật bất tịnh.
Rượu và thuốc độc không đem cho người vì làm thác loạn chúng sanh.
Lưới, bẫy, ná, rập không đem cho người vì làm khổ não chúng sanh.
Dao, gậy, cung tên không đem cho người vì làm thương hại chúng sanh.
Âm nhạc, nữ sắc không đem cho người vì phá hoại tịnh tâm của người.
Tóm yếu mà nói, vật không như pháp, làm não loạn chúng sanh không đem cho người. Ngoài ra, tất cả vật khác có thể giúp chúng sanh được an lạc, gọi là bố thí đúng như chánh pháp.
Người vui thích bố thí lại được thành tựu 5 việc mang lại tiếng tăm và lợi ích:
Thường được thân cận tất cả hiền thánh.
Tất cả chúng sanh ai cũng vui gặp.
Khi vào trong đại chúng, ai cũng tôn kính.
Danh tốt, tiếng lành được vang khắp mười phương.
Làm nhân duyên thượng diệu cho Vô thượng bồ đề.
Bồ tát bố thí như vậy gọi là có nhất thiết thí.
Nhất thiết thí là gì? Không phải đem nhiều tiền của cho người, mà là đem cả tấm lòng vậy. Người bố thí là người cầu tài đúng như pháp để bố thí, gọi là nhất thiết thí. Đem tâm thanh tịnh không siểm khúc49 mà bố thí, gọi là nhất thiết thí. Thấy kẻ nghèo cùng sanh lòng thương xót bố thí gọi là nhất thiết thí. Thấy người nguy khốn sanh lòng từ bi bố thí gọi là nhất thiết thí. Ở trong hoàn cảnh nghèo cùng ít của mà có thể làm việc bố thí gọi là nhất thiết thí. Đem bảo vật quí trọng bố thí để khai mở tâm ý của người gọi là nhất thiết thí. Bố thí mà không phân biệt người trì giới hay huỷ giới, bậc phước điền hay phi phước điền, gọi là nhất thiết thí. Bố thí mà không cầu quả nhân thiên và các quả diệu thiện lạc khác, gọi là nhất thiết thí. Chí cầu Vô thượng đại bồ đề mà bố thí, gọi là nhất thiết thí. Phát tâm bố thí, trong lúc bố thí lòng hoan hỷ, sau khi bố thí không hối tiếc, gọi là nhất thiết thí.
Nếu dùng bông hoa bố thí thì đầy đủ hoa trái đà la ni, thất giác chi50.
Nếu dùng hương thơm bố thí thì đầy đủ giới định tuệ xông ướp nơi thân.
Nếu dùng trái quả bố thí thì thành tựu đầy đủ quả vô lậu.
Nếu dùng thức ăn bố thí thì trọn vẹn sự sống lâu, biện tài, sắc đẹp, sức lực, an vui.
Nếu dùng y phục bố thí thì đầy đủ sắc thân thanh tịnh, trừ bỏ sự không biết hổ thẹn.
Nếu dùng đèn sáng bố thí thì đầy đủ Phật nhãn, thấu suốt đặc tánh của vạn pháp.
Nếu dùng voi, ngựa, xe cộ bố thí thì được quả vô thượng thừa, đầy đủ thần thông.
Nếu dùng chuỗi anh lạc bố thí thì đầy đủ 80 món đẹp tuỳ hình.
Nếu dùng trân bảo bố thí thì đầy đủ 32 tướng tốt của bậc đại nhân.
Nếu dùng gân sức51 để làm việc hầu hạ, chịu sự sai bảo như là bố thí, thì thành tựu được 10 lực, 4 vô sở uý của Phật.
Tóm yếu mà nói, bố thí cho đến quốc thành thê tử, đầu mắt tay chân, toàn bộ thân mạng với tâm không hối tiếc, vì chứng Vô thượng bồ đề, hoá độ chúng sanh. Bồ tát ma ha tát tu hành bố thí thì chẳng thấy tài vật, kẻ cho, người nhận. Bởi vì bố thí bằng vô tướng như vậy nên gọi là đầy đủ đàn na ba la mật.
Phẩm 5: Thi la ba la mật
Hàng bồ tát tu hạnh trì giới như thế nào? Hàng bồ tát trì giới vì lợi mình, lợi người và cả hai đều lợi ích. Trì giới như vậy thì có thể trang nghiêm đạo bồ đề.
Bồ tát vì muốn điều phục chúng sanh xa lìa khổ não cho nên trì giới. Người tu trì giới thì phải thanh tịnh ba nghiệp thân, miệng, ý; đối với tất cả bất thiện hạnh có thể xả ly; khéo léo quở trách (mầm mống) ác hạnh và (duyên tố) huỷ hoại giới cấm; đối với những lỗi nhỏ thì lòng luôn lo sợ. Như vậy mới đúng nghĩa là hàng bồ tát sơ phát tâm tu trì giới vậy.
Do tu trì giới mà xa lìa được tất cả điều ác, các lầm lỗi, thường sanh về chỗ an vui, gọi là tự lợi.
Hàng bồ tát giáo hoá chúng sanh khiến cho họ không phạm điều ác, gọi là lợi tha.
Đem tất cả sự tu trì giới của mình hướng về bồ đề giới52 và giáo hoá tất cả chúng sanh khiến cho họ đồng được lợi ích như mình, gọi là cả hai đều lợi ích.
Chánh nhân tu trì giới thì hoạch đắc sự ly dục53 cho đến dứt sạch hết lậu nghiệp54, thành tựu tối chánh giác, gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Giới có 3 loại: 1. Thân giới, 2. Khẩu giới, 3. Tâm giới.
Trì thân giới thì phải lìa hẳn tất cả hành động thuộc về sát sanh, trộm cướp và dâm dục. Nghĩa là không được tước đi sự sống của sinh vật cùng mạng sống của người, không chiếm hữu tài sản của người và không xâm phạm ngoại sắc (thân thể) của người. Lại cũng không vì những nhân duyên gì và bằng phương tiện gì giết hại chúng sanh; chẳng dùng gậy cây, ngói đá v.v… làm thương hại chúng sanh. Nếu vật thuộc người khác có quyền thọ dụng, thì dù là một cọng cỏ, một chiếc lá, người ta không cho thì không được lấy. Lại cũng không nên ngắm, liếc, ngó tế sắc (sắc đẹp quyến rũ). Đối với bốn oai nghi phải nghiêm cung, cẩn thận, xét đoán rõ ràng. Đó gọi là thân giới.
Trì khẩu giới thì phải đoạn trừ tất cả vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu và ỷ ngữ. Thường không dùng lời dối trá, lời ly gián hoà hợp, lời phỉ báng, chê bai, lời trau chuốt hoa mỹ, và không tạo mọi phương tiện để xúc não lòng người. Lời nói phải chí thành, hoà nhã và trung tín. Lời nói thường đem đến cho người lợi ích, khuyến hoá người tu thiện. Đó gọi là khẩu giới.
