Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@pgvn.org
 CHƯƠNG VII
PHẨM BIẾN HÓA 
Bấy giờ Đại huệ Bồ tát đại hữu tình bạch Phật: 
Bạch Thế tôn! Như lai vì cớ gì thọ ký cho các bậc A la hán rằng họ sẽ chứng Vô thượng chính đẳng chính giác? Vì cớ gì mà nói rằng chúng sinh không chứng pháp Bát Niết bàn cũng thành Phật? Lại cớ gì nói từ khi Như lai mới thành Phật đến khi nhập Niết bàn, trong thời gian đó Phật không nói một chữ nào? Lại nói Như lai thường trú trong định không giác không quán? Lại nói các phật sự đều là hóa tác. Lại nói các thức sát na biến hoại. Lại nói thần Kim cang thường theo hộ vệ. Lại nói giới hạn đầu tiên (primary limit - tiền tế) không thể biết, nhưng có thể biết tịch diệt. Lại nói có ma và các việc (nghiệp) của ma? Lại nói có dư báo, nói chuyện người con gái Bà la môn tên Chiên giá (Cancàmànavikà), người con gái ngoại đạo Tôn đà lợi (Sundarikà) cùng các chuyện (Phật) đi khất thực bát không trở về v.v.. Thế tôn đã có những nghiệp chướng như vậy (Kàrmavarana), làm sao thành được nhất thiết chủng trí (Sarvàkàranatà)? Nếu đã thành bậc nhất thiết chủng trí rồi, thì tại sao không lìa được những lỗi ấy? 
Phật dạy: 
Hãy nghe kỹ, ta sẽ nói. Đại huệ! Ta vì Niết bàn vô dư nên mật khuyến các Bồ tát cõi này và các cõi khác, những vị tu Bồ tát hạnh mà lại cầu Niết bàn Thanh văn, mật khuyến họ xả bỏ tâm ấy siêng tu hạnh lớn. Lại biến ra Hóa Phật và các Hóa thanh văn mà thọ ký từng người, không phải pháp tính Phật làm việc thọ ký ấy. Đại huệ! Phật và nhị thừa không khác, do ở điểm rằng Phật và Thanh văn, Duyên giác đều cùng có một vị giải thoát là đoạn các hoặc chướng, không phải trí chướng (Jneyàvarana). Trí chướng thì phải thấy pháp vô ngã mới được thanh tịnh. Phiền não chướng (klesàvarana) thì khi thấy nhân vô ngã, ý thức liền xả. Ban đầu phải đoạn tập khí trong tạng thức thì sự giải thoát khỏi pháp chướng mới được vĩnh viễn thanh tịnh. Đại huệ! Ta y nơi pháp thường trú mà nói mật ngữ này, vì không khác với chư phật đời trước và đời sau, cũng nói pháp đầy đủ văn tự như thế. Đại huệ! Cái biết chân chính của như lai không có vọng niệm, không đợi tư lự suy nghĩ rồi mới nói, vì Như lai từ lâu đã đoạn bốn tập khí, (kiến, dục, sắc, hữu- DG) lìa hai chết (phân đoạn tử và biến dị tử-DG), trừ hai chướng ngại (hoặc chướng và trí chướng- DG). Đại huệ! ý (mạt na) và ý thức của năm thức căn (nhãn nhĩ tỷ thiệt thân- DG), bảy thứ do tập khí làm nhân, ấy là tính sát na, không có vô lậu thiện và cũng không chịu luân hồi. Đại huệ! Như lai tạng chính là nhân của sinh tử lưu chuyển và Niết bàn, của khổ và lạc; kẻ ngu không biết quấy chấp là không. Đại huệ! các đức Như lai biến hóa mới thường được Kim cang lực sĩ theo hộ vệ, chứ không phải các đức Phật chân thật. Như lai chân thật vượt ngoài mọi giác quan và đo lường, nhị thừa ngoại đạo không biết được, an trú nơi pháp lạc hiện hữu và đã thành tựu trí nhẫn. Bởi thế không cần được Kim cang lực sĩ hộ vệ. Tất cả hóa Phật đều không do nghiệp sinh, không phải phật cũng không phải phi Phật. Thí như thợ gốm hòa các thứ lại mà làm các đồ vật, hóa phật cũng thế; đầy đủ các tướng hiện ra để diễn nói pháp, nhưng vẫn không thể nói được cảnh giới do Thánh trí tự chứng mà có. 
Lại nữa, Đại huệ! Các kẻ phàm ngu thấy sáu thức diệt mà chấp đoạn kiến, không hiểu rõ Tạng thức thì sinh chấp thường kiến. Đại huệ! Biên giới đầu tiên của vọng tâm phân biệt vốn không tự tính, bất khả đắc. Lìa phân biệt ấy liền được giải thoát, đoạn bốn thứ tập khí, lìa hết thảy lỗi lầm. 
Bấy giờ Thế tôn lại nói bài tụng: 
Tam thừa cùng không thừa 
Không có Phật Niết bàn 
Tất thọ ký thành Phật 
Nói lìa các lỗi ác 
Thành tựu trí cứu cánh 
Cùng vô dư niết bàn 
Để dụ kẻ hèn nhát 
Theo mật ý kia nói 
Trí sở đắc của Phật 
Diễn nói đạo như thế 
Ở đây không đâu khác 
Nên phật không Niết bàn 
Các kiến, dục, sắc, hữu 
Bốn tập khí như thế 
Ý thức từ đó sinh 
Tạng, Mạt na ở đó 
Thấy ý thức, năm thức 
Vô thường nên chấp đoạn 
Mê ý, Tạng chấp thường 
Tà trí gọi Niết bàn.
