Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Giặc phiền não thường luôn rình rập giết hại người, độc hại hơn kẻ oán thù. Sao còn ham ngủ mà chẳng chịu tỉnh thức?Kinh Lời dạy cuối cùng
Ðêm dài cho kẻ thức, đường dài cho kẻ mệt, luân hồi dài, kẻ ngu, không biết chơn diệu pháp.Kinh Pháp cú (Kệ số 60)
Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận? Khổ nào sánh khổ uẩn? Lạc nào bằng tịnh lạc?Kinh Pháp Cú (Kệ số 202)
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Người hiền lìa bỏ không bàn đến những điều tham dục.Kẻ trí không còn niệm mừng lo, nên chẳng bị lay động vì sự khổ hay vui.Kinh Pháp cú (Kệ số 83)
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Người cầu đạo ví như kẻ mặc áo bằng cỏ khô, khi lửa đến gần phải lo tránh. Người học đạo thấy sự tham dục phải lo tránh xa.Kinh Bốn mươi hai chương
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê. Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hènKinh Pháp cú (Kệ số 29)

Trang chủ »» Kinh Bắc truyền »» Bồ Tát Bổn Hạnh Kinh [菩薩本行經] »» Bản Việt dịch quyển số 3 »»

Bồ Tát Bổn Hạnh Kinh [菩薩本行經] »» Bản Việt dịch quyển số 3


» Tải tất cả bản dịch (file RTF) » Hán văn » Phiên âm Hán Việt » Càn Long (PDF, 0.5 MB) » Vĩnh Lạc (PDF, 0.61 MB)

Chọn dữ liệu để xem đối chiếu song song:

Kinh Bồ Tát Bản Hạnh

Kinh này có 3 quyển, bấm chọn số quyển sau đây để xem:    1 | 2 | Quyển cuối
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@rongmotamhon.net

Đại Tạng Kinh Việt Nam
Font chữ:

Khi Đức Như Lai nói lời chân chánh vi diệu như vậy, thì đám quỷ gây bệnh tật đều chạyvề hướng nước Ma-kiệt-đà, nhờ vậydịch bệnh trong nướcTỳ-xá-ly đều được tiêu trừ. Đức Phật phải quay trở về nước Ma¬kiệt-đà, thì đám quỷ gây bệnh tật ấylại chạy sang nướcTỳ-xá-ly. Do đó, Đức Thế Tôn phải qua lại hai nước đếnbảylần, cuối cùng lại nói:
-Ta từ vô số kiếp đến nay, tạo được bao nhiêu công đức, đều nhằm để phát đại nguyện. Nay Ta đem việc làm chân chánh này để trừ tâm bệnh và thân bệnh cho tấtcả chúng sinh.
Đức Phậtkể:
-Khi Ta làm vua tên là Thi-tỳ, vì một con bồ câu mà tự cắt thịt trên thân mình, Ta đã phát lời thệ nguyện trừ diệttậnmọi nguy hiểm cho tất cả chúng sinh.
Khi Ta làm thái tử tên là Ma-ha-tát-đỏa, vì hai mẹ con cọp đói mà ta xả bỏ thân mạng cho cọp đượcsống.
Khi Ta làm vua tên là Xá-thi, tự lấy thịtnơi thân mình hiến cho ngườibệnh trải qua mười hai năm.
Khi Ta làm vua tên là A-di-đà-da-lương, bị bệnh, tự chế thuốc để uống, lúc ấycó mộtvị Bích-chi-phậtmắcbệnh đồng như nhà vua, đến chỗ nhà vua xin thuốc. Nhà vua nhịn không uống thuốc, đem phần thuốc của mình cúng cho Bích-chi-phật, rồi phát đại nguyện: Nguyện cho tấtcả bệnh chúng sinh đều được diệt trừ.
Khi Ta làm vua tên là Tu-đà-tố-di, Ta cứu đượcmạng sống cho một trăm vua sắp chết và đãcải hóa vua Ca-ma-sa-bạt khiến ông ta đạt được chánh kiến, lời thề ác của Ca-ma-sa-bạt trong mười hai năm đều được tiêu trừ.
Khi Ta làm thái tử tên là Tu-đại-noa đã đem bố thí cả vợ lẫn hai con.
Khi Ta làm thái tử Ma-hưu-sa-đà, đã đem thuốc chữabệnh cho tấtcả chúng sinh, lại vào trong biểnlớn tìm được ngọc Ma-ni, đem về giúp đỡ cho dân chúng khỏicảnh đói nghèo.
Khi Ta làm vua tên là Ma-ha-bà-lợi, trải qua hai mươibốn ngày đem thịt thân mình cung cấp cho ngườibệnh.
Khi Ta làm Tiên nhân tên là San-đề-bà-la bị cắt đứt tay chân mà tâm không hề khởi sân hận.
Khi Ta làm vua tên là Ca-thi, dân chúng trong nướcbị tậtbệnh, nhà vua thọ bát quan trai giới, phát tâm đạitừ bi đếntấtcả chúng sinh, nên tất cả dân chúng trong nước đều được lành bệnh.
Khi Ta làm thầy giải trừ chú thuật tên là Tỳ-bà-phù, dân chúng bị bệnh dịch hoành hành, ta đem máu thịtcủa mình cho loài quỷ gây bệnh ăn để dùng vào việc giải trừ,tấtcả dân chúng đều được lành bệnh.
Khi Ta làm Phạm thiên vương, vì một bài kệ, đãtự lột da trên thân mình làm giấy chép kệ.
Khi Ta làm vua tên là Tỳ-lăng-kiệt-lê, vì một bài kệ, trên thân chịu đóng một ngàn đinh.
Khi Ta làm Tiên nhân tên là Ưu-đa-lê, vì một bài kệ mà Ta tự lột da làm giấy, chẻ xương làm viết, lấy máu làm mực.
Khi Ta làm vua tên là Bạt-di, dân chúng trong nướcbị bệnh ghẻ lở, nhà vua đang đi, thấymột cây độc, lá cây độc này rụng vào dòng nước, người nào uống nhằmnước ấy thì sinh ra bệnh. Nhà vua liền ralệnh chặt cành, đào gốcrễ rồi dùng lửa đốtrụi,thì mộtnửa dân chúng được lành bệnh, còn mộtnửa thì bệnh vẫn như cũ, không thuyên giảm. Vua hỏi quan ngự y:
-Vì cớ gì mộtsố dân chúng mắcbệnh không bớt?
Quan ngự y đáp:
-Bệnh ghẻ này quá trầm trọng cần ăn cá mớibớt.
Vua nghe lời quan ngự y, liền đến trên cây bên bờ sông, nguyện làm cá, nguyệnrằng:
-Ta ngày nay đem thân trừ bệnh cho muôn loài, nguyện đem công đức này cầu thành Phật đạo, để diệt trừ vô lượng tâmbệnh, thân bệnh cho khắptấtcả chúng sinh, đều như sở nguyện. Nếu có chúng sinh nào được ăn thịtcủa ta, thì tấtcả bệnh tật đều được lành khỏi.
Phát lời thệ nguyệnrồi liềntừ trên cây gieo mình xuống dòng nước, thân nhà vua biến thành cá, biết nói tiếng người. Cá nói:
-Hễ ai có bệnh, đếnbắt cá này vềăn thịtsẽ được lành bệnh.
Dân chúng nghe lời nói ấy, đều đếnbắt cávềăn thịt, nhờ vậytấtcả bệnh đều được lành hết.
Đức Thế Tôn đãtự kể về việc làm nơi đời trướccủa mình như vậy, tấtcả những lời nguyện ấy ngày nay đều được thành tựu. Đức Phật nói:
-Nay Ta dùng giáo pháp chân chánh để trừ diệt tai họa cho tấtcả chúng sinh. Khi ấy, Đức Phật liềntự hóa một thân thành hai đầu, một đầu ngó về nướcTỳ-xá-ly, một đầu ngó về nước Ma-kiệt-đà, tấtcảđám quỷ gây bệnh đều chạyra xa tận biển khơi. Dân chúng hai nước, mọi thứ tật bệnh đều được lành khỏi, lúa thóc hoa màu được mùa, muôn dân an lạc. Ngài đem Phật pháp giáo hóa, khiếnmọi tâm bệnh dụcvọng nơimọi người đều được thanh tịnh, trụ trong chánh pháp, tấtcả người dân đềuhết sức vui mừng.
Lúc đó, các vị Tỳ-kheo khác miệng đồng lời cùng tán thán:
-Công đức Như Lai thậtlàvô lượng, vô cùng vi diệu không thể nghĩ bàn.
Đức Phậtlạibảo chư vị Tỳ-kheo:
-Ta chẳng những trừ diệt những taihọa, đói khát, bệnh tật cho chúng sinh trong đời nay, mà trong thời quá khứ cũng lại như vậy.
Về thời quá khứ vô số kiếp xaxưa, tại cõi Diêm-phù-đề nàycó vị vua của mộtnướclớn tên là Phạm thiên, tám vạnbốn ngàn vua tiểu quốc thuộc cõi Diêm-phù-đề. Nhà vua có hai vạn phu nhân, mộtvạn thể nữ,lại không có thái tử. Ngày đêm ưusầu, nên cầu khNnnơi các đền thờ thần linh: Phạm thiên, Đế Thích, Ma-ha Bá-lê thiên, cầu trời đất, cầumặt trăng, mặt trời. Nhân đómới sinh được thái tử. Thái tử sinh ra, hình dung đoan nghiêm, đẹp đẽ lạ thường, có tướng đại nhân, quý danh là ĐạiTự Tại Thiên. Thái tử là người nhân từ, thông minh, trí tuệ,tấtcả sách vở của thế gian, mọisự chuyển biếncủa tinh tú, nhật thực, nguyệt thựcvà tấtcả kỹ thuật ngoài đời không một nghề nào là không thông đạt. Thái tử lại học nghề thầy thuốc và cách bào chế dược phẩm, lại ra lệnh cho tấtcả bệnh nhân trong nước: “Hễ ai có bệnh thì hãy đến đâyta sẽ cung cấp thuốc men, thực phẩm và chăm sóc.” Dân chúng được tin này, bao nhiêu ngườibệnh đều đổ xô về chỗở của thái tử.Tấtcả ngườilớn, kẻ nhỏ trong nước đều vui vẻ, không một ai là không ca ngợi công đức này. Bệnh nhân không đến các thầy thuốc khác, trong đó có mộtsố thầy thuốctỏ ra khinh mạn, hầuhết đám này đều ôm lòng oán hận, ganh tỵ với thái tử.