Trì tâm giới thì phải trừ diệt tham dục, sân hận, tà kiến, thường tu tâm nhu hoà, không tạo những tội lỗi, tin rằng tất cả những nghiệp tội (từ thân, khẩu, ý sanh ra) chắc chắn sẽ cho chúng ta quả báo ác. Do sức tư duy tu mà không tạo các điều ác, đối với tội nhẹ trong lòng phải lo tưởng như tội rất nặng. Giả như lỡ gây lầm lỗi thì phải sợ sệt, lo âu, sám hối. Đối với tất cả chúng sanh không bao giờ khởi lòng giận hờn, bực bội. Nhìn chúng sanh bằng cái tâm thương nhớ55. Có cái tâm tri ân, báo ân, cái tâm không nuối tiếc, bỏn sẻn, vui làm phước đức, thường vì độ hoá mọi người, thường tu tâm từ, thương xót tất cả. Đó gọi là tâm giới.
Trên đây là nói Mười thiện nghiệp giới. Mười thiện nghiệp giới có 5 điều lợi ích:
1. Chế ngự ác hạnh.
Sanh khởi thiện tâm.
Ngăn ngừa phiền não.
Thành tựu tịnh tâm.
Tăng trưởng giới đức.
Nếu người nào khéo tu hạnh không phóng dật, đầy đủ chánh niệm56, phân biệt thiện ác, phải biết người này quyết định có khả năng tu mười thiện nghiệp giới. Tám vạn bốn ngàn oai nghi, vô lượng giới phẩm thảy đều nhiếp trong mười thiện giới. Mười thiện giới này chính là căn bản của tất cả thiện giới.
Đoạn trừ ba nghiệp ác của thân, khẩu, ý thì có thể chế ngự tất cả pháp bất thiện, cho nên gọi là giới. Giới có 5 nghĩa:
Ba la đề mộc xoa giới.
Định cộng giới.
Vô lậu giới.
Nhiếp căn giới.
Vô tác giới.
Sau khi bạch tứ yết ma57, từ giới sư mà lãnh thọ giới pháp gọi là Ba la đề mộc xoa giới58. Từ căn bản định59 mà tu tập tứ thiền, nếu chưa đạt đến quả vị nào của tứ thiền thì gọi là định cộng giới60. Từ căn bản định, tu tập tứ thiền, đắc sơ thiền nhưng chưa vượt qua tứ thiền gọi là vô lậu giới61. Thu nhiếp các căn, tu chánh niệm tâm, dù kiến văn giác tri62 đối với sắc thanh hương vị xúc, nhưng không sanh phóng dật, gọi là nhiếp căn giới63. Xả bỏ thân mạng, sanh vào đời sau cũng không làm ác, gọi là vô tác giới64.
Hàng bồ tát tu trì giới thì không chung pháp hạnh với hàng thanh văn, bích chi Phật, cho nên gọi là thiện trì giới (khéo léo trì giới). Thiện trì giới thì tất nhiên có những lợi ích cho tất cả chúng sanh, như sau:
Trì từ tâm giới là cứu hộ chúng sanh khiến được an vui.
Trì bi tâm giới là nhẫn thọ các khổ, cứu nguy nan cho chúng sanh.
Trì hỷ tâm giới là khuyến hoá chúng sanh vui tu thiện pháp, không có giãi đãi.
Trì xả tâm giới là bình đẳng đối với oán thân, lìa lòng yêu ghét.
Trì huệ thí giới là giáo hoá điều phục chúng sanh.
Trì nhẫn nhục giới là tâm thường nhu nhuyến, không sân hận, si mê.
Trì tinh tấn giới thì thiện nghiệp ngày càng tăng trưởng, không thối lui.
Trì thiền định giới là ly dục bất thiện, tăng trưởng thiền chi65.
Trì trí tuệ giới là (học rộng) nghe nhiều để tăng trưởng thiện căn66, không biết chán đủ.
Trì thân cận thiện tri thức giới là trợ giúp nhau thành tựu đạo Vô thượng bồ đề.
Trì viễn ly ác tri thức giới là dứt lìa ba đường ác và tám chỗ nạn.
Người theo hạnh bồ tát tu trì tịnh giới thì không nương Dục giới, không gần Sắc giới, không trụ Vô sắc giới, gọi là thanh tịnh giới.
Xả ly dục trần, trừ sân hận si mê, diệt vô minh chướng, gọi là thanh tịnh giới.
Dứt bỏ đoạn kiến, thường kiến, không nghịch với lý nhân duyên, gọi là thanh tịnh giới.
Không đắm trước sắc, thọ, tưởng, hành, thức, toàn là tướng giả danh, gọi là thanh tịnh giới.
Không ràng buộc nơi nhân, không khởi các kiếp chấp (phân biệt), không trụ nghi hối, gọi là thanh tịnh giới.
Không trụ tham, sân, si: ba món bất thiện căn, gọi là thanh tịnh giới.
Không trụ ngã mạn67, kiêu mạn68, tăng thượng mạn69, mạn mạn70, đại mạn71, nhu hoà khéo tuỳ thuận (chúng sanh), gọi là thanh tịnh giới.
Đối với thịnh suy, được mất, chê khen, khổ vui thảy đều không dao động, gọi là thanh tịnh giới.
Không nhiễm thế đế vốn hư vọng giả danh, tuỳ thuận chân đế, gọi là thanh tịnh giới.
Chẳng còn phiền não, nóng nảy, tâm thường tịch diệt ly tướng, gọi là thanh tịnh giới.
Nói tóm lại, bồ tát tu trì giới thì không tiếc thân mạng, quán chiếu vô thường, sanh lòng nhàm lìa, cần hành thiện căn, dũng mãnh tinh tấn, gọi là thanh tịnh giới.
Hàng bồ tát ma ha tát tu hành trì giới thì không thấy tâm mình thanh tịnh, do vì ly tướng. Đây gọi là đầy đủ Thi la ba la mật.
Phẩm 6: Sằng đề ba la mật
Hàng bồ tát tu hành nhẫn nhục như thế nào? Hàng bồ tát tu hành nhẫn nhục là vì lợi mình, lợi người và cả hai đều lợi ích. Sự nhẫn nhục như vậy có khả năng trang nghiêm đạo bồ đề.
Bồ tát vì muốn điều phục chúng sanh khiến lìa khổ não mà tu nhẫn nhục. Người tu hạnh nhẫn nhục thì tâm thường khiêm hạ, đối với tất cả chúng sanh cang cường, kiêu mạn thì tha thứ mà không chấp trách, thấy kẻ nguy ác thì luôn khởi lòng thương xót. Lời nói thường nhu nhuyến, khuyến hoá người tu thiện, phân biệt giải nói về quả báo sai khác của sự sân hận và sự hoà nhẫn. Đây gọi là hàng bồ tát sơ phát tâm tu hạnh nhẫn nhục.
Do tu nhẫn nhục mà xa lìa các điều ác, thân tâm an lạc, gọi là tự lợi. Hướng dẫn chúng sanh biết sống hoà thuận với nhau, gọi là lợi tha. Tu tập (nhẫn nhục) hằng ngày đưa đến thành tựu vô thượng nhẫn nhục, giáo hoá chúng sanh đồng được lợi ích như mình, gọi là cả hai đều lợi ích.