CHƯƠNG VIII
CẤM ĂN THỊT 
Bấy giờ Đại huệ Bồ tát đại hữu tình lại bạch Phật rằng: 
Bạch Thế tôn! Xin vì con nói các công đức và lỗi lầm của việc ăn thịt, không ăn thịt. Con cùng các Bồ tát biết nghĩa ấy rồi sẽ diễn nói cho chúng sinh ăn thịt ở hiện tại, vị lai bị các tập khí huân tập, và khiến họ bỏ vị thịt mà cầu vị pháp, đối với hết thảy mọi loài sinh lòng đại bi, thương như thương con một, ở địa vị Bồ tát, được vô thượng chính đẳng chính giác, hoặc tạm dừng ở nhị thừa rồi cuối cùng cũng thành vô thượng chính đẳng chính giác. Bạch Thế tôn! Những bọn Thế luận khởi kiến hữu vô, chấp trước đoạn, thường mà còn cấm không cho ăn thịt, huống hồ đức Như lai Ứng chính đẳng giác, đầy lòng đại bi, thế gian đều nương cậy, mà lại tự cho phép mình và kẻ khác ăn thịt hay sao. Hay thay! Đấng Thế tôn đầy đủ đại bi thương xót thế gian, thường xem chúng sinh như con một, nguyện xin Thế tôn giải nói cho con về những lỗi lầm và ác độc của sự ăn thịt và những công đức của sự kiêng thịt, khiến con cùng các Bồ tát nghe rồi phụng hành, rộng nói cho người. 
Bấy giờ Đại huệ Bồ tát lại nói bài tụng: 
Bồ tát đại hữu tình 
Chí cầu Vô thượng giác 
Rượu thịt cùng tỏi hành 
Được ăn hay không được 
Kẻ ngu tham ăn thịt 
Hôi dơ không xiết kể 
Đồng như ác thú kia 
Làm sao mà ăn được 
Kẻ ăn có lỗi gì 
Không ăn có đức gì 
Xin nguyện đấng Thế tôn 
Vì con khai diễn hết. 
Khi ấy Phật dạy Bồ tát Đại huệ rằng: 
Đại huệ! Hãy nghe, và khéo suy nghĩ. Ta sẽ phân biệt rõ cho ông thấy. Đại huệ! Có vô số lý do khiến Bồ tát thương xót không ăn thịt, ta chỉ nói đôi phần. Đại huệ! Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay không ngừng qua lại trong sinh tử luân hồi, không khỏi có lần làm cha mẹ anh em con cái lẫn nhau, hoặc làm bà con, bè bạn, đầy tớ thân yêu... Sang đời khác họ sinh làm thân chim và thú, sao nỡ đem ăn thịt? Đại huệ! Bồ tát đại hữu tình xem chúng sinh như thân mình, nghĩ rằng thịt đều do có mạng sống mà ra, làm sao nỡ ăn? Đại huệ! Bọn quỷ la sát v.v.. nghe ta nói thế này còn bỏ ăn thịt, huống hồ những người thích pháp. Đại huệ! Bồ tát đại hữu tình ở đâu cũng xem chúng sinh là thân thuộc, cho đến nghĩ như con một của mình, nên không ăn tất cả thịt. Đại huệ! những người bán thịt ở góc đường chợ búa hoặc lấy thịt chó ngựa người trâu bò v.v.. đem bán để cầu lợi, uế tạp như thế làm sao ăn được. 
Đại huệ! Hết thảy các thứ thịt đều do máu huyết ô uế làm ra, người cầu trong sạch sao lại ăn dùng. Đại huệ! Chúng sinh khi thấy những người ăn thịt thì sợ hãi, kẻ tu từ tâm sao lại ăn thịt. Đại huệ! Những thợ săn, Chiên đà la (Càndàla), những người bắt cá, lưới chim, chó thấy thì sủa, thú vật thấy thì bỏ chạy. Tất cả chúng sinh bay trên không chạy trên đất, sống dưới nước, trông thấy những người kia đều nghĩ : "Tên ấy trông như quỷ la sát, nay đến đây chắc để giết mình." Vì lo giữ mạng sống nên chúng đều chạy tránh. Người ăn thịt cũng vậy. Cho nên Bồ tát vì tu hạnh từ không nên ăn thịt. Đại huệ! Người ăn thịt thì thân thể hôi hám dơ bẩn, tiếng ác truyền khắp, hiền thánh, người tốt không thân gần, do vậy Bồ tát không nên ăn thịt. Đại huệ! Máu thịt là thứ mà tiên thánh không dùng, nên Bồ tát không ăn thịt. Đại huệ! Lại vì muốn gìn giữ tín tâm của chúng sinh, không để họ chê bai nhạo báng Phật pháp, nên Bồ tát không ăn thịt. Đại huệ! Nếu đệ tử ta ăn thịt, thì người đời sẽ ôm lòng chê bai, nói: "Sa môn tịnh hạnh sao lại từ bỏ vị ăn của chư thiên mà cư xử như ác thú, ăn thịt đầy bụng đi khắp thế gian, khiến chúng sinh cầm thú hoảng sợ, phá hạnh thanh tịnh, lỗi đạo sa môn? Xem đấy đủ biết Phật pháp không có hạnh điều phục." Bồ tát thương chúng sinh, muốn giữ cho họ khỏi sinh tâm ấy, nên không ăn thịt. Đại huệ! Khi thịt người cháy thì hơi hôi xông lên, các thứ thịt nướng khác cũng vậy. Cũng cùng là thịt, sao lại có thứ ăn, có thứ không ăn. Cho nên những người vui đạo thanh tịnh không nên ăn thịt. Đại huệ! Các nam nữ thiện tín tu hành thanh tịnh ở dưới cây hay nơi vắng vẻ để an trú tâm từ, trì chú cầu giải thoát, hoặc cầu pháp Đại thừa, nhưng vì ăn thịt mà không đạt được các mục đích trên. Bởi thế Bồ tát muốn lợi mình lợi người không nên ăn thịt. Đại huệ! Người ăn thịt khi trông thấy thịt liền sinh lòng tham ăn ngon. Bồ tát thương nghĩ hết thảy chúng sinh như thân