Thời gian này, dân chúng cõi Diêm-phù-đề bị bệnh dịch lan tràn, lại thêm cảnh củi quế gạo châu. Nhà vua đãtập trung tấtcả danh y mà không chữa khỏibệnh, dân chúng bị bệnh chếttừng ngày, từng ngày tăng lên rất nhiều. Nhàvua rất đỗi ưusầu, bèn ra chiếu chỉ mời các danh y về triều để hỏi phương thuốccứu chữa.
Lúc ấy, có một thầy thuốcsẵn lòng đố kỵ với thái tử, trong tâm suy nghĩ: “Thái tử này là oan gia của ta, nay đúng là gặpdịp may hiếm có”, liền tâu lên nhà vua:
-Thần nhớ có một phương thuốc xin thử về xem lại cho tường tận.
Nhà vua đồng ý, ông taliền đi, sáng hôm sau mới trở lại, đến trước đạivương tâu:
-Tâu đạivương, thần tìm đượcmột phương thuốc, nếu như đại vương đồng ý thì tấtcả bệnh tật đều được trừ lành.
Vua liềnhỏi:
-Phảicần những dược liệu gì? Khanh cứ nói thử xem!
Thầy thuốc đáp:
-Phải tìm cho đượcmột ngườitừ khi sinh ra cho đến ngày nay luôn đầy lòng Từ bi, thương xóttấtcả chúng sinh và chưa bao giờ khởi tâm sân hận, sẽ dùng máu của người ấy hòa với thuốc để uống, móc hai tròng con mắtcủa người ấy để trừ quỷ, thì các chứng bệnh mớihết được.
Nhà vua bảo:
-Con ngườitừ khi mới sinh cho đến hôm nay chưatừng sinh tâm sân hận, đâylà việc khó có, việc này thật khó vô cùng, có lẽ không thể nào tìm được đâu!
Thái tử nghe lời nói như vậy, liền tâu phụ vương:
-Việc này dễ thôi, không có gì là khó cả!
-Con là con của phụ vương, từ khi sinh ra cho đến ngày nay chưa từng khởi tâm sân hận và cũng không hề có tâm độc ác đốivớitấtcả mọi người, luôn đem lòng Từ bi thương xót tấtcả chúng sinh, từ trướctới giờ chưa có một niệm ác. Thân con vô thường không có gì bền chắc, chẳng bao lâu rồicũng dẫn đến cái chết. Cúi xin đạivương đồng ý đem thân con làm thuốc để trừ bệnh cho chúng sinh.
Vua cha liền than:
-Ta không có con cái, đicầu thần linh nơi các đền thờ thầnmặt trời, mặt trăng, thần tinh tú, năm đỉnh núi cao, bốn quả núi lớn, do đómới sinh được con. Ta nay dầubỏ thân mấtnước, nhất định không chịu theo ý con được.
Thái tử lại nài nỉ phụ vương:
-Con nay cầu Phật đạo, đemmáu bố thí cho chúng sinh, nguyện đem công đức này để hiểu rõ tấtcả kinh điểncủa Như Lai. Con nay đem. nhục nhãn này bố thí cho chúng sinh, nguyện đem công đức ấy để được con mắt trí tuệ của Như Lai, con sẽ vì tấtcả chúng sinh nguyện làm bậc Đạo sư chân chánh. Đạivương tuy không còn thái tử mà vẫn được làm vua. Giả sử quốc độ này không có muôn dân thì phụ vương làmvua với ai? Còn như tấtcả dân chúng được lành bệnh, phụ vương tấtsẽ trút khỏinỗi ưusầu.
Nhà vua lại buồn khóc nói với thái tử:
-Ta nay thà bỏ ngôi vua chứ đứa con đáng yêu quý này thật không thể bỏ.
Thái tử lại quỳ mọp, chắp tay thưa:
-Con nay dốccầu đạo quả Vô thượng Chánh chân. Nếu như luyến tiếc cái thân nhơ nhớp hôi thối này, thì làm sao tỏ ngộ được giáo pháp cao sâu vi diệu trí tuệ của Như Lai! Làm sao có thể đạt đượctấtcả tuệ nhãn! Cúi xin phụ vương chớ khướctừ tâm cầu đạo vô thượng của con.
Phụ vương imlặng không nói mộtlời. Ông thầy thuốc liền tâu:
-Thần thử lấymột ít máu hòa với thuốc đemcho các bệnh nhân uống, nếu lành bệnh rồimới móc mắt. Nếu chẳng lành thì chẳng nên móc mắt.
Khi ấy, thái tử tự tay chích máu nơi cánh tay mình và phát lời thệ nguyện:
-Ta dùng máu này quyết trừ bệnh cho chúng sinh, nguyện đem công đức này để thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh chân. Nếu quả thật ta sẽ thành Phật đạo, thì tấtcả chúng sinh uống thuốc này bệnh sẽ được diệt trừ.
Tên thầy thuốc liền đemmáu hòa với thuốc cho các bệnh nhân uống, tấtcả đều được lành khỏi.
Thầ thuốclại tâu với đạivương:
-Bấtcứ bệnh nhân nào uống thuốc này đều được lành mạnh. Đại vương thấy việc rõ ràng trướcmắt, có thể không tin sao?
Bấy giờ, tám vạnbốn ngàn chư hầu cùng thần dân cả cõi Diêm-phù-đề, nghe thái tử của đạivương vì lòng Từ bi nhằmcứu giúp tấtcả muôn dân mà móc hai tròng mắt, không một ai là không buồn khóc, nên tấtcả đềutậphợp trướcmặt thái tử, quỳ mọp chắp tay thưa:
-Cúi mong thái tử của đạivương, suy xét, chúng tôi thà tự xả bỏ thân mạng, chẳng nỡ để thái tử hủy hoại hai mắt. Lòng từ bi thương xót chúng sinh của thái tử cũng đủ công đức để chẳng bao lâu sẽ thành Phật, mong thái tử chớ hủy hoại hai mắt.
Thái tử liền dùng lời an ủitấtcả chư hầu và thần dân:
-Ta nay đem máu thịt, cho đến hai con mắt này để quyết trừ bệnh cho chúng sinh, nguyện đem công đức này cầu thành Phật đạo. Khi ta thành Phậtsẽ quyết trừ tâm bệnh, thân bệnh cho các vị, chớ nên cản ngăn tâm vô thượng đạocủa ta.
Chư hầu cùng tấtcả thần dân nghe thái tử nói lời quả quyết như vậy, đều đứng lặng thinh.
Thái tử bèn sai quan hầucận đem dụng cụ để mình khoét mắt. Thái tử bảo quan hầucận:
-Ai là người có thể khoét giùm mắt ta?
Quan tả hữu cùng dân chúng thảy đềutừ chối, không đủ can đảm làm việc này. Tên thầy thuốcvới ganh tỵ với thái tử liền lên tiếng:
-Tôi có thể làm được.
Thái tử hoan hỷ nói:
-Ta rất sung sướng!
Rồicầm dao đưa cho thầy thuốcvà dặn:
-Khoét tròng con mắt và đặt vào trong lòng bàn tay ta đây.
Tên thầy thuốc liền khoét một tròng con mắt, đặt vào bàn tay thái tử.
Khi đó, thái tử lập nguyện:
-Ta nay đem nhục nhãn này bố thí cho chúng sinh, chẳng cầu được làm Chuyển luân thánh vương, chẳng cầu làm Ma vương, chẳng cầucảnh vui nơinămdụcsắc, thinh, hương, vị, xúc của Phạmvương. Nguyện đem công đức này cầu thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh chân, để ta được đầy đủ mắt trí tuệ, vìvô lượng chúng sinh khắpmười phương làmbậc Đạiyvương, trừ diệt tâm bệnh, thân bệnh cho tấtcả muôn loài, làm con mắt trí tuệ cho họ.
Thái tử phát nguyệnrồi, cầm tròng mắt đặt lên chiếc án kề bên. Thái tử nói tiếp:
-Đúng như sở nguyệncủa tâm ta, thì tấtcả chúng sinh đều được lành bệnh.
Phụ vương và mẫuhậu thấycảnh như thế, liền ngã xỉu, chết giấc, giây lâu mớitỉnh. Chư hầu, thần dân đềucất tiếng kêu khóc thảm thiết cảm động đến đất trời, có ngườitựđánh đập vào thân mình, hoặc có người hôn mê, chết giấc.