Chánh nhân tu nhẫn nhục thì thành tựu được (quả báo thân tâm) đoan chánh, người thấy sanh lòng cung kính, cho đến khi thành Phật có tướng hảo thượng diệu, gọi là trang nghiêm đạo bồ đề.
Nhẫn nhục có 3 hình thái: 1. Thân nhẫn, 2. Khẩu nhẫn, 3. Ý nhẫn.
Thế nào là thân nhẫn? Nếu có người sanh lòng ác đến bức bách, huỷ nhục, đánh đập thậm chí làm thương hại ta mà vẫn có thể nhẫn chịu tất cả. Thấy các chúng sanh bị ức hiếp, sợ hãi thì sẵn sàng lấy thân chịu thay (khổ não) cho họ72 mà tâm không mỏi mệt, trì hoãn. Đây gọi là thân nhẫn.
Thế nào là khẩu nhẫn? Nếu có người đến mắng chửi ta thì nín lặng nhẫn chịu, không lòng chống trả. Nếu có người phi lý đến trách mắng, ta cần dùng lời ôn hoà mà thuận theo. Nếu có người vu khống ngang ngược, huỷ báng thậm tệ, ta đều phải nhẫn chịu. Đây gọi là khẩu nhẫn.
Thế nào là ý nhẫn? Nếu có người sân si với ta, không ôm lòng hờn giận. Nếu có người xúc não ta, tâm vẫn không dao động. Nếu có người công kích, huỷ nhục ta, lòng không oán trách. Đây gọi là ý nhẫn.
Ở thế gian, sự đánh đập có 2 trường hợp: 1. Sự thật. 2. Ngang ngược.
Nếu mình có lầm lỗi, bị người hiềm nghi, bị người đánh đập, ta phải nhẫn chịu như uống nước cam lộ. Đối với người đó còn phải sanh lòng cung kính, sở dĩ người đó làm như vậy là vì khéo răn dạy, điều phục ta, khiến ta từ bỏ các lầm lỗi vậy.
Nếu có kẻ ngang ngược với ác tâm làm thương tổn ta, thì phải tự suy nghĩ, ta nay không tội, đây chính là túc nghiệp đời quá khứ chiêu cảm cho nên phải nhẫn chịu. Lại phải suy nghĩ, thân này do tứ đại giả hợp, ngũ ấm duyên hội, thì ai là người chịu đánh? Lại quán suy người trước mặt đánh ta là người si, người cuồng, ta phải thương xót họ, sao lại không nhẫn?
Lại nữa, người nhục mạ cũng có 2 hạng: 1. Sự thật, 2. Hư dối.
Nếu người nói lên sự thật, ta phải sanh lòng hổ thẹn.
Nếu người nói lời hư dối, việc đó vô can với ta, thì coi như tiếng vang, gió thoảng, không làm tổn hại ta được, nhưng vẫn phải nhẫn.
Lại nữa, đối với người sân hận cũng vậy. Người kia trút tất cả giận dữ lên ta, ta phải nhẫn chịu. Nếu ta giận dữ lại với người kia thì ở đời vị lai phải đoạ ác đạo, chịu đại khổ não. Do nhân duyên như vậy, thân ta dù bị cắt xẻo phân ly cũng không khởi lòng sân hận, (trái lại) cần phải quán sát sâu xa nhân duyên nghiệp đời trước, phải tu tập lòng từ bi, thương xót tất cả. Việc khổ nhỏ như vậy mà ta không có khả năng nhẫn, tức là không có khả năng tự điều phục tâm, thì làm sao có khả năng điều phục chúng sanh, khiến chúng sanh được giải thoát tất cả ác pháp, thành tựu quả Vô thượng.
Nếu có người trí, ưa tu nhẫn nhục thì người đó được dung mạo đoan chánh, tài bảo sung túc, người khác thấy sanh lòng hoan hỷ, cung kính, ngưỡng mộ, phục tùng. Lại phải quán sát, nếu có người hình dáng hung dữ, nhan sắc xấu ác, các căn không đủ, tài vật túng thiếu, phải biết đó là do nhân duyên sân hận trước kia mà nay phải như vậy. Vì hiểu biết nhân duyên như vậy mà bậc trí quyết tu tập nhẫn nhục một cách thâm sâu.
Nhân duyên phát sanh nhẫn nhục có 10 sự:
Không quán suy tướng ngã và ngã sở.
Không nghĩ về chủng tính (giai cấp).
Phá trừ lòng kiêu mạn.
Điều ác đến với mình không cần chống trả.
Quán tưởng sự vô thường.
Tu tập tâm từ bi.
Tâm không phóng dật.
Bỏ ra ngoài sự đói khát, khổ vui … (của bản thân).
Đoạn trừ sân hận.
Tu tập trí tuệ.
Nếu người nào có thể thành tựu được 10 sự như vậy, nên biết người đó có khả năng tu nhẫn nhục.
Khi hàng bồ tát ma ha tát tu thanh tịnh tất cánh (rốt ráo) nhẫn, tức là khi ngộ nhập “không, vô tướng, vô nguyện, vô tác”73, thì không cho “kiến, giác, nguyện, tác”74 hoà hợp. Cũng không dính mắc “không, vô tướng, vô nguyện, vô tác”, nên “kiến, giác, nguyện, tác” thảy đều không. Pháp nhẫn như vậy là pháp vô nhị tướng (không kẹt nơi hai tướng), gọi là thanh tịnh tất cánh nhẫn75.
Nếu vào tận kết76, nếu vào tịch diệt, thì không cho chư kết và sanh tử hoà hợp. Cũng không dính mắc tận kết và tịch diệt, nên chư kết và sanh tử thảy đều không. Pháp nhẫn như vậy là pháp vô nhị tướng, gọi là thanh tịnh tất cánh nhẫn.
Nếu (pháp) tánh chẳng phải tự sanh, không từ tha sanh, chẳng phải hoà hợp sanh, cũng không từ đâu đến, không thể phá hoại; vì không thể phá hoại nên không cùng tận. Pháp nhẫn như vậy là pháp vô nhị tướng, gọi là thanh tịnh tất cánh nhẫn.
Không làm nhưng cũng không có việc gì không làm, không dính mắc việc làm, không phân biệt, không trang nghiêm, không sửa đổi, không khởi phát, đến đi. Rốt lại là không tạo tác, sanh khởi gì cả. Pháp nhẫn như vậy gọi là vô sanh nhẫn77.
Hàng bồ tát tu hành pháp nhẫn như vậy thì được thọ ký nhẫn. Hàng bồ tát ma ha tát tu hành nhẫn nhục dù là tánh hay tướng cũng rốt ráo không, vì (không thấy mình nhẫn,) không thấy có chúng sanh (là đối tượng để nhẫn). Đây gọi là đầy đủ pháp sằng đề ba la mật vậy.


CHÚ GIẢI
1. Đẳng không: bình đẳng như hư không.
2. Bất động trí: Trí tuệ của Phật lấy đại bồ đề tâm làm thể. Đại bồ đề tâm là bản tánh thanh tịnh, vô vi tịch diệt, nên gọi là bất động.