mình, làm sao thấy thịt mà nghĩ đến chuyện ăn được? Vì thế Bồ tát không nên ăn thịt. Đại huệ! Lại người ăn thịt thì chư thiên xa lánh, hơi miệng thường hôi, ngủ mộng bất an, tỉnh dậy lo sợ, bị ác quỷ dạ xoa hút mất tinh khí, lòng nhiều hoảng sợ, ăn không biết đủ, tăng trưởng bệnh, dễ sinh ghẻ lở, mụt nhọt, thường bị vi trùng đục khoét, không thể sinh tâm chán ghét muốn xa lìa thịt. Đại huệ! Ta thường nói : "Tỳ kheo ăn cái gì cũng nên nghĩ như ăn thịt con." Các thức ăn khác còn thế, thì sao ta lại cho phép đệ tử ăn thịt được? Đại huệ! Thịt không tốt đẹp, không sạch, làm sinh các tội ác, phá hoại các công đức, bị chư thiên, thánh nhân xa lìa, sao ta lại cho phép đệ tử ăn thịt? Kẻ nào nói ta thuận cho ăn thịt chính là phỉ báng ta vậy. Đại huệ! Thức ăn sạch là lúa gạo, đậu, đại mạch, tiểu mạch, dầu mè, ván sữa, đường. Những loại như thế đều được chư Phật quá khứ cho phép ăn. Những thứ nên ăn ta nói đây là để cho những thiện nam tín nữ trong dòng họ ta, những kẻ có đức tin thanh tịnh, đã trồng căn lành từ lâu đời, không tham trước thân mạng tài sản, xót thương hết thảy như chính thân mình. Ta nói những vật nên ăn cho những người như vậy, chứ không phải cho những kẻ có thói quen độc ác, tính như hổ lang, lòng nặng dục vọng. 
Đại huệ! Xưa có quốc vương tên Sư tử sinh (Simhasaydàsa), ưa mùi vị thịt, ăn đủ thứ thịt đến cả thịt người, thần dân không chịu nỗi nên làm phản. Cuối cùng vua phải mất nước, chịu khổ não lớn. Đại huệ! Thích đề hoàn nhân đã ở địa vị vua trời, do tập khí ăn thịt đời trước còn lại, nên biến làm chim ưng săn đuổi một con bồ câu. Ta lúc ấy làm vua tên Thi tỳ (Sivin), thương xót bồ câu nên tự cắt thịt mình để thế mạng cho nó. 
Đại huệ! Tập khí còn lại của Đế thích còn làm khổ chúng sinh, huống gì những kẻ ăn thịt thường xuyên không biết hổ thẹn. Ăn thịt đã tự hại còn hại người, vì thế Bồ tát không nên ăn thịt. Đại huệ! xưa có ông vua cỡi ngựa đi săn, ngựa sợ chạy vào núi hiểm, chốn không người ở, cũng không có lối ra. Vua gặp một sư tử cái cùng nó hành dâm sinh nhiều con. Trong số con có một trưởng giả rất giàu có tên Ban túc, về sau làm vua thống lĩnh 7 ức nhà, vì quen thói ăn thịt nên không phải thịt thì không ăn. Ban đầu ăn thú vật sau đến ăn người, sinh con trai con gái đều là quỷ la sát, chết tái sinh làm sư tử, sài lang, cọp beo, chim điêu, chim thứu v.v.. muốn cầu được thân người còn không được, nói gì đến cầu thoát sinh tử đạt Niết bàn. Đại huệ! Ăn thịt có vô lượng lỗi lầm tai hại như thế, nên chấm dứt ăn thịt sẽ được công đức lớn. Kẻ phàm ngu không biết những tổn hại của sự ăn thịt và lợi ích của không ăn. Bởi thế nay ta vì ngươi mà nói rõ. Bất cứ cái gì là thịt đều không nên ăn. Đại huệ! Người ta sát sinh phần lớn là do có người ăn thịt, nếu không người ăn thì cũng không có việc giết; bởi thế ăn thịt cũng có tội như giết. Quái lạ cho người đời tham đắm vị thịt, thịt người còn ăn huống là thịt chim thú. Vì tham ăn ngon, chúng đặt ra đủ cách giăng lưới bày bẫy khắp nơi, loài dưới nước, loài ở trên đất, loài bay trên không đều bị giết hại, nếu không tự mình ăn thì cũng đem bán để lấy tiền. 
Đại huệ! Thế gian có những kẻ không lòng thương xót, chuyên làm việc tàn bạo như quỷ la sát; khi thấy chúng sinh thân hình béo tốt là nghĩ đến thịt, và bảo "Con vật này ăn được đấy." Đại huệ! Thế gian không có thứ thịt nào không do mình giết hay người giết, lòng mình không nghi là nó bị giết (để có thể ăn được.) Do nghĩa này mà ta cho phép thanh văn ăn thứ thịt như thế. Đại huệ! Đời sau có những kẻ ngu si xuất gia trong pháp luật của ta, giảng quấy giới luật, làm loạn chính giáo, phỉ báng ta với lời nói ta cho phép ăn thịt và chính ta cũng đã từng ăn. Đại huệ! Nếu ta cho phép thanh văn ăn thịt, tức ta không phải người an trú tâm từ, người tu quán hạnh, người hành đầu đà, người đi nơi đại thừa; làm sao có thể khuyên thiện nam tín nữ nên xem chúng sinh như con một, nên dứt ăn tất cả thịt? Đại huệ! Có chỗ ta nói cho ăn ba thứ tịnh nhục, đấy là để dần dần cấm hẳn, khiến dễ tu học. Nay trong kinh này, tất cả thịt của con vật tự chết hay bị giết, đều không được ăn. Đại huệ! Ta chưa bao giờ cho phép đệ tử ăn thịt, cũng không đang cho phép, cũng không sẽ cho phép. 
Đại huệ! Tất cả sự ăn thịt đối với người xuất gia đều là bất tịnh. 