Ngay lúc tên thầy thuốccầm dao khoét tròng mắtcủa thái tử, thì khắp cõi Tam thiên đại thiên chấn động dữ dội, tấtcả chư Thiên trong ba cõi đều giáng hạ, thấyBồ-tát vì chúng sinh mà tự khoét mắt cùng chích máu mình, nên vô số chư Thiên tấtcả đều buồn khóc, nướcmắt tuôn rơi như trậnmưalớn.
Trời Đế Thích bèn đến trướcmặt thái tử thưa:
-Lòng từ bi của thái tử hôm nay, vì chúng sinh nên không tiếc thân mạng, khoét mắtlấy nhục nhãn. Sựđau khổ như vậy thật là khó làm. Vậy thái tửđem việc làm công đức đó nhằmcầu nguyện những gì? Phải chăng là cầu Thiên đế, Mavương, Phạmvương, Vương tử hay cầu nguyện những gì khác chăng?
Thái tửđáp:
-Ta chẳng cầu ngôi vị Chuyển luân thánh vương, Thiên đế, Ma vương, Phạmvương, chẳng cầucảnh vui nơinămdụcsắc, thanh, hương, vị, xúc trong ba cõi, chỉđem công đức này cầu đạo quả Vô thượng Chánh chân. Vì tấtcả chúng sinh làm bậc Đạiyvương, trừ tâm bệnh, thân bệnh cho tấtcả muôn loài, làm con mắt trí tuệ dẫndắt, để tấtcả chúng sinh đều lìa tai họa sinh tử.
Trời Đế Thích cùng tấtcả chư Thiên đồng ca ngợi:
-Lành thay! Lành thay! Hếtsức to lớn, khó có gìsánh bằng! Như sở nguyện ấy, chẳng bao lâu tấtsẽ thành Phật.
Trời Đế Thích bèn lấy tròng mắt đặtlạinơi con mắt đãbị khoét, tức khắcmắt thái tử bình phục như xưa, lại sáng đẹpgấpbộilần con mắtcũ. Vô lượng chư Thiên dùng hoa trờirải trên người thái tử, không ai là không vui mừng. Phụ vương, mẫuhậu, cùng thể nữ và các tiểuvương, thần dân đều vô cùng vui mừng, hớnhở.
Trời Đế Thích lại sai đạitướng quân Tỳ-ba-đan-ma đuổi các loài quỷ gây bệnh trở về tận biểncả.Mọi ngườibị bệnh đều khỏi. Trời Đế Thích liềnmưa các thức ănuống, kế đếnmưa lúa gạo, rồimưay phục, rồi tiếpmưabảy báu. Tấtcả bệnh nhân đều được lành mạnh, mọi người no đủ, không ai bịđói khát, dân chúng vui mừng, quốc gia hưng thịnh.
Sau đó vài năm, vua chabăng hà, thái tử lên ngôi hoàng đế ngự tại chánh cung, bảy thứ quý báu tự nhiên hiện đến, làm vị Chuyển luân thánh vương trị vì bốn châu thiên hạ, không một ai là chẳng nhờ ân.
Công đứccủa việc làm ấy đời hiệntại đã được phước báo như vậy.
Đức Phậtbảo các vị Tỳ-kheo:
-Thái tử Tự Tại Thiên lúc ấy là thân Ta ngày nay, phụ vương Phạm thiên nay là phụ vương Bạch Tịnh, mẫuhậu nay là mẫuhậu Ma-da, mẹ của Ta, tên thầy thuốc khoét mắt Ta nay là Điều-đạt, dân chúng cõi Diêm-phù-đề thời đó là dân chúng hai nướcTỳ-xá-ly và Ma-kiệt-đà. Ta lúc ấycũng trừ hoạnnạn, bệnh tật, đói khát cho muôn dân. Ta nay cũng tận trừ tâm bệnh, thân bệnh cho chúng sinh, cũng khiến cho chúng sinh đượcmắt trí tuệ,lập nguyện, chứng đạo.
Bồ-tát làm việcbố thí siêng năng khổ nhọc hoàn toàn không chấp tướng như thế.
Bấy giờ, các vị Tỳ-kheo nghe lời Đức Phậtdạy, đều hoan hỷ lễ Phật.
** *
Nghe như Vầy:
Một thuở nọ Đức Phật ở tại khu lâm viên Kỳ-đàcấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ. Đức Phật cùng một ngàn hai trămnămmươivị Sa-môn sắp vào thành khất thực.
Khi Đức Phậtsắp vào thành, có năm trămvị trời phóng làn gió thơm thổi trên mặt các đạilộ và những đường hẻm trong thôn xóm, nên tấtcả đều đượcsạch sẽ. Những nơibấttịnh, nhơ nhớp, phân uế hôi thối đềutự nhiên vùi lấp vào lòng đất, tấtcả đường sá đều thoáng sạch. Năm trămvị trời tuôn mưabằng những giọtnước thơm, nên mọi đường sálớn nhỏ đều được thấm ướt, cùng tung rải các hoa trời. Nhà vua, thần dân thấy điềm lành này, biết là Đức Phậtsắp đến,nên mọi người đềubỏ các công việc của mình đang làm, cùng nhau chạy nhanh đến nghênh đón Đức Thế Tôn. Trong sốdân chúng đến diện kiến Đức Phật, có người quét đường, có ngườirải hoa, có người xông hương, có ngườicởi áo trảinơi đất, có người xõa tóc trải trên mặt đường, mong Đức Phật giẫm trên đó mà đi qua. Có người đem thân nằmrạp trên đất mong được Đức Phậtbước qua trên thân mình, có ngườicầm phướnlọng, có người trỗi nhạc. Mọi người đều chắp tay, nhứt tâm thanh tịnh chiêm ngưỡng Đức Như Lai. Tấtcả chúng sinh, mỗi người đều đem mỗi thứ để cúng dường Đức Thế Tôn.
Khi ấycó một người dòng Bà-la-môn quá nghèo, không có hoa hương để cúng dường Đức Điều Ngự,tự lấy làm buồn, dù đã nghĩ đủ cả trăm phương, chỉ còn một việc là nhứt tâm tịnh ý chiêm ngưỡng mà thôi! Liền thể hiện rõ oai nghi nghiêm chỉnh, chí tâm cung kính, vớitấm lòng phấn khởi, chắp tay đứng yên chiêm ngưỡng tôn nhan Như Lai và dùng kệ tán thán Đức Phật:
Tôn nhan ánh vàng rực
Ba hai tướng tốt hiện
Tấtcả hàng chúng sinh
Thấy Ngài đều tán thán.
Thấy Phật tâm hoan hỷ
Ưusầu liềndứtsạch
Vượt qua biển sinh tử
Cúi đầulễ Từ Tôn.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn nở nụ cười hân hoan, hào quang nămsắctừ kim khNu phóng ra hàng trăm ngàn sự kỳ diệu. Mỗi đạo hào quang có vô số tia sáng. Trên mỗi tia sáng có hoa sen bằng bảy báu. Trên mỗi hoa sen có Hóa Phật xuất hiện. Ánh sáng tỏa khắpmười phương, dưới đến các địa ngụclớn, trên thì đến cõi trời Ba mươi ba, chiếu khắp các chỗ tốităm trong năm đường, tận cùng các cảnh giới Phật, không mộtnơi nào là không sáng tỏ.
Chư Thiên, dân chúng trong Đại thiên thế giới thấy được hào quang của Phật không ai là không vui mừng hớnhở, đềuxả bỏ mọi thứ dụclạc, rời cung điện, cùng nhau hướng về chỗ Đức Phật đang ngự, nghe Phật thuyết pháp mà được độ thoát. Có người thấy được hào quang mà được độ thoát. Hoặc có người nghe Hóa Phật thuyết pháp mà được giải thoát. Hoặc có người thấy ánh hào quang tìm đến chỗ Đức Phật ngự mà được độ thoát.
Cánh khảo tra trong vô lượng địa ngục đều đượcdừng nghỉ, các chúng sinh ở đấy sau khi mạng chung đều được sinh về cõi Phật.
Tấtcả cầm thú trong cảnh giới súc sinh, tâm lành được khai phát, dùng tâm Từ đốixử với nhau, không còn mang tâm sát hại, sau khi mạng chung cũng được sinh về cõi trời.
Trong cảnh Iigạ quỷ,tự nhiên được thức ăn trămvị, không còn một ai lo nghĩ về sựđói khát, nên đều vui mừng hớnhở,lại không có tâm bỏn sẻn,sau khi mạng chung đều được sinh lên cõi trời.