3. Đại phương đẳng: Theo truyền thống đại thừa, sở dĩ gọi là kinh điển phương đẳng vì ý nghĩa của nó rộng lớn như hư không, vì nói về chân lý chính xác và rộng lớn. Phương đẳng còn gọi là phương quảng: là tất cả ngôn thuyết có liên hệ đến bồ tát tạng, là chỗ sở y để có thể đem lại lợi ích và an lạc cho chúng sanh. Cũng gọi là quảng phá: vì khả năng phá huỷ một cách rộng rãi các chướng ngại. Cũng gọi là vô tỷ: vì không có pháp nào có thể so sánh bằng. (Đại bát niết bàn kinh, A tì đạt ma tập luận)
4. Tối thượng diệu: Vấn đề trọng tâm của luận này là phát bồ đề tâm. Bồ đề tâm là căn bản tối quan trọng của bồ tát đạo nên gọi là tối thượng. Như luận này nói: “Bồ đề tâm là chỗ phát sanh tất cả thiện pháp, thiền định, trí tuệ”, nên gọi là diệu vậy.
5. Ma đắc lặc già tạng: Tên gọi riêng cho luận tạng, dịch là bản mẫu, hành mẫu. Giáo lý là gốc, luận tạng là mẹ sinh ra giáo lý nên gọi là bản mẫu. Luận tạng cũng còn là bà mẹ sinh ra các hành pháp (giáo pháp tu tập) nên gọi là hành mẫu.
6. Trang nghiêm bồ đề: Bồ đề (bodhi) là tri, giác, tức là sự giác ngộ mà căn bản là tuệ tâm sở. Trang nghiêm bồ đề của toàn bộ luận này là trang nghiêm Vô thượng bồ đề (A nậu đa la tam miệu tam bồ đề = sự giác ngộ tối thượng, Vô thượng chánh đẳng chánh giác). Đó là từ ngữ bồ đề trong bồ đề tâm.
7. Ngũ tụ giới: 1. Ba la đề mộc xoa, 2. Định cộng giới, 3. Vô lậu giới, 4. Nhiếp căn giới, 5. Vô tác giới. Xem phẩm Thi la ba la mật, thứ 5.
8. Tất cánh nhẫn = Thanh tịnh tất cánh nhẫn: sự nhẫn nhục không kẹt nhị tướng. Xem phẩm Sằng đề ba la mật, thứ 6.
9. Chỉ dạy lợi mừng: Chánh văn là thị giáo lợi hỷ. Đây là lối thuyết pháp của Phật và bồ tát, theo đó thị là trình bày cho người nghe rõ thiện ác, tốt xấu; giáo là thuyết phục người nghe bỏ ác làm lành, rời xấu theo tốt; lợi là chỉ ra sự lợi ích của việc thực hành ấy; hỷ là tán thưởng sự thực hành ấy cho người nghe vui mừng.
10. Vô kiến đảnh tướng (đỉnh đầu không thể nhìn thấy): Trên đỉnh đầu của Phật có gò thịt nổi cao lên, cũng gọi là nhục kế, là một trong 32 tướng đại trượng phu của Phật. Trong tướng này có cái đỉnh điểm mà tất cả trời và người không thể nhìn thấy được. Trí tuệ vô kiến đảnh tướng là nói về trí tuệ cao tột, tức Phật trí.
11. Vô sanh pháp nhẫn = tuệ giác vô sanh: Vô sanh là không phát sanh phiền não, ác nghiệp. Pháp vô sanh (= không nổi dậy/ không phát sanh) là thật tướng (bản thể) vốn không phải phiền não, không sanh phiền não. Thể nhận pháp vô sanh ấy gọi là Vô sanh pháp nhẫn. Được tuệ giác này là đến địa vị Bất thối chuyển (A bệ bạt trí)
12. Thiện pháp bao gồm 37 phẩm trợ đạo của thanh văn. Thiền định, trí tuệ chỉ cho lục độ vạn hạnh của bồ tát.
13. Thế giới quan Phật giáo cho rằng, do nghiệp sai biệt của loài hữu tình nên thế gian chia ra 3 cõi: Dục giới (Kamadhatu), Sắc giới (Rupadhatu) và Vô sắc giới (Arupadhatu). Dục giới là nơi chúng sanh còn nhiễm năm dục lạc. Sắc giới là nơi chúng sanh đã ly dục nhưng còn có sắc tướng trang nghiêm của thân và cảnh. Vô sắc giới có thể gọi là tinh thần giới, vì nơi đây tuyệt tướng thân cảnh, không có sắc uẩn, chỉ có thọ, tưởng, hành, thức, 4 ấm mà thôi. Ba cõi như vậy chia làm 25 hữu. Hữu có nghĩa là “có nhân có quả, sanh tử liên tục, không phải giải thoát”. Phần Dục giới có 14 hữu, chia ra làm 3: 1. Bốn ác thú: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và a tu la. 2. Bốn đại châu: Nam thiệm bộ châu, Đông thắng thần châu, Tây ngưu hoá châu và Bắc câu lô châu. 3. Sáu tầng trời (lục dục thiên): Tứ vương thiên, Đao lợi thiên, Tu dạ ma thiên, Đâu suất thiên, Hoá lạc thiên và Tha hoá tự tại thiên. Phần Sắc giới có 7 hữu: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, Đại phạm thiên trong Sơ thiền, Vô tưởng thiên và Tịnh cư thiên trong Tứ thiền. Phần Vô sắc giới có 4 hữu: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hứu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
14. Như trường hợp ngài Địa tạng bồ tát phát nguyện: Chúng sanh độ tận phương chứng bồ đề. Vì chúng sanh giới thì vô tận nên ngài Địa tạng mãi mãi làm bồ tát qua lại trong mười phương.
15. Do bồ tát phát tâm …. giới hạn: Theo sát chánh văn, lẽ ra phải dịch là: Do chúng sanh giới không có cùng tận nên bồ tát phát tâm ngang bằng chúng sanh giới. (Bởi vì) Chúng sanh giới thì không có giới hạn vậy.
16. Thiện tri thức: Phật dạy: A nan, đừng nói thiện tri thức là bán phần phạm hạnh, vì lẽ chính thiện tri thức là toàn phần phạm hạnh. Thiện tri thức là người mà ta có thể thân cận học hỏi Phật pháp, là người có thể hỗ trợ và hướng dẫn ta tu hành.
17. Phẩm Hạnh nguyện nói: Trong các cách cúng dường, pháp cúng dường là tối thượng. Pháp cúng dường là tuỳ thuận và làm theo lời Phật dạy, là hoá độ chúng sanh. Kinh Hoa nghiêm viết: Dầu ở trong mỗi niệm, cúng dâng vô lượng Phật, mà chưa biết pháp chân thật, chẳng gọi là cúng dường. Kinh Thắng tư duy dạy: Chẳng khởi nghiệp tội, chẳng khởi nghiệp phước, chẳng khởi nghiệp vô động, gọi là cúng dường Phật.