Đại huệ! Nếu có kẻ ngu si phỉ báng ta bằng cách nói Như lai cho phép ăn thịt và chính Như lai cũng đã có ăn, nên biết kẻ ấy bị ác nghiệp buộc ràng, sẽ bị đọa vào những chỗ không lợi lạc. Đại huệ! Các thánh đệ tử còn không ăn những thứ đoàn thực của phàm phu, huống gì thịt vốn là thức ăn dơ uế. Đại huệ! Thanh văn duyên giác bồ tát còn chỉ ăn pháp thực (dharmàhàra) huống gì Như lai. Đại huệ! Pháp thân Như lai không phải là thân ô tạp. Như lai đã dứt trừ hết phiền não, tẩy sạch hết tập khí, khéo thanh lọc tâm tuệ, đại bi bình đẳng quán khắp chúng sinh như con một; há lại cho phép đệ tử thanh văn ăn thịt con ta sao? Huống nữa là tự ta ăn. Nói như vậy là chuyện không có. 
Bấy giờ Thế Tôn lại nói bài tụng: 
Đều từng làm thân thuộc 
Do các uế mà thành 
Làm khiếp sợ chúng sinh
Nên không được ăn thịt 
Tất cả các loại thịt 
Hành tỏi, các thứ rượu 
Những vật bất tịnh ấy 
Người tu hành lìa xa 
Lại thường lìa dầu thoa 
Cùng giường có thủng lỗ 
Vì các côn trùng nhỏ 
Trong đó rất sợ hãi 
Ăn (thịt) sinh phóng dật 
Phóng dật sinh tà giác 
Tà giác sinh tham lam 
Bởi vậy không nên ăn 
Vì tà giác sinh tham 
Tâm bị mê vì tham 
Tâm mê tăng ái dục 
Sinh tử không giải thoát 
Vì lợi sát chúng sinh 
Lấy tiền ra mua thịt 
Cả hai đều ác nghiệp 
Chết đọa ngục gào thét 
Không thấy nghe nghi giết 
Ba thứ ấy gọi tịnh 
Vì thịt ấy không có 
Kẻ ăn ta quở trách 
Lại cùng ăn nuốt nhau 
Chết đọa vào ác thú 
Hôi dơ và si cuồng 
Bởi thế không nên ăn 
Thợ săn, chiên đà la 
Đồ tể, la sát bà 
Sinh trong các hạng ấy 
Là quả báo ăn thịt 
Đã ăn không hổ thẹn 
Đời đời bị si cuồng 
Chư Phật cùng Bồ tát 
Thanh văn đều nghi ghét 
Tượng kiếp (Hastikakshya) cùng Đại vân (Mahàmegha) 
Niết bàn, ương quật ma (angulimàlika) 
Cùng lăng già kinh này 
Ta đều bảo dứt thịt 
Trước nói kiến, văn, nghi 
Để dứt hết thảy thịt 
Vì ác tập cho nên 
Kẻ ngu vọng phân biệt 
Như tham ngăn giải thoát 
Các thịt cũng như thế 
Nếu người có ăn thịt 
Không thể vào thánh đạo 
Chúng sinh đời vị lai 
Nói ngu si về thịt 
Nói "đây tịnh không tội 
Phật cho chúng ta ăn." 
Tịnh thực còn (xem) như thuốc 
Như đói ăn thịt con 
Cho nên kẻ tu hành 
Biết lượng đi xin ăn 
Ăn thịt trái giải thoát 
Cùng trái biểu tượng thánh 
Khiến chúng sinh sợ hãi 
Cho nên không được ăn 
Kẻ an trú từ tâm 
Thường phải nên xa lìa 
Sư tử và hổ lang 
Ăn thịt sinh trong đó 
Nếu các thứ rượu thịt 
Hết thảy đều không dùng 
Sẽ sinh dòng hiền thánh 
Thịnh vượng, đủ trí tuệ.
CHƯƠNG IX
ĐÀ LA NI (Dhàranìparivatro nàma Navamah) 
Phật dạy Đại huệ Bồ tát đại hữu tình: 
Đại huệ! Chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai vì muốn ủng hộ người thọ trì kinh này, nên diễn nói chú lăng già. Nay ta cũng nói chú ấy, ông nên thọ trì. 
Liền nói bài chú: 
"Đát điệt tha, đổ tra, đổ tra, đổ tra, đổ tra, bát tra. bát tra, cát tra cát tra, a ma lệ, a ma lệ, tỳ ma lệ, tỳ ma lệ, nễ mế nế mế, hê mế hê mế, phược mế phược mế, cát lệ cát lệ, yết ra cát lệ, a tra mạt tra, chiết tra đốt tra, kỳ nhã tra tát phổ tra, cát địa, lạt địa bạt địa, hê mế, hê mế, đệ mế, chiết lệ chiết lệ, bát lị bát lị, hạn đệ tỳ đệ, án chiết mãn chế, đỗ trà rị đỗ trà rị, bát trà rị, át kế át kế, hê mế hê mế, đổ đổ đổ đổ, lổ lổ lổ lổ, đổ đổ đổ đổ, hổ đổ hổ đổ, hổ đổ hổ, ta bà ha." 
(Tadyathà tutte tutte vutte vutte patte patte katte katte amale amale vimale vimale nime nime hime hime vame vame kale kale atte matte vatte tuttle jnette sputte katte katte latte patte dime dime cale cale pace pace bandhe bandhe ance mance dutare dutare patare patare arkhe arkhe sarkhe sarkhe cakre cakre dine dine hime hime tu tu tu tu du du du du ru ru ru ru phu phu phu phu svàha) 
Đại huệ! Trong đời vị lai, nếu có người thiện nam thiện nữ thọ trì đọc tụng, vì người khác mà nói đà la ni này, nên biết những người ấy không bị tất cả người, phi nhân, quỷ thần v.v.. động tới. Nếu có người bỗng gặp chuyện dữ, mà tụng niệm cho người ấy 108 biến chú này, thì ác ma liền bỏ chạy. Đại huệ, ta lại nói cho ông Đà la ni này nữa. (Đức Phật liền nói bài chú): 
Đát điệt tha, bát đầu ma đệ bệ, bát đầu mế hế, nê hế mễ hế nê, lệ chủ la chủ lệ, hổ lệ hổ la hổ lệ, sấu lệ sấu lệ, bả lệ bả la bả lệ, sấn đệ tần đệ, bạn thệ mạt đệ, ni la ca lệ, sa bà ha. 