Vô lượng chúng sinh bị mù thì lại được thấy. Kẻđiếc thì được nghe, kẻ câm thì nói được. Kẻ tay bị cong vẹo thì co duỗitự nhiên. Kẻ chân què thì đi được. Người tàn tật, mắc trămbệnh đều được lành. Tấtcả cảnh giam cầm, trói buộc trong địa ngục đều được thả ra.
Tấtcả đại chúng, chư Thiên, muôn dân trong cõi đại thiên lúc ấy không ai là không hoan hỷ, tâm được thanh tịnh không dấy khởi tham, sân, si. Trong sốnày có người sinh về cõi trời, có người chứng quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bích-chi-phật, hoặc có người phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh chân, hoặc có người kiên trụ nơi pháp bất thoái chuyển..., số người chứng quả như vậy không thể kể xiết.
Hào quang của Đức Thế Tôn chiếu khắpmười phương thế giới, lại quay về, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, rồi nhập vào khoảng giữa hai hàng lông mày.
Khi ấy, Tôn giả A-nan sửalại yphục, thể hiện oai nghi, quỳ trước Đức Phật chắp tay, bạch:
-Nụ cười hôm nay của Đức Thế Tôn ắt phải có nguyên do, cúi xin Đức Thế Tôn nói rõ nguyên do ấy.
Đức Phậtbảo Tôn giả A-nan:
-Tôn giả, ông có thấyvị Bà-la-môn ấy chăng?
Tôn giả A-nan đáp:
-Bạch Đức Thế Tôn, dạ vâng, con có thấy.
Đức Phậtbảo:
-Người Bà-la-môn này dùng tâm thanh tịnh, làm một bài kệ khen ngợi Phật, nên từ nay cho đếnmười ba kiếpvề sau, bấtcứ sinh vào cõi trời hay cõi người đều được giàu có tự nhiên, thân hình đoan nghiêm, có trí tuệ và tài biện luận, đượcmọi người ca ngợi, chẳng đọa vào ba đường ác vàtámnạn, về sau sẽ thành Bích-chi-phật tên là Hoan Duyệt.
Tấtcả chúng hội nghe lời Đức Phật nói, ai nấy đều sinh tâm hoan hỷ, ca ngợi công đứccủa Như Lai.
Tôn giả A-nan bạch Phật:
-Công đứccủa Như Lai thật không thể nghĩ bàn, một bài kệ ca ngợi Đức Phậtcủa Bà-la-môn ấy đã đạt được công đức không thể lường tính. Công đứccủa Như Lai thật vô cùng to lớn.
Đức Phậtbảo Tôn giả A-nan:
-Bà-la-môn ấy chẳng phải chỉ mỗi đời nay ca ngợi Ta mà được thiện lợi như vậy.
Trong thời quá khứ xa xưa, vua nước Ba-la-nại tên là Bà-ma-đạt-đa. Khi nhà vua đisănbắn, các binh chủng: Tượng binh, mã binh, xa binh...
đều theo nhau mở đường vàhộ tống. Sănbắn trong núi đượcmột con voi trắng, thân voi trắng như tuyết, làn da mịn đẹp, dễ thương, mà lại có sáu ngà.
Nhà vua đượcbạch tượng lòng rất sung sướng, liền giao cho người dạy voi để luyệntập điều khiển. Lúc ấy, ngườidạy voi dùng cùm xiềng voi vớimột cây gỗ lớn và khóa xiềng lại. Voi buồn khóc rơilệ, trải qua bảy ngày không ănuống. Ngườidạy voi lo sợ voi này không ănuống chẳng bao lâu sẽ chết, liền tâu lên nhà vua:
-Bạch tượng săn được không chịu ănuống, buồn khóc rơilệ.
Nhà vua nghe tâu liền đến xem voi. Đạivương hỏi voi:
-Tại sao ngươi không chịu ăn?
Voi nói tiếng người đáp lại:
-Tâm tôi lo sầu, cúi xin đạivương giảisầu cho tôi.
Đạivương hỏi:
-Ngươisầu lo những gì?
Bạch tượng nói:
-Tôi còn cha mẹ quá già yếu, đilại không được, mà không có người nuôi dưỡng, chỉ có mỗimột mình tôi đi hái thức ăn và mang nướcuống về cho cha mẹ.Nếu tôi cứ bị xiềng ởđây, thì cha mẹ không ai nuôi dưỡng, cả hai sẽ bị chết thôi. Tôi nghĩ vậy mà buồnsầu. Tâu đạivương, nếu như đạivương có lòng Từ bi, xin tha tôi về để nuôi dưỡng cha mẹ, đến ngày cha mẹ mãn phần, tôi sẽ trở lại cung phụng đạivương, chẳng dám trái lờihứa này.
Vua nghe bạch tượng nói, lòng buồn bã chẳng vui, liền khen ngợi:
-Ngươi tuy là súc sinh mà làm việc con người,ta tuylà con người mà làm việc như súc sinh.
Nhà vua bèn quỳ xuống mở xiềng, ralệnh cho voi đi.
Bạch tượng trở về nuôi dưỡng cha mẹ suốtmười hai năm, khi cha mẹ mãn phần, liền trở lại cung vua.
Nhà vua thấybạch tượng trở lại, lòng càng thêm hoan hỷ,lấy anh lạc, bảy báu trang sức cho bạch tượng. Khi đạivương sắp ra đi thì bạch tượng dẫn đường, nên nhà vua yêu bạch tượng còn hơn thái tử. Trong bầy voi của nhà vua, bạch tượng là con voi có quá trình đặc biệt nhất, nên đặt tên là Tượng Phan.
Bấy giờ, có một Bà-la-môn nghèo cùng, muốn đến nhà vua xin bố thí, lạihỏimọi người:
-Làm thế nào để nhà vua cho nhiềucủacải?
Có ngườibảo:
-Nhà vua có con bạch tượng hếtsức yêu quý, nếu ông có thể ca ngợi bạch tượng ấy, mới có thể xin được nhiềucủacải.
Bà-la-môn liền theo dõi, đợi khi nhà vua đi ra, đứng sẵn bên vệ đường, cất tiếng khen ngợibạch tượng:
Thân ngươi đẹp vô cùng Giống như voi Đế Thích Đầy đủ sắctướng voi Phước đức cao vòi vọi. Màu sắc không ai bằng Giống như làn tuyết trắng Hình dung khó bì kịp Đặc biệt khó nghĩ lường.
Quốcvương nghe kệ ca ngợibạch tượng, lòng rất đỗi vui mừng, liền thưởng cho Bà-la-môn năm trăm tiền vàng. Bà-la-môn trở nên giàu có.
Đức Phậtbảo Tôn giả A-nan:
-Tượng Phan thời đó là thân Ta ngày nay. Bà-la-môn kia nay là người Bà-la-môn này. Khi ấy, Bà-la-môn khen ngợi Ta, đượclợi ích và nhờ Ta giúp cho khỏicảnh nghèo cùng. Nay Ta thành Phật, mà Bà-la¬môn lại tán thán Ta nên được phước báo không thể lượng tính, vì nhân duyên này, được Ta cứuvớt thoát nạn sinh tử.
Tôn giả A-nan bèn ở trước Phật, quỳ mọpbạch:
-Như có người dùng bài kệ bốn câu tán thán Đức Như Lai, sẽ được phước báo về công đức như thê nào?
Đức Phật nói:
-Giả sử có trăm, ngàn, vạn, ức, vô số chúng sinh đều được thân người, đều thành tựu đạo quả Bích-chi-phật. Ví như có người cúng dường: áo mền, thực phẩm, thuốc men, giường nằm, chănnệm. Cho những Bích-chi-phật ấy trong một trămnăm, thì người này có công đức nhiều chăng?
Tôn giả A-nan đáp:
-Rất nhiều! Rất nhiều! Không thể nào tính toán được!
Đức Phậtlại nói:
-Nếu có người dùng bài kệ bốn câu, đem tâm hoan hỷ ca ngợi Đức Như Lai, thì được công đứchơn phước đứccủa người cúng dường những vị Bích-chi-phật kia gấp trăm ngàn vạnlần, gấp ức ức vô số lần không thể dùng ví dụ.
Tôn giả A-nan và tấtcả đại chúng nghe lời Đức Phậtdạy, đềuhếtsức vui mừng, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, đầumặt sát đất đảnh lễ.