18. Tu tập thiện căn, căn bản là giữ gìn tịnh giới, vì “tịnh giới là chỗ yên ổn nhất, làm nơi trú ẩn cho mọi thứ công đức”.
19. Chí cầu chánh pháp = nhận lãnh chánh pháp: là căn bản tối quan trọng của sự phát bồ đề tâm. Nhận lãnh chánh pháp bao gồm trong tam tụ tịnh giới: nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới và nhiếp chúng sanh giới.
20. “Nhà Như lai chính là tâm từ bi rộng lớn đối với tất cả chúng sanh, y Như lai là lòng nhu hoà nhẫn nhục, toà Như lai chính là Nhất thiết pháp không”. An trụ trong đây là Như lai sứ giả, hành Như lai sự. Như luận nói: tâm thường nhu hoà, gặp khổ hay nhẫn, từ bi thuần hậu, thâm tâm bình đẳng
21. Tin ưa đại thừa = đức tin đại thừa: tin vào thể, tướng, dụng của Tâm. Tâm ấy là Phật, Tâm ấy làm Phật. Tâm ấy đưa những bậc vĩ đại vào địa vị vĩ đại.
22. Cầu trí tuệ Phật: Bồ tát lấy trí tuệ (Phật) làm sự nghiệp, vì không trí tuệ thì vĩnh kiếp luân hồi và làm sao thành tựu được vô thượng giác, do đó “bồ tát học rộng nghe nhiều, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu biện tài, giáo hoá tất cả bằng pháp đại thừa”. (Kinh Bát đại nhân giác)
23. Trí của Phật có 10 lực: 1. Thị xứ phi xứ trí lực, 2. Nghiệp trí lực, 3. Thiền định trí lực, 4. Căn tánh trí lực, 5. Nguyện dục trí lực, 6. Giới trí lực, 7. Đạo chí xứ trí lực, 8. Túc mạng trí lực, 9. Thiên nhãn trí lực, 10. Lậu tận trí lực.
24. Bốn đức vô sở uý của Phật: 1. Nhất thế trí vô uý, 2. Lậu tận vô uý, 3. Thuyết đạo vô uý, 4. Thuyết khổ tận đạo vô uý.
25. Tam niệm xứ: Còn gọi là Tam niệm trụ: Đức Phật đại bi, nhiếp hoá chúng sanh, thường an trụ nơi chánh niệm, chánh trí trong ba trường hợp, đó là: 1. Chẳng sinh lòng mừng khi có chúng sanh tin Phật, 2. Chẳng sinh buồn phiền khi có chúng sanh chẳng tin Phật, 3. Chẳng sinh vui mừng hay buồn rầu khi cùng một lúc có chúng sanh tin và có chúng sanh chẳng tin Phật.
26. Tứ lưu: Còn gọi là Tứ bộc lưu (bốn dòng nước xiết), chỉ cho phiền não có khả năng cuốn trôi các thiện pháp, như dòng nước lớn có khả năng cuốn trôi nhà của, cây cối v.v… Bốn dòng nước phiền não là: 1. Dục lưu: tham, sân, si, mạn, nghi v.v… gồm có 29 hoặc thuộc Dục giới, 2. Hữu lưu: tham, mạn, nghi v.v… gồm có 28 hoặc thuộc Sắc giới và Vô sắc giới, 3. Kiến lưu: 36 kiến chấp của ba cõi, 4. Vô minh lưu: 15 thứ vô minh của ba cõi.
27. Bát nạn: Tám chỗ chướng nạn cho sự thấy Phật và nghe pháp, cũng gọi là tám chỗ không rảnh hở mà tu hành. Đó là: 1. Địa ngục, 2. Ngạ quỷ, 3. Súc sanh, 4. Làm người mà sống ở đại châu Bắc câu lô, sống quá sướng, 5. Trời Trường thọ, sống quá lâu, 6. Làm người mà đui, điếc, câm, ngọng, 7. Làm người mà thế trí biện thông, thông minh lý luận theo trí thức thế gian, 8. Làm người mà sinh trước hay sau Phật xuất thế hoặc sống ở nơi không có Phật pháp.
28. Phi tưởng phi phi tưởng xứ định là định thứ 4 trong Tứ không thuộc thế gian thiền, phàm phu thiền hay ngoại đạo thiền. Sở dĩ gọi như vậy là vì các pháp thiền này chưa có thể đưa hành giả ra ngoài tam giới, chưa chứng được Thánh quả, vẫn còn quanh quẩn trong vòng phàm phu hay thế gian.
29. Đoạn này cho thấy đại bi và đại nguyện của bồ tát là như thế nào.
30. Can tuệ địa: Là địa thứ nhất của Thập địa. Trí tuệ ở đây khô ráo nhưng chưa thuần thục nên gọi là can tuệ.
31. Ngũ thông: Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông và Thần túc thông.
32. Thế đế: Là đứng về phương diện thế tục và tương đối mà quán sát, suy luận thì thấy nhân cũng có và pháp cũng có.
33. Giả danh: Có hai cách giải thích. 1. Về danh: Các pháp vốn vô danh, do người giả trao cho cái danh, do vậy tất cả các danh đều là hư giả không thật, không khế hợp với thật thể. Như người nghèo mà trao cho cái danh giàu sang, đó là giả danh. 2. Về pháp: Các pháp đều do nhân duyên hoà hợp mà thành, không có thật thể chân thật, do vậy không thể tự sai biệt. Dựa vào giả danh thì có pháp sai biệt, xa lìa cái danh thì không có các pháp sai biệt, do vậy chỉ ra các pháp là giả danh. Lưu bố pháp giả danh là ở đứng ở phương diện tục đế mà bủa ra tác dụng hoá độ, bởi vì quán sát các pháp tuy không và vô sở đắc nhưng bản thể vốn đủ các pháp, muôn hình vạn trạng, không thiếu một pháp nào.
34. Đệ nhất nghĩa đế = chân thật nghĩa: Là nói về phương diện tuyệt đối, thì ngã và pháp đều là giả có, chứ không thật có. Đệ nhất nghĩa đế là nói thắng nghĩa vô tánh, vì thắng nghĩa của các pháp là vô tánh, là thắng nghĩa do nhân vô ngã và pháp vô ngã hiển lộ. Đệ nhất nghĩa đế cũng tức là nhất chân pháp giới vậy.
35. Pháp tánh chân thật như thế = chân như. Chân như ấy là viên thành thật tánh của các pháp.
36. Chánh pháp trí (trí tuệ nhận thức được chánh pháp) = như thật tuệ, thường trụ trí. Như thật tuệ là trí tuệ thấy rõ bản tánh của các pháp, tức tuệ chứng chân như. Thường trụ trí là trí tuệ bản hữu không bị chi phối bởi mọi sinh thành hay hoại diệt của hiện tượng giới. Có chỗ giải thích, chánh pháp trí chính là sáu độ trí (tức trí tuệ của sáu ba la mật), có lẽ là chánh pháp trí mà ngài Thế Thân nói đến. Một cách tổng quát, nguyện được chánh pháp trí là ước nguyện học hỏi tất cả Phật pháp, mà Phật pháp thì vô tận nên thệ nguyện cũng vô tận. Thế gian tánh cũng chính là Phật pháp, cho nên ước nguyện hiểu biết thấu triệt thế gian tánh cũng chính là ước nguyện vào sâu biển cả Phật pháp, và quan trọng là thể hiện sự tu tập bằng trí trong mọi cử chỉ hành vi, mọi môi trường, mọi đối tượng nhưng cùng hướng đến một cứu cánh cao cả là Vô thượng bồ đề.