(Tadyathà- padma padmadeve - hime hini hine - cu cule culu cule - phale phula phule - yule ghule yula yule - ghule ghula ghule - pale pala palemunce cchinde bhinde bhannje marde pramarde dikakare svàhà) 
Đại huệ! Nếu có thiện nam thiện nữ thọ trì đọc tụng, vì người diễn nói đà la ni này, thì sẽ không bị trời, rồng, dạ xoa, nhân và phi nhân v.v.. cùng các ác quỷ thần làm hại. Ta vì muốn cấm chỉ các loài la sát mà nói thần chú này. Người trì chú này cũng như thọ trì tất cả bộ kinh Nhập lăng già vậy.
CHƯƠNG X
KỆ TỤNG - PHẦN THỨ NHẤT
Bấy giờ Thế Tôn muốn nói lại các nghĩa rộng trong tu đa la (kinh) này nên nói bài kệ: 
Các pháp không chắc thật 
Đều do phân biệt sinh 
Vì phân biệt là không 
Bị phân biệt không có 
Do hư vọng phân biệt 
Mà có các thức sinh 
Tám, chín thức các món 
Như sóng lớn trong biển 
Tập khí thường tăng trưởng (1) 
Tâm chuyển theo cảnh giới 
Như sắt với nam châm 
Tính chúng sinh sở y 
Xa lìa các suy lường 
Cùng lìa trí, sở tri 
Chuyển y đặng giải thoát 
Được như huyễn tam muội 
Siêu quá nơi thập địa 
Khi quán thấy tâm vương 
Tưởng thức đều xa lìa 
Khi tâm đã chuyển y 
Ấy gọi là thường trụ 
Ở nơi Liên hoa cung 
Khởi ra các huyễn cảnh 
Đã ở cung ấy rồi 
Tự tại không dụng công 
Lợi ích cho chúng sinh 
Như mầu ngọc ma ni 
Không hữu vi, vô vi 
Chỉ trừ vọng phân biệt 
Phàm ngu mê chấp giữ 
Như thạch nữ mộng con 
Nên biết rằng linh hồn 
Uẩn, giới, các thứ duyên 
Các kiến hữu, phi hữu 
Đều không, vô tự tính 
Ta dùng phương tiện nói 
Nhưng thật không có tướng 
Phàm phu vọng chấp giữ 
Năng tướng cùng sở tướng 
Tất cả biết cùng không 
Tất cả không tất cả 
Do phàm ngu phân biệt 
Phật không giác tự, tha 
Các pháp như mộng huyễn 
Không sinh, không tự tính 
Vì đều là tính không 
Không có, bất khả đắc 
Ta chỉ nói một tính 
Lìa nơi vọng kế chấp 
Tự tính không có hai 
Chỗ làm của các Thánh 
Như tứ đại bệnh suy 
Khắp cõi thấy hoa đốm 
Cái thấy đó không thực 
Thế gian cũng như vậy 
Như huyễn hiện các tượng 
Cây cỏ cùng ngói sỏi 
Mà thật không có gì 
Các pháp cũng như vậy 
Không năng thủ sở thủ 
Không trói không bị trói 
Như huyễn như ảo tượng 
Như mộng như hoa đốm 
Nếu muốn thấy chân thật 
Hãy lìa phân biệt, thủ 
Nên tu quán chân thật 
Tất không Phật, không nghi 
Thế gian đồng như mộng 
Sắc, của cải đều thế 
Nếu thấy được như vậy 
Là tối tôn trên đời 
Ba giới do tâm khởi 
Do mê hoặc thấy có 
Lìa vọng không thế gian 
Biết rồi chuyển nhiễm y 
Sở kiến của phàm ngu 
Vọng chấp có sinh diệt. 