** *
Nghe như vầy:
Một thuở nọ Đức Phậtdừng chân nơimột tinh xá thuộcnước Ba-la¬nại. Theo đúng pháp của chư Phật, ngày đêmba thời dùng mắtcủaBậc Chánh Giác quan sát chúng sinh, xem người nào có thể độ được, liền đến độ. Lúc ấy, có quan Thừatướng thuộc dòng Bà-la-môn, là người giúp việc cho vua Ba-Ia-nại, vừamớilập gia đình, nên ông ta rất yêu chuộng vợ.
Ngườivợ thưavới Thừatướng:
-Xin lang quân cho thiếpmột điều.
Quan Thừatướng đáp:
-Muốn những gìcứ tùy ý nàng.
Ngườivợ liền thưa:
-Xin lang quân cho phép thiếptổ chức cúng dường Đức Phật và chư vị Tỳ-kheo Tăng, tự tay rót nước và nghe Đức Phật thuyết pháp.
Thừatướng liền đồng ý và nói:
-Ta sẽ thuận theo những gì nàng mong muốn.
Lúc ấy, Đức Thế Tôn biết đượcvợ chồng quan Thừatướng là người đáng độ, nên tờ mờ sáng hôm sau, Ngài đắp y, mang bát đến thẳng nhà vợ chồng quan Thừatướng. Vợ chồng quan Thừatướng nghe Đức Phật đã đến ngoài ngõ, nên hếtsức vui mừng, liền ra tậnnơi cung nghinh, đảnh lễ đầumặt sát đất, rồi thiết trí tòa ngồi, thỉnh Đức Phật thăng tòa, vợ chồng Thừatướng dâng cúng thức ăn đặc biệt tinh khiết, ngon ngọt. Khi Đức Thế Tôn thọ trai xong, vợ chồng tự tay cầm bình rót nước để Thế Tôn rửa tay, súc miệng. Xong xuôi, Đức Phật vì vợ chồng Thừatướng mà thuyết pháp. Đức Phật tán thán công đứcbố thí, trì giớisẽ sinh lên cõi trời hay cõi người, tự nhiên hưởng cảnh giàu có, tôn vinh, phú quý, an lạc vô cùng. Tuy được cao sang, được thỏa chí mong cầu, nhưng không thoát khỏicảnh khổ trong ba đường ác:
Cảnh khổ trong địa ngục, như lửa đốt, nước sôi, núi đao, rừng kiếm, lò than, dao cắt, cưasả... đau khổ vô cùng khốc liệt, không sao kể xiết.
Cảnh khổ trong ngạ quỷ, như thân hình tiềutụy, bụng lớn, cổ nhỏ như cây kim, tấtcả lóng đốt trong thân luôn đau nhức rã rờidường như lửa đốt. Trải qua trăm ngàn vạnnăm, không nghe danh từ cơm ăn, nước uống, đói khát khổ sở không thể nào diễntả.
Lại như sựđau khổ trong loài súc sinh, vớicảnh tương tàn ăn nuốt sát hạilẫn nhau cửa các loài cọp, sói, sư tử, mãng xà, rắn độc,bò cạp...
Tâm độc ác của chúng sinh trong ba đường dữ luôn dấy khởi mãnh liệt, không có mảy may tâm thiện, nên phải chịu xoay vần mãi trong cảnh khổđau xấu ác không có thờikỳ ra khỏi. Chỉ có điều duy nhấtlà xả bỏ ái dục, suytư về chân lý, như vậymới có thể lìa được các khổ não!
Thọ thân trong ba cõi đều nhậnlấy khổ báo. Tấtcả khổ báo đềutừ Tập đế phát sinh. Tập là do các cấu nhiễmái dụccủa ba độc, quả báo của các hành nghiệp, lại sinh ra các khổ.Nếudứthẳn ba độc, tiêu diệt các dục thì không có các hành nghiệp. Các hành nghiệp đã diệt thì không thọ thân căn. Thân căn đã không thì các khổ liền diệt. Muốn diệtsạch sự ràng buộccủa các hành nghiệp, điều duy nhất là phảitư duy thực hiện pháp Bát chánh đạo.
Đức Phật vì Thừatướng và phu nhân thuyết pháp như vậy. Vợ chồng Thừatướng vô cùng vui mừng, ngộ được pháp Tứ thánh đế, nên ở ngay trước Phật chứng quả Tu-đà-hoàn. Khi chứng đạo quả rồi, vợ chồng xem gia đình như lao ngục, thấyái dục như lửa đốt, nên chẳng màng ân ái, quỳ mọp trước Phật xin làm Sa-môn. Đức Phật thâu nhận, tức thì hai người râu tóc tự rụng, pháp y đắp vào thân, người chồng thành Tỳ-kheo, ngườivợ thành Tỳ-kheo-ni, đều theo hầu Đức Phật trở về tinh xá.
Khi về đến tinh xá, Đức Phậtlại vì hai người thuyết giảng về ba mươibảy phẩm trợ đạo và các pháp thiền định tam-muội. Hai ngườitư duy, tâm trí khai ngộ,dứthẳn các dục, đều thành bậc A-la-hán, đủ sáu phép thần thông diệudụng.
Lúc ấy, chư Tỳ-kheo cùng tán dương thầnlực trí tuệ của Như
Lai, đồng thời ca ngợi hai vị A-la-hán là những người có nhân duyên quá đặc biệt. Người chồng hiệnhưởng địavị cao sang, lạibỏ cảnh phú quý, bổng lộc vinh hiển, còn ngườivợđang tuổi thanh xuân mà lìa bỏ được dụclạc. Việccủa hai ngườirất khó làm, không ai sánh kịp.
Đức Phậtbảo đại chúng Tỳ-kheo:
-Hai vị A-la-hán này vào thời quá khứ cũng đã phát tâm lành, cho đến ngày nay tâm lành ấycũng vậy.
Đức Phậtlại nói:
-Vào thời quá khứ xa xưa cách đâyvô lượng kiếp, vua Ba-la-ma-đạt nước Ba-la-nại có vị Thừatướng tên là Tỳ-đậu-lê, là người nhân từ, thông minh họcrộng, không gì là không thông đạt, luôn đem mười điều lành giáo hóa dân chúng, từ vua cho đếnmọi người không ai là không họctập, nhà vua rất kính mến.
Khi ấy, trong biển có vị Long vương tên là Ba-lưu-ni, Long vương có một phu nhân tên là Ma-na-tư được vua hếtsức yêu quý. Một hôm, Long vương sắp lên cung trời Đế Thích để dự đạihội, nên đem phu nhân giao cho năm trăm thể nữở trong cung chăm sóc, không được vì một lý do gì quấy nhiễu xúc phạm, khiến tâm phu nhân không được vui vẻ.
Sau khi Long vương đirồi, phu nhân ở nhà tĩnh tọa, tư duy về việc làm nơi đời quá khứ của mình. Bà nghĩ nhớ về đời trướccủa mình, khi làm thân người do hủy phạm giớicấm, nay phảibị đọa trong loài rồng, tức thời chẳng vui, buồn khóc lệ trào. Đám tỳ nữ hầucận thấylịnh bà chẳng vui, cùng nhau thưahỏi:
-Vì cớ gì lịnh bà không vui?
Phu nhân đáp:
-Ta nhớ lại đời quá khứ của mình, vốn khi làm người, mặc tình phạm giớicấm nên nay phải làm thân rồng, thọ lấy hình dáng xấu ác này, do đó mà chẳng vui.
Phu nhân lạihỏi các tỳ nữ:
-Các ngươi có biết làm cách nào để thoát khỏi thân rồng, được sinh lên cõi trời không?
Các tỳ nữ tâu:
-Đem thân rồng chứa đầysự xấu ác này để cầu sinh lên cõi trời là điềurất khó. Cầu sinh làm thân người còn không thể được huống hồ là sinh vào cõi trời!
Trong số này, có mộttỳ nữ thưa:
-Con từng nghe vua Ba-la-ma-đạt cõi Diêm-phù-đề có một Thừa tướng, là ngườihếtsức nhân từ, trí tuệ vô song, tấtcả kinh điển không loại nào là không am hiểu, ông hiểutấtcả các pháp sinh trong năm cõi, nhân, thiên... ông đem năm giới, mười điều thiện giáo hóa mọi người. Vậy có thể đến đóhỏi ông ta, mới biết làm thế nào để thoát khỏi thân rồng và thực hiện những pháp gì để được sinh lên cõi trời.