37. Đối chiếu với 3 điều đại nguyện trong kinh Thắng man thì thấy 2 nguyện đầu tương ưng với nguyện 5 và 6 ở đây: Nguyện thứ nhất là con đem thiện căn của con mà nguyện đời nào cũng được chánh pháp trí. Nguyện thứ hai là con sinh ra ở đâu cũng được chánh pháp trí, rồi thì con nguyện diễn nói cho chúng sanh một cách không mệt mỏi.
38. Tâm vô sở hành: Thể hội được chân lý vô tướng, trong lòng không có gì chấp trước, không có gì phân biệt.
39. Vô sở bất hành: Tất cả các pháp đều là Phật pháp (Nhất thiết chư pháp vô phi Phật pháp), cho nên từ mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân xúc, ý nghĩ v.v… bồ tát mỗi mỗi đều tu, cho đến đi, đứng, nằm, ngồi cũng đều là tu. Tất cả mọi sự, mọi việc, từ nội tâm đến ngoại cảnh, từ tự lợi đến lợi tha, từ một vi trần cho đến sơn hà đại địa đều là pháp tu của bồ tát.
40. Kinh Tư ích có nói: “Nếu bồ tát xả tất cả phiền não thì gọi là bố thí ba la mật, đối với các pháp tâm không khởi thì gọi là trì giới ba la mật, đối với các pháp không làm thương hại gọi là nhẫn nhục ba la mật, đối với các pháp xa lìa sự tướng gọi là tinh tấn ba la mật, đối với các pháp tâm vô sở trụ gọi là thiền định ba la mật, đối với các pháp tâm không hý luận gọi là trí tuệ ba la mật.” Phẩm Nguyện thệ, ngoài 10 đại nguyện ở trên, thì 6 đại thệ là thệ tu tập 6 pháp ba la mật, trong đó bố thí và nhẫn nhục thuộc về bi, thiền định và trí tuệ thuộc về trí, trì giới và tinh tấn thuộc về dũng. Bi, trí, dũng là ba điều kiện cần yếu của hành giả trên bước đường đi đến bảo sở. Dũng có công năng kiểm soát và đốc suất cho bi và trí. Thành Phật tức là hoàn thành hai đức bi, trí đến mức viên mãn tột cùng.
41. Phóng dật: Dễ hiểu là phóng túng. Tuy nhiên, phóng dật không phải chỉ biểu hiện sự phóng túng , buông thả, mà ở đây nên hiểu là không siêng năng một cách thường xuyên và hợp chánh pháp, tâm chí lơi lỏng, hời hợt một chút đối với chánh pháp tu tập, đã là phóng dật. “Thế nên các thầy Tỳ kheo, đừng nên phóng dật. Ta nhờ không phóng dật mà tự thành chánh giác. Vô số điều thiện đều do không phóng dật mà thực hiện. Đó là lời nói cuối cùng của ta”. (Trường A Hàm)
42. Kinh Di giáo dạy: “Giặc cướp làm hại khổ chỉ một đời, còn giặc giác quan hoạ đến nhiều kiếp … Chế ngự tâm lại một chỗ thì không việc gì không thành.”
43. Ngũ cái: Năm pháp có thể che lấp (cái) tâm tánh khiến chẳng sinh thiện pháp, chướng ngại thiền định: 1. Tham dục, 2, Sân giận, 3. Thuỳ miên (nhác ngủ), 4. Trạo hối (náo động hối hận), 5. Nghi ngờ. (Luận Câu Xá)
44. Vô tướng đại thí: Sự bố thí lớn đem lợi ích cho người nhận thí là ngộ nhập được pháp vô tướng: bản thể siêu việt. Ở đây hiểu là pháp thí, cũng hiểu là bố thí “tam luân không tịch”: không phân biệt kẻ cho, người nhận và vật thí.
45. Tứ đảo: Bốn thứ vọng kiến điên đảo, có hai loại: 1. Đối với sanh tử: vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, mà lại chấp thường, lạc, ngã, tịnh. Đây là bốn thứ vọng kiến điên đảo của hạng phàm phu, thuộc hữu vi. 2. Đối với Niết bàn: thường, lạc, ngã, tịnh, mà lại chấp vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh. Đây là bốn thứ vọng kiến điên đảo của hàng Nhị thừa, thuộc vô vi. Đoạn trừ tám thứ điên đảo hữu vi và vô vi là bồ tát.
46. Chân đế: Chân là nói cái chân thật không hư vọng, đế là vốn có. Chân đế là để đối lại với tục đế. Ví dụ nói thế gian pháp là tục đế, thì xuất thế gian pháp là chân đế.
47. Bố thí, không luận bố thí nội tài hay ngoại tài, đều vì đối trị lòng tham xan. Bố thí nội tài cố nhiên là cao vượt hơn ngoại tài, nhưng bố thí ngoại tài không phải là chuyện dễ. Thói tham lẫn của con người đâm rễ rất sâu. Vì không nhận được lẽ thiện ác nên không biết bố thí và phước báo của sự bố thí. Khi họ “thấy người đến xin, lòng họ không vui. Giả sử bất đắc dĩ mà bố thí, thì lúc đó đau tiếc sâu xa như cắt thịt mình. Lại còn lắm kẻ tham lẫn, dồn chứa tài sản mà đối với bản thân của họ, họ còn không hưởng dụng, huống chi có thể đem cho cha mẹ, vợ con, tôi tớ, người làm hay kẻ đến xin” (Kinh Dược sư). Tất cả đều vì ngu muội, thiếu trí tuệ, thiếu đức tin mà sanh ra những việc như vậy. Tu tập bố thí thì trước phải phá dần tâm tham đắm, coi nhẹ của cải, phát đại nguyện tu bố thí ngoại tài, bố thí với lòng khiêm hạ, chân thật, cầu phước chứ không phải ban ân. Kế đến là bố thí nội tài, đem đầu mắt tay chân, máu thịt, sức lực, sinh mạng … mà bố thí với tâm không tiếc nuối. Cao hơn nữa là bố thí luôn những vọng tưởng, phiền não nơi nội tâm. Kinh nói: Nhất xả nhất thiết xả, nhất bố thí nhất thiết bố thí. Bố thí tất cả, bố thí cho đến một sợi tơ chẳng vướng, bố thí bằng vô tướng đại thí.