Bậc trí quán như thật 
Không sinh cũng không diệt 
Thường hành "vô phân biệt" 
Xa lìa tâm, tâm pháp 
Trú trời sắc cứu cánh 
Lìa các chỗ lỗi lầm 
Nơi đấy thành chính giác 
Đủ thần thông tự tại 
Cùng các định thù thắng 
Hóa hiện nơi thành này 
Hóa thân vô lượng ức 
Du khắp hết các cõi 
Khiến ngu phu được nghe 
Như hương, khó nghĩ lường 
Xa lìa đầu, giữa cuối 
Lại xa lìa hữu, vô 
Không nhiều mà hiện nhiều 
Không động mà biến khắp 
Nói trong thân chúng sinh 
Tính chân bị che lấp 
Mê hoặc thành huyễn có 
Không phải huyễn bị mê 
Do tâm mê hoặc nên 
Hết thảy đều thành có 
Vì chúng trói buộc nhau 
Tạng thức sinh thế gian 
Như thế các thế gian 
Chỉ có giả hiện bày 
Các kiến như thác chảy 
Có ra pháp và người 
Nếu biết được như thế 
Tức là chuyển sở y 
Làm con ta đích thực 
Thành tựu pháp tùy thuận 
Do ngu phu phân biệt 
Pháp cứng, ẩm, ấm, động 
Giả danh không có thật 
Lại không tướng, sở tướng 
Thân hình và các căn 
Đều do tám vật thành 
Phàm ngu chấp sắc tướng 
Thân kia bị lao lung 
Phàm ngu vọng phân biệt 
Nhân duyên hòa hiệp sinh 
không rõ tướng chân thật 
Trôi lăn trong ba cõi 
Các chủng tử trong thức 
Hay hiện cảnh giới tâm 
Do phàm ngu phân biệt 
Vọng chấp nơi hai thủ 
Vô minh cùng ái nghiệp 
Các tâm do đó sinh 
Vì vậy ta biết rõ 
Đó là tính y tha 
Vọng phân biệt có vật 
Mê hoặc các tâm pháp 
Phân biệt kia đều không 
Mê vọng chấp là có 
Tâm bị các duyên buộc 
Sinh khởi nên chúng sinh 
Nếu xa lìa các duyên 
Ta nói không sở kiến 
Đã lìa hết các duyên 
Tự tướng và phân biệt 
Trong thân không sinh khởi 
Ta gọi là vô vi 
Tâm sở chúng sinh khởi 
Năng thủ và sở thủ 
Sở kiến đều vô tướng 
Phàm ngu vọng phân biệt 
Hiển thị A lại gia 
Tạng thức rất thù thắng 
Lìa năng thủ sở thủ 
Ta nói là chân như 
Trong uẩn không có người 
Không ngã, không chúng sinh 
Sinh chỉ là thức sinh 
Diệt chỉ là thức diệt 
Như tranh có cao thấp 
Tuy thấy mà không thật 
Các pháp cũng như vậy 
Tuy thấy mà không có 
Như thành càn thát bà 
Lại như bóng nắng lòa 
Sở kiến thường như vậy 
Trí quán không thể có 
Nhân duyên cùng thí dụ 
Lấy đó mà lập tôn 
Càn thành, mộng, vòng lửa 
Ảo tượng, ánh mặt trời 
Nơi lửa, và mao luân 
Lấy đó làm ví dụ 
Để bày nghĩa vô sinh 
Thế phân biệt đều không 
Mê hoặc, như huyễn mộng 
Thấy các loài không sinh 
Ba cõi không sở y 
Trong ngoài cũng như vậy 
Thành tựu vô sinh nhẫn 
Được như huyễn tam muội 
Cùng với Ý sinh thân 
Đủ các món thần thông 
Các lực và tự tại 
Các pháp vốn vô sinh 
Không, không có tự tính 
Mê hoặc các nhân duyên 
Nên nói có sinh diệt 
Ngu phu vọng phân biệt 
Lấy tâm hiện ra tâm 
Cùng hiện các ngoại sắc 
Mà thật không có gì 
Như định lực quán thấy 
Tượng Phật cùng khớp xương 
Phân chẻ đến đại chủng 
Giả bày ra thế gian 
Thân, tài sản, chỗ ở 
Ba pháp làm sở thủ 
Ý thủ và phân biệt 
Ba pháp làm năng thủ 
Mê hoặc cùng vọng kế 
Là phân biệt năng, sở 
Chỉ theo văn tự, cảnh 
Mà không thấy chân thật 
Hành giả lấy tuệ quán 
Các pháp không tự tính 
Khi ấy trụ vô tướng 
Hết thảy đều dứt bặt 
Như lấy mực vẽ gà 
Kẻ vô trí vọng thủ 
Thật không có ba thừa 
Phàm ngu không hiểu được 
Nếu thấy các thanh văn 
Cùng với bích chi Phật 
Đều là chỗ hóa hiện 
Của Bồ tát đại bi 
Ba cõi chỉ là tâm 
Phân biệt hai tự tính 
Chuyển y lìa nhân pháp 
Ấy tức là chân như 
Nhật nguyệt ánh đèn lửa 
Đại chủng và ma ni 
Không phân biệt tác dụng 
Chư phật cũng như vậy 
Các pháp như mao luân 
Xa lìa sinh, trụ, diệt 
Lại lìa thường, vô thường 
Nhiễm tịnh cũng như thế
Như bôi thuốc vào mắt
Thấy đất thành sắc vàng
Mà thật trong đất kia
Vốn không có tướng vàng
Kẻ ngu cũng như vậy
Tâm mê loạn vô thỉ
Vọng chấp các pháp thật
Như huyễn như ảo tượng
Nên quán một chủng tử
Cùng phi chủng đồng ẩn
Một chủng hết thảy chủng
Gọi các pháp của tâm
Các chủng tử là một
Chuyển y thành phi chủng
Bình đẳng đồng pháp ấn
Tất đều không phân biệt
Tất cả những chủng tử
Làm nhân cho các thức
Sinh các sự phiền não
Gọi là các chủng tử
Quán tự tính các pháp
Mê hoặc không bỏ đời
Tính vật vốn vô sinh
Biết rõ tức giải thoát
Bậc định quán thế gian
Các sắc do tâm khởi
Vô thỉ tâm mê hoặc
Thật không có sắc, tâm
Như huyễn và Càn thành
Mao luân và ảo tượng
Không có mà hiện có