Khi Long vương trở về, thấy dung nhan của phu nhân không được vui, liềnhỏi:
-Vì cớ gì hậu không được vui?
Phu nhân đáp:
-Hậu nghe tại cõi Diêm-phù-đề, vua Ba-la-ma-đạtnước Ba-la-nại có quan Thừatướng tên là Tỳ-đậu-lê, là ngườihếtsức nhân từ, thương xót chúng sinh, trí tuệ tuyệtvời, tấtcả kinh điển không một loại nào là không thông suốt. Hậu muốn được trái tim ông ấy để ăn, muốn được máu ông ấy để uống. Nếubắt được ông ấy thì nỗi buồncủahậumới khuây khỏa.
Long vương đáp:
-Khanh chớ có phiền muộn, ta sẽ làm theo ý muốncủa khanh.
Long vương có một ngườibạnDạ-xoa chí thân tên là Bất-na-kỳ. Long vương nóivớiDạ-xoa:
-Bỗng dưng phu nhân của ta nghe cõi Diêm-phù-đề nước Ba-la-nại, nhà vua có một Thừatướng tên là Tỳ-đậu-lê là người nhân từ, trí tuệ đệ nhất, tấtcả kinh điển không loại nào là không thông suốt. Phu nhân của ta muốn được trái tim và máu của ông ấy để vềănuống, xin bạn niệm tình ta mà bắt cho được ông ấy đến đây.
Nói rồi, Long vương liềnlấy hai hạt minh châu trao cho Dạ-xoa. Dạ-xoa liền nhậnlời, cấthạt minh châu, liền đi.
Khi Dạ-xoa đến cõi Diêm-phù-đề, hóa làm khách buôn, cầm hai hạt ngọc Ma-na đi vào trong thành Ba-la-nại, khách đi đường hỏi người lái buôn:
-Ngườicầm ngọc này muốn bán phải chăng?
Người lái buôn đáp:
-Ta không bán nó, ta muốn dùng nó trong cuộc vui đỏ đen thôi.
Người nghe tức thì vào triều tâu vua:
-Bên ngoài có một khách buôn mang theo hai viên ngọc báu muốn trổ tài trong cuộc vui đỏ đen.
Nhà vua nghe nói trong lòng rấtmừng, vì luôn tựỷ lạinơi tài cờ bạc của mình, cho rằng nhất định thắng cuộc.Vua ra lệnh cho vào, khách buôn liền vào trong nội cung. Nhà vua hỏi khách buôn:
-Trong cuộc đỏ đen, nhà ngươi muốn cá những gì?
Dạ-xoa đáp:
-Nếu tôi thắng cuộc thì Đạivương đem đại thầnTỳ-đậu-lê giao cho tôi. Còn nếu nhà vua đắc thắng thìhai hạt minh châu này thuộcvề nhà vua.
Nhà vua liền đồng ý. Chư quần thầntả hữu cùng nhau can gián. Nhà vua vì tham lợi và ỷ lại vào tài nghệ trong lãnh vựccờ bạccủa mình, nên bảovới quần thần:
-Ta nhứt định thắng cuộc, các khanh khỏi phải can ngăn.
Liền cùng nhau vào cuộc, kết quả Dạ-xoa đắc thắng, được đại thần Tỳ-đậu-lê. Lúc ấyDạ-xoa tóm lấyTỳ-đậu-lê bay thẳng lên hư không.
Nhà vua mấtTỳ-đậu-lê, trong lòng hếtsức ưusầu. Tấtcả quần thần đều tâu:
-Nếu nhà vua làm năm việc này sẽ mất ngôi, mấtnước:
1. Hamvui cờ bạc.
2. Ưa thích uống rượư.
3. Say đắmnữ sắc, đammê âmnhạc.
4. Thích đisănbắn.
5. Chẳng nghe lời can gián của trung thần.
Làm theo năm việc này thì ngôi vua chẳng giữ được bao lâu.
Nói về Dạ-xoa, vác Tỳ-đậu-lê đi đến giữa núi, định giết. Tỳ-đậu-lê hỏiDạ-xoa:
-Tại sao giết ta?
Dạ-xoa đáp:
-Phu nhân của Long vương nghe ông là người nhân từ, thông minh trí tuệ bậc nhất, muốn được máu và trái tim ông để ănuống. Đó là lý do khiến ta giết ông.
Tỳ-đậu-lê nói:
-Ông ngu si chẳng hiểudụng ý của phu nhân, phu nhân nghe danh ta, muốn được máu ta nghĩa là muốn được nghe giáo pháp của ta. Phu nhân muốn được tim ta nghĩa là muốn được trí tuệ trong tâm ta. Thôi, hai ta đồng đếngặp phu nhân, xem phu nhân cần những gì,ta sẽ cho tấtcả.
RồiTỳ-đậu-lê vì Dạ-xoa mà nói pháp:
-Người làmác có năm việc:
1. Làm việcbộp chộp, không đắn đo suy nghĩ.
2. Sau khi hành động rồi thường ôm nhiềuhốihận.
3. Nhiều sân hận, không có từ tâm.
4. Tiếng ác đồn xa, mọi người chán ghét không muốn thấymặt.
5. Chếtrồibị đọa vào trong ba đường ác.
-Người làm việc thiện có năm điềutốt. Năm thứđó là những gì?
1. Trước khi làm một việc gì phải suy nghĩ chín chắn, có đường lối hẳn hoi, không vội vãhấptấp, nên về sau khỏihốihận.
一. Giàu lòng Từ bi, không manh tâm làm hại người.
一. Tiếng tốt đượclưu truyền khắpnơi.
一. Đượcmọi người ái kính, xem như bậc cha mẹ,sư trưởng.
一. 5. Sau khi chết được sinh lên trời hay trong nhân gian đượchưởng mọicảnh an lạc.
Dạ-xoa nghe những lời giảng giải như vậy, tâm trí liền được khai ngộ, đảnh lễ đầumặt sát chân Tỳ-đậu-lê, cầu xin Tỳ-đậu-lê nhậnsự sám hối. Tỳ-đậu-lê vì Dạ-xoa nói mười pháp lành để được sinh lên cõi trời. Dạ-xoa nghe pháp, lòng vui mừng hớnhở vâng làm.
Dạ-xoa liền đưaTỳ-đậu-lê đến Long cung. Phu nhân thây Tỳ-đậu-lê thì vô cùng hoan hỷ, đầumặt đảnh lễ sát đất, cúi đầu quy mạng, rồi trần thiếtbảotọa, dâng cúng mỹ vị trăm món. Khi ấy, Tỳ-đậu-lê vì Long vương và phu nhân giảng nóivề pháp nhân quả họa phước trong năm đường:
-Giữ thân không làm ba điều ác:
. Đem lòng Từ bi thương xót chúng sinh, không làm điềutổnhại.
. Trừ bỏ lòng tham lam bỏnsẻn, làm những việc nghĩa giúp đỡ lẫn nhau, không sinh tâm trộmcắp.
. Quán sự dâm dạc là nhơ nhớp, đemtâmlìa nữ sắc, sống cuộc đời trong sạch, không dâm dục.
-Giữ miệng không làm bôn điều ác:
.Lời nói luôn luôn thành thật, không dối trá.
. Thường nói lờimềmmỏng, không nói lời thô lỗ,cộccằn.
. Không nó lời gây kiệntụng, bè phái, hòa giải đượcmọi tranh chấp.
.Lời nói phải thành thật, không nên trau chuốt, dốigạt.
-Giữ ý không làm ba điều ác:
. Tâm thường từ bi nhẫn nhục, không khởi sân hận.
. Thấy người thành công tốt đẹp ta mừng cho họ, không có tâm ganh tỵ.
.Một lòng sùng kính Tam bảo cho đến giới luật, hiểu rõ tội phước, không hồ nghi.
Thực hành đầy đủ mười điều lành này, không hủy phạm, liền được sinh lên cõi trời, cung điệnbằng bảy báu, mọi nhu cầu tùy theo ý muốn được có tự nhiên.
Giữ đủ năm việc: Không sát sinh, không trộmcướp, không tà dâm, không nói dối vàdứthẳnrượu chè không được say sưa, sẽ được sinh trong loài người, thuộc dòng hoàng gia hay nhà trưởng giả, địavị cao sang, giàu có sung sướng vô cùng.
Không có tâm Từ, giếthại chúng sinh, cướp đoạtcủa người, trộm cướp làm điều trái phép, tư thông vợ người, đammê ái dục vô độ, nói lời không thật,nói lời hai chiều, nóilời thô ác, mắng nhiếc người ta, sân hận ganh ghét, không hiếu thuậnvới cha mẹ, không tin Tam bảo, bỏ chánh theo tà..., ai làm những điều ác này, sau khi chếtsẽ bị đọa vào địa ngục, bị thiêu đốt đánh đập, vạnsự độc ác, trải qua bao nhiêu sựđau khổ không thể nào kể xiết.
Mắcnợ chẳng đền, được vay không trả, không tin nhân quả, kiêu mạntự đại, hủy báng Tam bảo..., chết đọa làm loài súc sinh như ngựa, lạc đà, heo, dê, chó, sư tử,hổ, sói, rắn độc,bò cạp, kỳđà..., cho đến các loài cầm thú khác. Tâm chúng hếtsức độc ác, giếthạilẫn nhau, xoay vần chịu khổ không có thờikỳ ra khỏi.
Tham lam, bỏnsẻn, ganh ghét, không chịubố thí, không dám ăn mặc, không tin Tam bảo..., bị lửabỏnsẻn đốt cháy, chết đọa làm ngạ quỷ, thân hình tiềutụy, lóng đốt rã rời, toàn thân như lửa nung, trăm ngàn vạn năm không có lúc nào xen hở, ngày đêm đói khát, hoàn toàn chưatừng nghe danh từ cơm ăn, nước-uống.
Chỉ thực hiệnmười điều lành, giữ thân, khNu, ý thì luôn luôn được sinh lên trờihưởng diệulạc vô cùng.
Lúc ấy Long vương, phu nhân và tấtcả loài rồng đều kinh sợ dựng chân lông. Tấtcả đều vâng thọ mười điều lành, giữ thân, khNu, ý, thọ bát quan trai một cách hoan hỷ. Đang khi ấybỗng có chim đại bàng cánh vàng muốn đến ăn thịt loài rồng, dùng hết thầnlực mà không tớigần được. Tấtcả loài rồng vui mừng vô cùng, vì thấy điều chưatừng có.
Long vương, phu nhân, tấtcả loài rồng trong biểncả cùng tấtcả quỷ Dạ-xoa đều tu theo pháp Thập thiện, không ai là không hoan hỷ cúi đầu đảnh lễ Tỳ-đậu-lê.
Long vương liềnhỏiTỳ-đậu-lê:
-Đạisư muốn trở về Diêm-phù-đề không?
Tỳ-đậu-lê đáp:
-Muốnvề.
Long vương bèn đem hương chiên-đàn, ngọc Ma-ni và các vật quý báu khác dâng cúng cho Bồ-tát. Phu nhân, thể nữ,tấtcả rồng vàcác quỷ Dạ-xoa đều đem ngọc ngà quý báu lạ thường, dâng lên cho Tỳ-đậu-lê, rồi cùng tiễn đưa trở về cho đếntậnnước Ba-la-nạimới cúi đầu hoan hỷ từ biệt.
Loài rồng và cácquỷ Dạ-xoa ở trong biểnlớn, tâm độc ác đều được tiêu diệt, sau khi chết đều được sinh lên cõi trời.
Vua Ba-la-ma-đạt và chư vị quần thần cùng tấtcả dân chúng thây Tỳ-đậu-lê trở về trong lòng rất đổi vui mừng, đầumặt sát đất đảnh lễ hỏi han cớ sự?Tỳ-đậu-lê trình bày đầy đủ đầu đuôi sự việcvới nhà vua. Đại vương và thần dân không ai là không hoan hỷ, ca ngợi điều chưatừng có. Tỳ-đậu-lê lại đem ngọc Ma-ni treo trên đầu cây phướn, chí tâmcầu nguyện, tức thời khắp trong cõi Diêm-phù-đề trờimưabằng bảy báu, áo mền, các thức ănuống... Vô lượng dân chúng quần thần đều được giàu có, an lạc.
Bấy giờ, vua trời Đế Thích, vua cõi người, Long vương nơi đạihải và vua Đại bàng cánh vàng Ca-lưu đềuxả bỏ dụclạc, vào nơi thâm sơn đầmvắng ăn chay tọa thiền, tự kiềm chế thân tâm, mỗi người đềutự nói mình đạt được phước đức nhiều nhất.
Vua cõi trờitự nói:
-Ta xả bỏ dụclạc trên cõi trời, ngày nay đếnnơi đây giữ gìn thân khNu ý, ta được phước đức nhiều.
Vua cõi ngườilại nói:
-Ta xả bỏ các thứ vui về nămdục trong cung điện, đếnnơi đây thu nhiếp thân ngữ ý, ta được phước đức nhiều.
Long vương lại nói:
-Ta xả bỏ các thứ dụclạcnơi cung điệnbảy báu trong biểncả, nay đến chốn này chế ngự thân ngữ ý, ta được phước đức nhiều.
Vua Đại bàng cánh vàng cũng nói:
-Long vương này là món ăncủa ta, ta nay trì trai giữ thân ngữ ý, không còn tâm làm tổnhại, cho đến không còn ăn thịt, ta được phước đức nhiều.
Lúc ấy, bốn vua tự than rằng chưa thể quyết định vị nào được phước
đức nhiều, nên cùng nhau bàn:
-Phải cùng đếnhỏi Đạisư Tỳ-đậu-lê.
Bốnvị liền đến chỗ Tỳ-đậu-lê, đầumặt đảnh lễ sát đất, mỗi người
đồng bạch:
-Xin Đạisư xem xét ai là người được phước đức nhiều?
Bồ-tát đáp:
-Các ông hãy dựng bốn cây phướn, một cây màu xanh, một cây màu
trắng, một cây màu vàng và một cây màu đỏ.
Bốn vua liền vâng lờidựng bốn cây phướn.
Bồ-tát lạihỏi;
-Cái bóng củabốn cây phướn kia có khác nhau không? Có phái chỉ
là một màu chăng?
Bốn vua đồng đáp:
-Màu sắcmỗi cây phướn khác nhau, nhưng bóng của chúng thì đồng
một màu không khác.
Bồ-tát nói:
-Bốn vua các ông đềuxả bỏ mọi thú vui dụclạccủa mình, đồng đến đây trì giới, giữ gìn thân khNu ý, công đứccủamỗi người đồng đều, không có sai khác, như bốn cây phướn có màu sắc khác nhau, mà bóng của chúng thì cùng một loại không khác.
Lúc đóbốnvị vua nghe Bồ-tát nói thế thì tâm ý đều thông tỏ nếnhết sức vui mừng. Vua cõi trời Đế Thích bèn đemáo bằng bông cõi trời cúng dường cho Bồ-tát. Vua cõi người thì đem đủ các loại ngọc quý cúng dường cho Bồ-tát. Long vương trong biểncả thì đem ngọc báu Ma-ni trên búi tóc của mình dâng cúng Bồ-tát. Vua chim Đại bàng cánh vàng thì đem dây thao quân tóc dâng cúng Bồ-tát.
Lúc ấy, bốn vua rất hoan hỷ lễ tạ từ biệt. Bấy giờ dân chúng cõi Diêm-phù-đề,rồng cùng Dạ-xoa luôn tu Thập thiện, hễ ai mạng chung đều được sinh lên trời, không ai bị đọa vào ba đường ác.
Đức Phậtbảo chư Tỳ-kheo:
-Đạisư Tỳ-đậu-lê thời ấy là thân Ta ngày nay. Long vương Ba-lưu¬ni thời ấy nay là quan Thừatướng, phu nhân Ma-na-tư thời ấy nay là vợ quan Thừatướng. Khi xưa làm rồng theo Ta nghe pháp, hoan hỷ ghi nhớ vào lòng, được thoát khỏi thân rồng sinh lên cõi trời. Nay Ta thành Phật, lại theo Ta nghe pháp, tâm sinh hoan hỷ,ý đượctỏ ngộ, liền xuất gia, tư duy theo trí tuệ, đoạn tuyệt các dục, cả hai đều chứng A-la-hán. Trong quá khứ cũng nhờ tâm lành, cho đến ngày nay cũng nhờ nơi tâm lành.
Các Tỳ-kheo nghe lời Đức Phật nói, tấtcả đều hoan hỷ cung kính đảnh lễ Đức Thế Tôn.

    « Xem quyển trước «      « Kinh này có tổng cộng 3 quyển »

Tải về dạng file RTF

_______________

MUA THỈNH KINH SÁCH PHẬT HỌC

DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH




Giảng giải Cảm ứng thiên - Tập 1


Yếu lược các giai đoạn trên đường tu giác ngộ


Bhutan có gì lạ


Chuyện Vãng Sanh - Tập 1

Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.

XEM TRANG GIỚI THIỆU.





Quý vị đang truy cập từ IP 3.135.198.49 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.

Ghi danh hoặc đăng nhập