48. Kinh Ưu bà tắc giới, phẩm Bố thí ba la mật, cũng có dạy 5 cách thí như trên.
49. Siểm khúc: quanh co, lặt lẹo. Bố thí với tâm rào trước đón sau, mưu cầu danh lợi, bợ đỡ, dua nịnh, quanh co.
50. Thất giác chi: Còn gọi là thất bồ đề phần (giác = bồ đề, chi = phần), là bảy nhánh, bảy phương tiện đi đến đích giác ngộ, gồm có: 1. Trạch pháp, 2. Tinh tấn, 3. Hỷ, 4. Khinh an, 5. Niệm, 6. Định, 7. Xả.
51. Tài thí là cho người bằng của, nhưng của có 2 loại: 1. Của ở ngoài, theo nghĩa đen, gọi là ngoại tài, 2. Của ở trong, của thật, tức thân mạng sức lực, gọi là nội tài.
52. Bồ đề giới = tâm địa giới = bồ tát giới: Bồ tát giới lấy sự thành tựu chúng sanh làm tiêu chuẩn, cho nên chức năng của giới không chỉ là phòng hộ căn môn, như thanh văn giới, mà chính là ba tụ tịnh giới: “Là giới nhiếp thiện pháp, gồm tám vạn bốn ngàn pháp môn; là giới nhiếp chúng sanh, từ, bi, hỷ và xả, đem lại sự an lạc cho hết thảy chúng sanh; là giới nhiếp luật nghi, gồm mười ba la di.” (Luật Anh lạc). Luận Du già nói: “Bồ tát sau khi thọ luật nghi giới, tất cả vì đại bồ đề, do thân, miệng và ý mà tích tập các thiện căn.” Tức là bồ tát thực hiện và tích tập các thiện pháp để hướng tới mục đích cứu cánh là Phật thừa. Luật nghi của bồ tát phòng hộ khắp cả 3 nghiệp, nhưng ý nghiệp là chủ, còn thân và miệng là thứ yếu. Căn cứ vào sự vượt trội của tâm (= ý = thức) mà bồ tát giới còn gọi là tâm địa giới
53. Ly dục = rời xa sự tác hại của dục. Dục là một đặc tính của tâm. Dục có nhiều thứ như: dục phóng túng vừa là khổ, vừa là nguyên nhân của khổ; dục tham, sân, si và đẳng phần; dục náo động của tâm thức vượn khỉ trong các căn, trở ngại cho sự tu hành; dục tác hại làm nguồn gốc phát sinh tội lỗi nơi mình và cho người.
54. Dứt sạch hết lậu nghiệp = lậu tận: Phàm phu qua 6 căn phóng túng mà rò rỉ (lậu) ra phiền não, nên gọi phiền não là lậu. Cực quả của tam thừa (A la hán) là dùng thánh trí dứt bỏ hết các loại phiền não này, nên gọi là lậu tận (A la hán).
55. Tâm thương nhớ = ai niệm tâm: Cái tâm như người mẹ thương nhớ con.
56. Chánh niệm là đánh đổ vọng niệm, không cho vọng niệm có cơ hội trỗi lên. Chánh niệm là tư duy và nhiếp niệm vào chánh pháp mà mình văn, tư, tu. Không có chánh niệm thì sự văn, tư, tu chánh pháp vẫn khó có, mà có rồi vẫn không giữ được và thành được. Ví dụ nghe dạy về giới, tư duy về lợi ích của giới và tu trì giới, nếu như không có chánh niệm thì sư văn, tư, tu giới ấy khó mà thành tựu. Như vậy chánh niệm cũng tức là giới niệm (phương tiện của tam muội để đối trị sự phóng dật). “Thế nên các thầy hãy luôn luôn tập trung chánh niệm lại nơi tâm trí. Mất chánh niệm là mất công đức. Nếu chánh niệm có năng lực vững mạnh, thì dẫu phải vào trong đám giặc ngũ dục cũng không bị chúng sát hại; tựa như tướng sĩ lâm trận mà mặc áo giáp lát đồng thì không còn sợ hãi gì nữa”. (Kinh Di Giáo)
57. Bạch tứ yết ma: Yết ma, nói đủ là Tăng già yết ma, là chỉ sự biểu quyết của chúng Tăng. Tăng pháp yết ma có ba loại: đơn bạch, bạch nhị và bạch tứ. Đơn bạch thì chỉ cần một lần tác bạch thì Tăng sự thành tựu. Bạch nhị thì một lần tác bạch và một lần yết ma (biểu quyết). Bạch tứ dùng trong những trường hợp quan trọng cần một lần tuyên bố và ba lần biểu quyết đồng thuận thì Tăng sự mới thành tựu. Trường hợp truyền giới, thọ giới cần phải bạch tứ.
58. Ba la đề mộc xoa (Pàtimokkha): Có nghĩa là biệt giải thoát, xứ xứ giải thoát, tuỳ thuận giải thoát. Ba la đề mộc xoa là bản thể giải thoát, có năng lực chánh độ, tức là giữ gìn ba nghiệp không rơi vào lầm lỗi, không cho huỷ phạm thiếu sót, chuyển hóa cái ác của ba nghiệp mà thành tựu ba nghiệp giải thoát. Đức Phật đã thiết lập một cộng đồng của những người xuất gia và thọ cụ túc, đó là giáo hội Thanh văn tăng, sống tự chế ngự bằng sự chế ngự của giới bổn Ba la đề mộc xoa, tức những điều khoản giới luật phải chấp hành cho mục đích thành tựu giải thoát. “Gọi là Biệt giải thoát vì các phiền não được đoạn trừ trong các giai đoạn kiến đạo và tu đạo được xả ly từng cái một”. (Căn bản luật nhiếp)
59. Căn bản định: Gọi tắt là căn bản, nghĩa là hành giả thân vẫn còn nơi Dục giới, lúc chưa sanh về Sắc giới hay Vô sắc giới, bằng sự tu hành của mình, hoàn toàn đoạn trừ phần hạ địa của tu hoặc, sở đắc thượng địa định, thì gọi là căn bản định.
60. Định cộng giới: Lấy định (samàdhi) làm giới, nghĩa là do tu tập thiền định mà thân tâm thanh tịnh, đoạn trừ được các lậu hoặc, giới thể cụ túc, giải thoát do định sinh.
61. Vô lậu giới = Đạo cộng giới: Nghĩa là khi Thánh giả chứng nhập định vô lậu (tứ thiền) ở Sắc giới tự thân cũng phát ra vô lậu trí và thành tựu giới thể “phòng phi chỉ ác” (ngừa lỗi dứt ác), gọi là vô lậu luật nghi. Vô lậu luật nghi này và vô lậu đạo cùng sanh cùng diệt, nên gọi là Đạo cộng giới. Giới này thuộc vô biểu nghiệp. Theo Thuyết nhất thiết hữu bộ, lấy vô biểu nghiệp làm thật sắc, vì vậy Thánh giả sanh nơi Vô sắc giới tuy có khả năng thành tựu giới này nhưng hẳn nhiên không hiện khởi được. Theo Duy thức gia thì lấy tất cả vô biểu nghiệp làm phi thật sắc. Trong tất cả vô biểu nghiệp, những gì thuộc về vô lậu đạo của Sắc giới và Vô sắc giới thì cùng chuyển, và cùng có đủ công năng đoạn trừ sự phạm giới, nên gọi là vô lậu luật nghi. Ở đây, ngài Thế Thân cho vô lậu giới chỉ có ở Sắc giới, tức tứ thiền: Ly sanh hỷ lạc địa, Định sanh hỷ lạc địa, Ly hỷ diệu lạc địa, Xả niệm thanh tịnh địa.