Các pháp cũng như vậy
Hết thảy pháp không sinh
Chỉ do mê hoặc thấy
Đã do mê vọng sinh
Ngu vọng chấp có hai
Do các thứ tập khí
Sinh các làn sóng tâm
Nếu khi tập khí đoạn
Sóng tâm không còn khởi
Tâm duyên các cảnh khởi
Như tranh nương vào vách
Nếu ở giữa hư không
Làm sao mà họa được
Nếu duyên một ít phần
Khiến tâm kia được sinh
Tâm đã do duyên khởi
Nghĩa duy tâm không thành
Tính tâm vốn thanh tịnh
Cũng như hư không lặng
Đem tâm mà chấp tâm
Do tập khí không khác
Chấp trước tự tâm hiện
Do tâm mà sinh khởi
Sở kiến không ngoài tâm
Nên nói rằng duy tâm
Tạng thức gọi là tâm
Tư lương lấy làm ý
Hay rõ các cảnh giới
Ấy tức gọi là thức
Tâm thường là vô ký (avyàktra)
Ý đủ hai thứ hành
Hiện tại thức đầy đủ
Các pháp thiện, bất thiện
Tu chứng không nhất định
Các địa vào cõi nước
Vượt ra ngoài tâm lượng
An trú không quả tướng
Các sở kiến hữu, vô
Cùng với các món tướng
Đều là do phàm phu
Điên đảo vọng chấp trước
Bậc trí lìa phân biệt
Sự vật đã trái nhau
Do tâm không sắc tướng
Bởi thế vô phân biệt
Các căn đều như huyễn
Cảnh giới thì như mộng
Năng tác cùng sở tác
Hết thảy đều phi hữu
Tục đế có tất cả
Đệ nhất nghĩa tuyệt không
Vô tính của các pháp
Gọi là đệ nhất nghĩa
Trong chỗ vô tự tính
Nhân vì các ngôn thuyết
Nên có các vật khởi
Ấy gọi là tục đế
Nếu không có ngôn thuyết
Các vật khởi cũng không
Trong tục đế không có
Chỉ có lời, không sự
Pháp điên đảo hư vọng
Thật ra không có gì
Nếu đảo là thật có
Thì vô không tự tính
Vì hữu không có tính
Mà pháp điên đảo kia
Hết thảy các vật có
Đều là bất khả đắc
Ác tập huân nơi tâm
Hiện ra đủ các tướng
Mê hoặc nói ngoài tâm
Vọng thủ các sắc hình
Phân biệt vốn là không
Nên phân biệt đoạn được
Vô phân biệt sẽ thấy
Thật tính, chứng chân không
Vô minh huân nơi tâm
Nên thấy các chúng sinh
Như các voi ngựa huyễn
Cùng cây lá và vàng
Như kẻ bị đau mắt
Mê hoặc thấy mao luân
Phàm phu cũng như vậy
Vọng thủ các cảnh giới
Phân biệt, sở phân biệt
Cùng người khởi phân biệt
Chuyển, sở chuyển, nhân chuyển
Do đó sáu giải thoát
Do nơi vọng kế nên
Không địa, không các đế
Lại không có sát độ
Hóa Phật và nhị thừa
Tâm khởi hết thảy pháp
Hết thảy xứ và thân
Tâm tính thật vô tướng
Vô trí thủ các món
Phân biệt mê hoặc tướng
Gọi là y tha khởi
Trong tướng có các tên
Ấy là vì vọng kế
Các duyên pháp hòa hợp
Phân biệt thành danh, tướng
Tất cả đều không sinh
Gọi là Viên thành thật
Mười phương các sát độ
Trong chúng sinh, Bồ tát
Bao nhiêu pháp, Báo Phật
Hóa thân cùng biến hóa
Đều từ cực lạc giới
Của Di đà mà ra
Ở trong kinh Phương quảng
Nên biết nghĩa bí mật
Những gì Phật tử nói
Cùng của Đạo sư dạy,
Đều do Hóa thân nói
Không phải Thật Báo Phật
Các pháp không từng sinh
Cũng không phải không có
Như huyễn, lại như mộng
Như hóa, như Càn thành
Các pháp do tâm khởi
Các pháp do tâm thoát
Tâm khởi không cách khác
Tâm diệt cũng như thế
Vì chúng sinh phân biệt
Các tướng hư vọng hiện
Duy tâm thật không cảnh
Lìa phân biệt, giải thoát
Do phân biệt, hí luận
Tích tập từ vô thỉ
Vì các ác tập huân
Khởi cảnh hư vọng này
Các pháp đều không sinh
Do tự tính vọng kế
Y chỉ nơi duyên khởi
Chúng sinh mê phân biệt
Phân biệt không tương ưng
Thì y tha cũng dứt
Sở trú rời phân biệt
Chuyển y tức chân như
Chớ vọng kế hư vọng
Vọng kế tức không thật
Mê hoặc vọng phân biệt
Năng, sở thủ đều không
Phân biệt thấy ngoại cảnh
Ấy là tính vọng kế
Do hư vọng kế ấy
Duyên khởi tự tính sinh
Tà thấy các ngoại cảnh
Không cảnh chỉ do tâm
Quán sát đúng như lý
Năng, sở thủ đều diệt
Cảnh ngoài thật không có
Tập khí nhiễm ô tâm
Mà chuyển có tợ cảnh
Khi diệt hai phân biệt
Trí tịnh thuộc chân như
Khởi ra cảnh vô ảnh
Cảnh thánh khó nghĩ bàn
Do cha mẹ hòa hiệp
Như gia ua trong bình
A lại gia, ý đủ
Khiến tăng trưởng xích, bạch
Bế thi (pesì) và Trù bào (Ghanàrbuda)
Các thứ uế nghiệp sinh
Gió nghiệp tăng bốn đại
Sinh ra như trái chín
Năm cùng năm và năm
Sang khiếu có chín lỗ
Móng, răng, lông đầy đủ
Đủ rồi bèn sinh ra
Mới sinh như phân trùng
Lại như người tỉnh ngủ
Mắt mở ra thấy sắc
Phân biệt dần tăng trưởng
Phân biệt quyết xong rồi
Các môi răng hòa hiệp
Bắt đầu phát nói năng
Như giống chim anh vũ
Thuận chúng sinh ý lạc
Ta lập ra đại thừa
Không phải chỗ ác kiến
Ngoại đạo không thể thọ
Thừa do ta tự chứng
Không thể suy lường được
Sau khi Phật diệt độ
Xin nói ai thọ trì
Đại huệ! Ông nên biết
Sau khi ta Niết bàn
Đời vị lai sẽ có
Kẻ thọ trì pháp ta
Trong xứ Nam Ấn độ
Tỳ kheo danh đức lớn
Quyết hiệu là Long thọ
Hay phá luận hữu, vô
Trong thế gian làm rõ
Vô thượng đại thừa ta
Được sơ hoan hỉ địa
Vãng sinh xứ an lạc
Trong nghĩa lý duyên khởi
Hữu vô đều không thành
Trong duyên tưởng tượng vật
Phân biệt ra có, không
Kiến ngoại đạo như vậy
Xa lìa pháp của ta
Danh tự của các pháp
Đã nối nhau nhiều đời
Tập (khí) quá khứ, hiện tại
Xoay vần cùng phân biệt
Nếu không nói ra tên
Tất thế gian mê hoặc
Vì muốn trừ mê hoặc
Nên lập ra danh ngôn
Kẻ ngu phân biệt pháp
Mê hoặc nơi danh tự
Mê hoặc các duyên sinh
Ấy là ba phân biệt
Chấp bất sinh bất diệt
Tự tính như hư không
Tự tính vốn không có
Đấy là tướng vọng kế
Như huyễn, bóng, ảo tượng
Mộng, bóng gương, vòng lửa
Như tiếng vang, Càn thành
Ấy là y tha khởi
Chân như, không, bất nhị
Thật tế cùng pháp tính
(Bhùtakoti, Dharmatà)
Đều không có phân biệt
Ta nói là viên thành
Ngữ ngôn thuộc về tâm
Hư vọng sa nhị biên
Tuệ phân biệt thật đế
Là tuệ không phân biệt
Nơi người trí mới hiện
Nơi người ngu không hiện
Cái hiện nơi trí ấy
Hết thảy pháp không tướng
Như chuỗi đeo vàng giả
Kẻ ngu cho là vàng
Các pháp cũng như vậy
Ngoại đạo vọng suy lường
Mọi pháp vô thủy chung
Ở nơi tướng chân thật
Thế gian đều vô tác
Vọng kế không hiểu được
Các pháp trong quá khứ
Vị lai cùng hiện tại
Hết thảy pháp như thế
Tất cả đều không sinh
Do các duyên hòa hợp
Nên nói có các pháp
Nếu lìa sự hòa hợp
Không sinh cũng không diệt
Mà các pháp duyên khởi
Một, khác đều không có
Lược nói là không sinh
Nói rộng là không diệt
Một đằng "bất sinh không"
Một đằng là "sinh không"
Bất sinh không là thắng
Sinh không tất diệt hoại
Chân như, không, thật tế
Niết bàn cùng pháp giới
Các thứ ý sinh thân
Ta nói là dị danh
Nơi các kinh luật luận
Khởi phân biệt về tịnh
Nếu không hiểu vô ngã
Là theo lời, không nghĩa
Chúng sinh vọng phân biệt
Sở kiến như sừng thỏ
Phân biệt tức mê hoặc
Như thú khát đuổi bóng
Do nơi vọng chấp trước
Mà khởi ra phân biệt
Nếu lìa nhân vọng kế
Tức không khởi phân biệt
Đại phương quảng sâu xa
Biết các cõi tự tại
Ta vì Bồ tát nói
Không phải vì thanh văn
Ba cõi không, vô thường
Xa lìa ngã, ngã sở
Ta vì các Thanh văn
Nói tổng tướng như thế
Không trước hết thảy pháp
Đi một mình tịch tịnh
Tư niệm Bích chi quả
Ta vì duyên giác nói
Thân là y tha khởi
Mê hoặc không tự thấy
Phân biệt tự tính ngoài
Mà khiến tâm vọng khởi
Nhờ chứng, nhờ gia trì
Do sinh vào các loài
Do có được trong mộng
Ấy bốn thứ thần thông
Thần thông được trong mộng
Cùng do oai lực Phật
Hay do sinh các loài
Đều không phải "báo đắc"
Do tập khí huân tâm
Nên bóng tợ-vật khởi
Kẻ phàm ngu chưa hiểu
Cho nên nói là sinh
Do nơi vọng phân biệt
 Khi còn thấy ngoại tướng
Thì còn tăng thêm vọng
Vì không thấy tâm mê
Vì sao nói có sinh
Mà không nói sở kiến
Khi không vật mà thấy
Nói cho ai? Vì sao?
Thể tâm vốn thanh tịnh
Ý cùng với các thức
Do tập khí thường huân
Mà làm các uế loạn
Tạng thức xa lìa thân
Ý bèn tìm đường nẻo
Thức bày tợ cảnh giới
Thấy rồi tham nắm giữ
Sở kiến đều do tâm
Ngoại cảnh bất khả đắc
Nếu tu quán như thế
Xả vọng đạt chân như
Cảnh giới của định chứng
Nghiệp cùng oai lực Phật
Ba thứ bất tư nghì
Chỗ khó lường của trí
Quá khứ, vị lai, ngã
Hư không cùng Niết bàn
Ta tùy thế tục nói
Chân đế lìa văn tự
Nhị thừa cùng ngoại đạo
Cùng y chỉ các kiến
Mê hoặc lý duy tâm
Vọng phân biệt ngoại cảnh
La hán, Bích chi Phật
Cùng với trí giác Phật
Chủng tử đã thành tựu
Mộng thấy Phật quán đảnh
Huyễn tâm tịch tịnh đến
Vì sao nói hữu vô
Ở đâu, nói cho ai?
Cớ gì, nguyện Phật giải
Vì kẻ mê duy tâm
Ta nói huyễn, hữu, vô
Khi sinh, diệt tương ưng
Tướng sở tướng bình đẳng
Ý thức tên "Phân biệt"
Cùng với năm thân thức
Như bóng hình trôi chảy
Từ tâm khởi chủng tử
Nếu tâm cùng với ý
Các thức thân không khởi
Thì được ý sinh thân
Lại được đến Phật địa
Các duyên cùng uẩn, giới
Tự tướng của nhân, pháp
Đều do tâm bày ra
Như mộng cùng mao luân
Quán thế gian huyễn mộng
Y chỉ nơi chân thật
Chân thật lìa các tướng
Lại lìa nhân tương ưng
Cảnh chứng của bậc thánh
Thường trú nơi vô niệm