62. Kiến, văn, giác, tri (thấy, nghe, hay, biết) = cái biết của 6 thức: kiến là nhãn, văn là nhĩ, giác là 3 thứ tỷ, thiệt và thân, tri là ý. Ba thức nhãn, nhĩ và ý được khai ra 3 là vì giúp rất nhiều cho bồ đề phần, lại biết cả thế và xuất thế. Ba thức còn lại, tỷ, thiệt và thân không bằng 3 thức trên nên hợp làm một.
63. Nhiếp căn giới: Căn phóng túng thì vừa là khổ, vừa là nguyên nhân của khổ. Đối trị cái khổ ấy bằng phương tiện của tam muội, tức sự nhiếp niệm (chánh niệm) do giữ giới thanh tịnh mà có.
64. Vô tác giới: Thể của giới có hai loại: 1. Tác giới, 2. Vô tác giới. Tác giới là khi thọ giới, ba nghiệp thân, khẩu, ý tác động đúng như pháp, thì lúc đó cái thể của ba nghiệp biểu hiện có thể thấy, có thể nghe được. Còn vô tác giới là thể của ba nghiệp không biểu hiện, chỉ dựa vào nhân duyên lúc tác giới mà phát sinh trong thân, nên không thấy, không nghe. Nghiệp thể đó, lúc mới phát, tuy do sự tác động của thân, khẩu, ý, nhưng một khi đã phát sinh rồi thì thường hằng nối tiếp mà không cần dựa vào sự tạo tác của ba nghiệp nữa, cho nên gọi là vô tác.
65. Thiền chi: Chi là chi phần, bộ phận. Tứ thiền định có 18 chi: Sơ thiền có 5 chi là giác, quán, hỷ, lạc và nhất tâm; nhị thiền có 4 chi là nội tịnh, hỷ, lạc và nhất tâm; tam thiền có 5 chi là xả, niệm, tuệ (trí), lạc và nhất tâm; tứ thiền có 4 chi là bất khổ bất lạc, xả, niệm và nhất tâm.
66. Thiện căn ở đây là tư tuệ và tu tuệ.
67. Ngã mạn: Chấp ngã và ngã sở lảm cho tâm lý cất cao lên.
68. Kiêu mạn: Xấc láo ngạo ngược, không coi ai r a gì.
69. Tăng thượng mạn: Chưa chứng Thánh đạo mà mà bảo đã chứng.
70. Mạn mạn = mạn quá mạn: Với người hơn mình, mình bảo mình hơn hẳn.
71. Đại mạn: Tự hào, tự thị, thậm chí tự xưng mình là Vô thượng sư.
72. Dĩ thân đại chi: Đây là hạnh chịu thay. Chịu thay là thay người chịu khổ, hay chịu thay khổ não cho chúng sanh. Chịu thay là giới thứ 3, “lợi ích chúng sanh”, trong ba tụ tịnh giới. Chịu thay như vậy là bồ tát hạnh, là đại bi đại nguyện của bồ tát.
73. Không, vô tướng, vô nguyện là ba cánh cửa giải thoát dẫn vào niết bàn, nên gọi là Tam giải thoát môn: 1. Không môn: Quán tất cả pháp đều không có tự tánh, do nhân duyên hoà hợp mà sinh khởi. Nếu thông đạt như vậy thì đối với các pháp được tự tại. 2. Vô tướng môn: Đã biết tất cả các pháp không, thì quán thấy các tướng nam, nữ, đồng nhất, dị biệt v.v… thật bất khả đắc. Thông đạt chư pháp vô tướng thì lìa sai biệt mà được tự tại. 3. Vô nguyện môn: Nếu biết tất cả pháp vô tướng, thì đối với ba cõi không có chỗ nguyện cầu. Do không mong cầu nên không tạo tác nghiệp sanh tử. Nếu không tạo tác nghiệp sanh tử thì cũng không có cái khổ của quả báo nên được tự tại. Vô tác môn cũng là vô nguyện môn, nhưng nhấn mạnh ý không tạo tác nghiệp sanh tử.
74. Kiến, giác, nguyện, tác: Chỉ những tâm lý của phàm phu. Kiến là suy nghĩ, tìm tòi để hiểu rõ mà chọn lựa, khẳng định sự lý, bao gồm ý nghĩa chính đáng hay không chính đáng. Giác là nói về mặt nhận thức, khi căn tiếp xúc với cảnh đưa đến nhận thức phân biệt, như kinh thường nói tóm là kiến, văn, giác, tri. (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ-thiệt-thân thức, ý thức), và chính sự thấy, nghe, hay, biết này mà dẫn đến ngôn từ hý luận cho là sâu xa, hay ho và hữu ích. Nguyện là lòng ham muốn, khát khao, tìm cầu, dục vọng dưới nhiều hình thức, “tìm lạc thú nay chỗ này mai chỗ khác, nghĩa là khao khát đối với khoái lạc giác quan (dục ái), khao khát hiện hữu và trở thành (hữu ái) và khao khát sự không hiện hữu (diệt ái)”. Chính nguyện hay lòng ái mà phát sinh mọi hình thái khổ đau và sanh tử. Chỉ vì ý chí muốn sống, tồn tại, tái sanh, trở thành, tăng trưởng, tích tụ mà đưa đến sự tác ý, tư niệm, tạo tác nghiệp sanh tử qua thân, khẩu, ý, đây gọi là tác.
75. Thanh tịnh tất cánh nhẫn: Là sự nhẫn nhục rốt ráo trong sạch, là nhẫn nhục vô nhị tướng: không hiện hành sanh tử cũng không hiện hành niết bàn.
76. Tận kết = hết phiền não. Kết nghĩa là kết tập, trói buộc, tên khác của phiền não. Vì các nhân duyên phiền não kết tập sanh tử, cho nên gọi là kết. Trói buộc không cho chúng sanh giải thoát, cho nên gọi là kết.
77. Vô sanh nhẫn: Cũng gọi là Vô sanh pháp nhẫn, tức chứng được Phật tánh là lý tánh bất sanh bất diệt hay lý thể thật tướng là chân như bất động. “Đối thật tướng vô sanh diệt của các pháp mà tin chịu thông suốt, không ngăn ngại, không thối lui, gọi là Vô sanh nhẫn.” (Đại trí độ luận). Từ Sơ địa đến Bát địa bồ tát mới vào được Vô sanh nhẫn.

« Kinh này có tổng cộng 2 quyển »       » Xem quyển tiếp theo »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




An Sĩ toàn thư - Khuyên người niệm Phật cầu sinh Tịnh độ


Lục tổ Đại sư - Con người và huyền thoại


Lược sử Phật giáo


Thắp ngọn đuốc hồng

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.144.172.115 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập