Nhằm tạo điều kiện để tất cả độc giả đều có thể tham gia soát lỗi chính tả trong các bản kinh Việt dịch, chúng tôi cho hiển thị các bản Việt dịch này dù vẫn còn nhiều lỗi. Kính mong quý độc giả cùng tham gia soát lỗi bằng cách gửi email thông báo những chỗ có lỗi cho chúng tôi qua địa chỉ admin@pgvn.org
  PHẨM THỨ MƯỜI MỘT : NGÂN CHỦ ĐÀ LA NI 
 Hán dịch : Xà Na Quật Đa - Đời Tùy
 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo mạng giả Xá Lợi Phất rằng :
 - Các Bồ tát này đã huân tu các pháp gọi là các Bồ tát mẫu, Bồ tát tích hạnh (hạnh xưa), Bồ tát nhiếp thọ. Có pháp bổn tên là Bất nhiễm trước Đà la ni.
 Nói như vậy rồi, mạng giả Xá Lợi Phất bạch đức Phật rằng :
 - Thưa đức Thế Tôn ! Nói Đà la ni thì Đà la ni câu nghĩa gì đây? Vì Đà la ni chẳng phải là Đà la ni, thưa đức Thế Tôn ! Vì phương xứ chẳng phải là phương xứ !
 Nói như vậy rồi, đức Phật bảo mạng giả Xá Lợi Phất rằng :
 - Rất hay ! Rất hay ! Này Xá Lợi Phất ! Như ông phát hạnh Đại thừa, tín giải Đại thừa, tăng sức Đại thừa ! Đúng như lời ông nói, Đà la ni ấy chẳng phải phương xứ, chẳng phải chẳng phương xứ, chẳng phải pháp, chẳng phải chẳng pháp, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại, chẳng phải sự vật, chẳng phải chẳng sự vật, chẳng phải duyên, chẳng phải chẳng duyên, chẳng phải hành, chẳng phải chẳng hành, không có pháp sinh cũng không có diệt, chỉ vì lợi ích cho Bồ tát. Như vậy nói, Đà la ni này là đạo sở tác hợp lực trụ. Đó gọi là các công đức Phật, Giới của Phật, học của Phật, mật ý của Phật, sinh ra Phật, gọi pháp bổn tên là Bất nhiễm trước Đà la ni.
 Nói như vậy rồi, mạng giả Xá Lợi Phất bạch đức Phật rằng :
 - Thưa đức Thế Tôn ! Nguyện xin ngài vì con diễn nói Tu dà đa (kinh) ! Nguyện vì con diễn nói pháp bổn Đà la ni này mà Bồ tát trụ ở trong đó rồi sẽ thành chẳng thoái chuyển Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, sẽ thành Chánh nguyện, chẳng y chỉ biện tài tự tính của pháp (?), sẽ được hy hữu tự an trụ đạo, gọi là được Đà la ni vậy.
 Nói như vậy rồi, đức Phật bảo mạng giả Xá Lợi Phất rằng :
 - Rất hay ! Rất hay ! Này Xá Lợi Phất ! Đúng vậy ! Đúng vậy ! Này Xá Lợi Phất ! Bồ tát được Đà la ni nên nói như Phật. Này Xá Lợi Phất ! Bồ tát được Đà la ni, nếu có người cúng dường tôn trọng thừa sự cung cấp thì phải như cúng dường Phật. Này Xá Lợi Phất ! Nếu sẽ có người nghe Đà la ni này hoặc thọ trì, hoặc tín giải thì những người đó trở lại ứng cúng dường như vậy, chẳng lìa khỏi tâm Bồ Đề như Phật không khác. Này Xá Lợi Phất ! Đây là câu Đà la ni.
 Đa điệt tha (1) San Đà la ni (2) Uất đa la ni (3) Tam bát la đế sử si đa (4) Tu na ma (5) Tu bát la đế sa tra (6) Tỷ xà dạ ba la (7) Tát đế gia bát la đề xà nhã (8) Tu a hô ha (9) Xà na ma đế (10) Uất đa ba đà ni (11) A bà na ma nê (12) A tỷ sư đà nê (13) A tỷ tỳ gia hạ la (14) Thủ bà la đế (15) Tu nê thi lợi đa (16) Bà hầu cùng bà (17) A tỹ bà đà (18) Ta bà ha (19).
 Này Xá Lợi Phất ! Đây là câu Đà la ni tên là Bất nhiễm trước, chính trụ, chính thọ tạo tác rồi. Nếu Bồ tát thọ trì thì Bồ tát đó hoặc một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp chẳng bỏ các nguyện, thân Bồ tát đó sẽ có thể hàng phục dao, gậy, thuốc độc, thú dữ... đều có thể bị hàng phục. Vì sao vậy ? Này Xá Lợi Phất ! Đà la ni Bất nhiễm trước này là mẹ của chư Phật quá khứ, mẹ của chư Phật đương lai, mẹ của chư Phật hiện tại, gọi pháp bản tên là Bất nhiễm trước Đà la ni. Này Xá Lợi Phất ! Nếu có mười atăngkỳ ba ngàn đại thiên thế giới mà trong đó đầy bảy báu, rồi đem số báu đó cúng dường cho các đức Phật Thế Tôn và dùng đồ ăn thức uống, quần áo thượng thắng sẽ đem cúng dường những đức Phật trong ngần ấy atăngkỳ kiếp đó. Nếu đối với bản pháp Đà la ni Bất nhiễm trước này sẽ trì một câu thôi thì phước đức này sinh ra nhiều hơn phước đức cúng dường trên kia. Vì sao vậy ? Này Xá Lợi Phất ! Vì bản pháp Đà la ni Bất nhiễm trước này là mẹ của chư Phật vậy.
  PHẨM THỨ MƯỜI HAI : ĐẠI BIỆN THIÊN  
 Hán dịch : Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm - Đời Bắc Lương
 Lúc bấy giờ, Đại Biện thiên thần bạch đức Phật rằng :
 - Thưa đức Thế Tôn ! Người nói pháp đó, con sẽ thêm Lạc Thuyết Biện lực cho người ấy, khiến cho người ấy nói pháp trang nghiêm, theo thứ lớp khéo được đại trí. Nếu trong Kinh này có mất văn tự, câu nghĩa lầm lỗi thì chúng con có thể khiến cho vị Tỳkheo nói pháp này theo thứ lớp trở lại được năng lực cho tổng trì, khiến cho chẳng quên mất. Nếu có chúng sinh ở chỗ trăm ngàn đức Phật gieo trồng các căn lành thì người nói pháp này vì những người đó nên ở cõi Diêm Phù Đề giải nói, lưu bố rộng rãi Kinh điển vi diệu này khiến cho Kinh ấy chẳng đoạn tuyệt, lại khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh được nghe Kinh này, sẽ khiến cho những người đó được lợi mạnh mẽ chẳng thể nghĩ bàn đại trí tuệ tụ, chẳng thể xưng lường quả báo phước đức, giỏi lý giải đủ thứ vô lượng phương tiện, giỏi có thể biện luận thông suốt (thỏa đáng) tất cả các luận, giỏi biết đủ thứ kỹ thuật của thế gian, có thể ra khỏi sinh tử được bất Thoái Chuyển, nhất định mau chóng được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
 ( Phần dưới đây do ngài Xà Na Quật Đa dịch bổ túc vào)
 Con nay lại muốn nói cho người nói pháp ấy phép chú dược tắm rửa. Nếu có Tỳkheo thọ trì Kinh này, lại có chúng sinh rất ưa thích nghe Kinh điển đó thì con vì những người đó trừ tất cả ác tinh tai quái, trừ cho họ dịch khí bệnh tật, khổ sinh tử, ác khẩu, đấu tranh, miệng lưỡi huyện quan, đêm nằm ác mộng, ác thần chướng nạn, yếm độc, chú trớ... tất cả ác chướng đều được diệt trừ. Những chúng sinh này nếu có thính thọ kinh pháp đó thì cần phải trì tụng chú này, dùng chú dược nấu nước nóng tắm rửa thân mình. Vậy nên con nói pháp chú dược : Lấy xương bồ tốt, hùng hoàng, mục túc hương, thi lợi sa, cam tùng hương, xa di (câu kỷ), thảo hoắc hương, hoa cao thảo, trầm hương, quế bì, đinh hương, phong hương, bạch giao hương, an tức hương, A la sa tiển hương, linh lăng hương, ngải nạp hương, chiên đàn hương, thạch hùng hoàng, thanh mộc hương, Uất kim hương, phụ tử, giới tử (hạt cải), súc sư, mật uất kim căn, na la đà thảo, long hoa...
 Những vị thuốc như vậy thái mỏng ra, dùng ngày Quỷ tinh hòa hợp giã thuốc. Giã thuốc rồi dùng chú này chú vào đó một trăm lẻ tám biến (lần), nói chú rằng :
 Đát điệt tha tô chỉ - Yết lị chỉ - Ca ma đá tả xà nộ ca la trì ha nộ ca la trì - Nhơn đà la xà li - Xa ca đề ly - Ba xà đề - Ly a bạt đá - Ca tư hài na - Câu độ câu - Ca tỳ la ca tỳ la mạt chỉ thi la mạt chỉ san đề - Đầu đầu ma bạt chỉ thi lị thi lị tát đế - Gia tát thất đế - Ta ba ha.
 Rồi dùng phân trâu trét lên đất dọc ngang bảy khuỷu tay để làm đạo tràng, dùng hoa tung rải trong đạo tràng, treo tràng phan bảo cái bằng lụa ngũ sắc che khắp trên đất ấy, dùng chén vàng chén bạc đựng nước thạch mật, nước bồ đào, nước đường, sữa đặc ở bên ngoài đạo tràng. Đầu bốn góc đều đặt một người mình mang mâu giáp, tay cầm giáo, gậy, giấu mình mà đứng. Lại cần bốn đồng nữ, đồng tử đều mặc áo sạch phụng trì bình hoa cũng đứng ở bốn góc của đạo tràng, đốt giao hương cúng dường chẳng được đứt đoạn. Lại làm thần phan ngũ sắc, bốn góc an trí bảo tràng và trăm thứ âm thanh kỹ nhạc, dùng đồ sạch mới đựng nước thơm ấy đặt ở giữa đạo tràng. Rồi trước phải kiết giới, nhiên hậu mới tắm gội. Đọc chú rằng :
 Đát điệt tha - Át la ky - Gia gia nỉ - Ê lị thi - Lị xí xí lị - Ta ba ha.
 Rồi dùng chú chú vào nước hai mươi mốt biến, tung rải bốn phương. Lại nói chú nước thuốc, chú thân. Trước chú thân một trăm lẻ tám biến, lại chú nước thuốc một trăm lẻ tám biến, rồi dùng nước thuốc này tắm gội thân mình. Chú tắm rằng :
 Đá điệt tha - Tỳ dà trì - Ta dà trì - Tỳ dà trà - Bạt đế ta ba ha.
 Tụng chú tắm gội rồi, hành giả vì chính người ấy phát hoằng thệ nguyện rằng : “Nguyện xin thần tinh (sao) che hộ thân mạng, luôn khiến cho tốt lành, không có các chướng nạn, ác tinh tai quái đều không có gì sợ, bốn đại an lành, không có các bệnh hoạn, tất cả nỗi sợ hãi đều được trừ khỏi. Người ấy nói chú thân chú và nguyện chú rằng :
 Ta nỉ tỳ ta nỉ - Ta ba ha - Ta dà trì - Tỳ dà trì ta ba ha ta dà la - Tam phù đá gia - Ta ba ha - Càn đà ma đà na gia ta ba ha - Ni la kiền tha gia ta ba ha - A la kỳ đá - Tỳ lị xà gia ta ba ha ê ma bà - Tam phù đá gia - Ta ba ha - A ni di la bạc ca đá la gia ta ba ha - Nẳn mồ bà dà bà đế - Bạt lam ma nỉ na ma ta la tát ky đế ma ha đề tỳ tứ trấn đố - Mạn đá la bát đà đảm bà la hùng ma a nô mạn nhã đô ta ba ha.
 Đến đây, Đại Biện thiên thần bạch đức Phật rằng :
 - Thưa đức Thế Tôn ! Nếu có Tỳkheo, Tỳkheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di thọ trì, đọc tụng, ghi chép, lưu thông, theo đúng như pháp mà làm thì hoặc thành ấp, tụ lạc, đồng trống, đường đi, chùa tháp, tăng phòng, trú xứ của người thế tục... Con sẽ vì những người này, đem theo quyến thuộc, tấu lên kỹ nhạc trời, đi đến đạo tràng, trừ diệt tất cả bệnh, tất cả ác tính tai quái, trừ cho họ tất cả dịch bệnh, khổ sinh tử, trừ tất cả ác khẩu, đấu tranh, miệng lưỡi của quan huyện, trừ tất cả đêm năm ác mộng, trừ tất cả ác thần chướng nạn, trừ tất cả yếm độc, chú trớ, trừ tất cả ác chướng. Nếu có Tỳkheo, Tỳkheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di thọ trì đọc tụng Kinh này thì mau chóng qua khỏi phiền não, vào đến A tỳ bạt trí địa, hướng về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Do công đức này nên mau chóng thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
 Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn khen thiên thần Đại Biện rằng :
 - Hay thay ! Hay thay ! Này Đại Biện thiên thần ! Ông có thể vì chúng sinh suy nghĩ việc thiện, có thể khiến cho tất cả chúng sinh thực thi sự không sợ của họ, vì các chúng sinh nói lên công năng của thuốc chú này làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
 Đến đây, thiên thần Đại Biện lễ đức Phật ba lạy rồi trở lại tòa ngồi cũ. Lúc bấy giờ, Bà la môn Kiều Trần Như, do chú lực nên sẽ thỉnh thiên thần Đại Biện :
 Cũng sẽ cung kính 
 Đại Biện thiên thần
 Tất cả thế gian  
 Danh đều đến khắp.
 Ở trong núi luôn 
 Trời, rồng, quỉ, thần
 Tất cả đều kính  
 Áo cỏ mặc thường
 Một chân mà đứng 
 Tất cả chư thiên
 Đều đi đến đó.  
 Muốn thỉnh thiên thần
 Nguyện cho tất cả 
 Trí tuệ chúng sinh
 Lời nói biện rõ  
 Hay dùng lời lành.
 Đa điệt tha - Mậu lị tỳ lị - A bà kỳ - A bà xà bạt đế hưng cừ lị - Di cừ li - Tân dà la bạt đế - Ương cừ sái mạt lợi chỉ tô ma đế - Đề kỳ ma đế - A kỳ lợi - Ma kỳ lợi đa la già bạt đế - Chỉ chỉ lợi thi lợi di lợi - Ma chỉ lợi la di nỉ - Lô ca chiết sư đế - Lô ca thi li sư đế - Lô ca tất lợi dịch tất đà bạt la đế - Tỳ ma mục xí - Thủ chỉ già lợi a ba la đế ha đế a ba la đế hà đa phù địa - Nam mâu chỉ nam mâu chỉ - Ma ha đề tỳ ba la đế dà lợi hất na - Na ma ta ca lam ma ma phù địa a ba la đế ha đa bà bà đố - Xa tát đa la - Xa lô ky đạn đa - La tỳ tra ca ca tỳ gia địa sơ - Đa diệt tha - Ma ha ba la bà tỳ ê lợi di lợi - Ê lợi di lợi - Tỳ già la đố - Ma ma phù địa y phạm na ma tả bà na dà bà đế - Tỳ gia đề ta la ta bạt đế - Ca la trì chỉ do li ê lợi di lợi ê lợi di lợi - A bà ha dương di ma ha đề - Tỳ Phật đà tát tri na - Đạt ma tát tri na tăng dà tát tri na nhân đà la tát tri na - Bà lâu na tát tri na di lô chỉ tát tri na - Bà đề na tri sảng tát tri na - Tát tri na bà chi nỉ na - A bà ha - Dương di ma ha đề tỳ đá điệt tha - Ê lợi di lợi - Ê lợi ê lợi tỳ già la đô bột đề - Ma ma nam mô bà già bà đế - Ma ha đề tỳ ta la ta ba đế - Tất trấn đố mạn đa la ba đà - Ta ba ha.
 Lúc bấy giờ, Bà la môn Kiều Trần Như dùng kệ khen thiên thần Đại Biện :
 Tất cả các quỉ thần 
 Nay chí tâm nghe kỹ
 Tôi nay muốn ngợi khen 
 Thiên thần Đại Thánh Biện.
 Đại Biện thiên tối tôn 
 Trong tất cả các nữ
 Trời, tu la vân vân... 
 Dạ xoa và Càn thát
 Trong các thánh thế gian 
 Là tối tôn tất cả.
 Công đức nhiều vô vàn 
 Dùng để trang nghiêm thân
 Mắt như hoa ưu bát 
 Tướng trí tuệ công đức
 Như ngọc bảy báu thành 
 Thế gian rất khó thấy
 Tôi nay muốn ngợi khen 
 Lời thậm thâm tối thắng.
  Quyết định ban cho tất cả chúng
  Tối thắng tối cao không ai hơn 
  Tướng tốt đoan nghiêm nhuần sinh chúng
  Dáng hình thanh tịnh như hoa sen
  Mắt dài mở ra hơn tất cả
  Thân thể đoan chánh nhìn không nhàm
  Đủ thứ trang nghiêm các tướng tốt
  Ánh sáng thanh tịnh như ánh trăng
  Trí tuệ có thể khắp tất cả
  Giỏi tổng trì nhớ dai chẳng quên
  Hiện hình người cưỡi trên sư tử
  Thể có tám tay trang nghiêm thân
  Chúng sinh nhìn thấy như mãn nguyệt
  Tiếng vi diệu ngữ ngôn biện bàn
  Khó nghĩ bàn thậm thâm trí tuệ
  Do trí tuệ này tròn đầy luôn.
  Hay thí chúng sinh tất cả nguyện
  Với tất cả chúng là tối tôn.
  Đế thích, Tu la, Dạ xoa với
  Càn thát bà và cả chư thiên...
  Tất cả đại chúng hằng khen ngợi
  Chúng tôi đây đó phải cúng dường
  Lòng cung kính thanh tịnh cẩn trọng
  Do nguyện này nên đều cát tường
  Ở chỗ bố úy luôn phòng hộ.
  Nếu lại có người lòng sạch trong
  Kệ bảy chữ này sáng sớm tụng
  Ta khiến người này nguyện mãn viên
  Cần gì cấp cho không thiếu thốn.
 Nói kệ này xong, khiến cho tất cả chúng sinh đều phát tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
  
 PHẨM THỨ MƯỜI BA : CÔNG ĐỨC THIÊN  
 Hán dịch : Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm - Đời Bắc Lương
 Lúc bấy giờ, trời Công Đức bạch đức Phật rằng :
 - Thưa đức Thế Tôn ! Người nói pháp này, con sẽ tùy theo vật cần dùng của ông ấy như y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược và các của cải khác mà cung cấp cho người này không có gì thiếu thốn, khiến cho lòng an trụ, ngày đêm hoan lạc, chánh niệm tư duy chương cú Kinh này, phân biệt nghĩa sâu. Nếu có chúng sinh ở chỗ trăm ngàn đức Phật gieo trồng các căn lành thì người nói pháp này vì những chúng sinh đó nên ở cõi Diêm Phù Đề tuyên dương, lưu bố rộng rãi Kinh điển vi diệu này khiến cho chẳng đoạn tuyệt. Những chúng sinh đó nghe Kinh này rồi, ở đời vị lai vô lượng trăm ngàn na do tha kiếp, thường ở tại trên trời, trong loài người hưởng thụ niềm vui, gặp gỡ chư Phật; mau chóng thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, khổ của ba đường ác đều hết không còn.
 Thưa đức Thế Tôn ! Con đã ở chỗ đức Bảo Hoa Công Đức Hải Lưu Ly Kim Sơn Chiếu Minh Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Minh Hành Túc Thiện Thệ Thế Gian Giải Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu Thiên Nhân Sư Phật Thế Tôn đời quá khứ, gieo trồng các căn lành. Vậy nên con nay tùy theo phương nghĩ đến, tùy theo phương nhìn thấy, tùy theo phương đi đến mà khiến cho vô lượng trăm ngàn chúng sinh hưởng thọ các khoái lạc như y phục, ẩm thực, đồ dùng sinh sống, vàng, bạc, bảy báu, chân châu, lưu ly, san hô, hổ phách, bích ngọc, kha bối... đều không gì thiếu thốn. Nếu có người xưng tán Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh, vì con cúng dường các đức Phật Thế Tôn, ba lần xưng tên con, đốt hương cúng dường. Cúng dường đức Phật rồi, riêng dùng hoa hương, đủ thứ vị ngon cúng dường cho con, tung rải các phương thì phải biết người đó liền có thể tụ tập của cải vật báu. Do nhân duyên này nên tăng trưởng vị của đất, thần đất và chư thiên đều được hoan hỷ, việc gieo trồng lúa gạo, mầm, thân, cành, lá, quả trái sum suê. Thần cây vui mừng sinh ra vô lượng đủ thứ những vật. Con thì dùng lòng từ niệm các chúng sinh nên ban cho họ nhiều vật dụng cần dùng cho cuộc sống.
 Thưa đức Thế Tôn ! Vua Tỳ Sa Môn ở phương Bắc này có ngôi thành tên là A Ni Mạn Đà. Thành ấy có vườn tên là Công Đức Hoa Quang. Ở trong vườn này có khu vườn tối thắng tên là Kim Tràng với bảy báu rất vi diệu. Đây tức là nơi con thường dừng ở. Nếu muốn của báu được tăng trưởng thì người này phải ở tại chỗ của mình, tưới nước quét dọn sạch sẽ, tắm gội thân thể, mặc áo trắng tinh khiết, dùng diệu hương xoa thân. Rồi vì con ba lần xưng danh diệu đức Phật Bảo Hoa Lưu Ly Thế Tôn kia. Lễ bái cúng dường, đốt hương, tung hoa cũng phải ba lần xưng Kinh Kim Quang Minh và chí thành phát nguyện. Rồi riêng dùng hương hoa, đủ thứ vị ngon cúng thí cho con, tung rải các phương. Lúc bấy giờ, phải nói chương cú như vầy :
 - Bà lị phú lâu na già lợi - Tam mạn đà đạt xá ni - Ma ha tỳ ha la dà đế - Tam mạn đà tỳ na dà đế - Ma ha dà lị ba đế - Ba ta di - Tát bà đá tam mạn đà - Tu bát lị phú lệ - A dạ na đạt ma đế - Ma ha tỳ cổ tất đế - Ma ha di lặc ky tăng kỳ đế - Ê đế tỷ tam bác kỳ hy đế - Tam mạn đà a tha - A miễn ta la ni.
 Nam mô Nhất Thiết Tam Thế Phật ! Nam mô Nhất Thiết Chư Bồ tát! Nam mô Di Lặc Bồ tát.v.v.... con nay muốn nói thần chú :
 Đá điệt tha - Ba lị phú lâu na già lợi - Tam mạn đà đạt xá ni - Ma ha tỳ ha la dà đế - Tam mạn đà tỳ đà na dà đế - Ma ha ca diếp lị gia. Ba lợi ba la ba nỉ tát bà lợi đà tam mạn đa tu bát lợi đế - Phú lệ na a dạ na đạt ma đa ma ha câu tất đế - Ma ha di lặc đế lô ky tăng kỳ đế đế ê đế tỉ tăng kỳ hi đế - Tam mạn đà át tha hà miễn ba la ni - Tá ba ha.
 Chương cú quán đảnh này nhất định cát tường chân thật chẳng hư. Chúng sinh đẳng hạnh và trung thiện căn cần phải thọ trì đọc tụng thông lợi, bảy ngày bảy đêm thọ trì tám giới, sáng chiều tịnh tâm, hương hoa cúng dường mười phương chư Phật, thường vì thân mình và các chúng sinh và hồi hướng đầy đủ về Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tác khởi thệ nguyện này khiến cho sở cầu của con đều được cát tường, ở chỗ ở của mình như nhà cửa, phòng xá tự quét dọn sạch sẽ, tinh khiết, rồi hoặc tại chỗ của mình, hoặc chỗ A lan nhã dùng bùn thơm tô trát trên đất, đốt hương thơm vi diệu, bày tòa ngồi đẹp thanh tịnh, dùng đủ thứ hoa hương tung trải lên đất ấy để đợi con. Con vào lúc đó, như trong khoảnh khắc một niệm, vào nhà người ấy liền ngồi trên tòa ngồi vi diệu đó. Từ đây, ngày đêm con khiến cho gia cư này, hoặc thôn ấp, hoặc tăng phường, hoặc lộ địa không điều gì thiếu thốn. Hoặc tiền, hoặc vàng bạc, hoặc trân bảo, hoặc trâu dê, hoặc lúa gạo... tất cả sự cần dùng liền được đầy đủ, mọi người đều thọ khoái lạc. Nếu họ có thể đem phần thiện căn tối thắng đã làm của mình mà hồi hướng cho con thì con sẽ trọn đời chẳng xa người ấy. Ở chỗ sở trụ chí tâm hộ niệm, tùy theo sự cầu xin của người ấy, con khiến cho họ được thành tựu. Người ấy cần phải chí tâm lễ những đức Phật Thế Tôn như vầy mà danh hiệu các vị ấy là : Bảo Thắng Như Lai, Vô Cấu Xí Bảo Quang Minh Vương Tướng Như Lai, Kim Diệm Quang Minh Như Lai, Kim Bách Quang Minh Chiếu Tạng Như Lai, Kim Sơn Bảo Cái Như Lai, Kim Hoa Diệm Quang Tướng Như Lai, Đại Cự Như Lai, Bảo Tướng Như Lai... cung kính lễ bái : Tín Tướng Bồ tát, Kim Quang Minh Bồ tát, Kim Tạng Bồ tát, Thường Bi Bồ tát, Pháp Thượng Bồ tát... cũng lễ bái đức A Súc Như Lai ở phương Đông, đức Bảo Tướng Như Lai ở phương Nam, đức Vô Lượng Thọ Phật ở phương Tây, đức Vi Diệu Thanh Phật ở phương Bắc.
   PHẨM THỨ MƯỜI BỐN : KIÊN LAO ĐỊA THẦN  
 Hán dịch : Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm - Đời Bắc Lương
 Lúc bấy giờ, địa thần Kiên Lao bạch đức Phật rằng :
 - Thưa đức Thế Tôn ! Kinh Kim Quang Minh này, hoặc đời hiện tại, hoặc đời vị lai ở tại khắp nơi nơi, hoặc thành ấp tụ lạc, hoặc sơn trạch chỗ trống, hoặc cung vua nhà cửa... thưa đức Thế Tôn ! Tùy theo chỗ Kinh điển này lưu bố, trong địa phận này bày tòa ngồi Sư tử để cho người nói pháp ngồi trên tòa ngồi ấy diễn nói tuyên dương rộng rãi Kinh điển vi diệu này thì con sẽ ở trong chỗ đó luôn làm túc vệ mà ẩn che thân mình, ở dưới pháp tòa đảnh lễ kính trọng dưới chân pháp sư ấy. Con nghe pháp rồi, được uống pháp vị cam lộ vô thượng, tăng thêm khí lực mà đại địa này sâu đến mười sáu vạn tám ngàn do tuần, từ bờ cõi Kim Cương đến trên đất biển đều được mọi vị tăng trưởng đầy đủ, mầu mỡ phong thịnh hơn ngày hôm nay. Do vậy cho nên, bên trong cõi Diêm Phù Đề, thảo dược, cây cối, rễ, thân, cành, lá, hoa, trái sum suê, màu đẹp vị thơm. Chúng sinh ăn những thứ đó rồi thì tăng trưởng thọ mạng, sắc lực được yên, các căn, sáu tình đầy đủ thông lợi, uy đức nhan mạo đoan nghiêm đặc thù. Thành tựu đủ thứ như vậy rồi thì sự nghiệp đã làm được nhiều thành công, có thế lực lớn, tinh cần dũng mãnh. Như vậy, thưa đức Thế Tôn ! Bên trong cõi Diêm Phù Đề yên ổn, giàu thịnh, vui sướng, nhân dân đông đúc, tất cả chúng sinh thụ hưởng nhiều khoái lạc, lòng ưng ý thích theo niềm vui của họ. Những chúng sinh này được uy đức, thế lực lớn này rồi, có thể cúng dường Kinh Kim Quang Minh và cung kính cúng dường bốn bộ chúng, người thọ trì. Vào lúc ấy, con sẽ đến chỗ ấy, vì các chúng sinh thọ khoái lạc mà thỉnh người nói pháp tuyên bố rộng rãi Kinh điển như vậy. Vì sao vậy ? Thưa đức Thế Tôn ! Vì kinh Kim Quang Minh này, nếu khi tuyên nói rộng rãi thì uy đức sở đắc của con và quyến thuộc hơn bội phần bình thường, thân lực tăng trưởng, lòng tinh tấn dũng nhuệ.
 Thưa đức Thế Tôn ! Con uống vị cam lộ vô thượng rồi, đất cõi Diêm Phù Đề ngang dọc bảy ngàn do tuần phong thịnh mầu mỡ bội phần lúc thường. Thưa đức Thế Tôn ! Sự nương tựa của tất cả chúng sinh trên đại địa này đều như có thể tăng trưởng tất cả vật cần dùng. Tăng trưởng tất cả vật cần dùng rồi, khiến cho các chúng sinh sử dụng theo ý, hưởng thụ khoái lạc với đủ thứ ẩm thực, y phục, ngọa cụ, cung điện, nhà cửa, cây cối, vườn rừng, sông ao, suối giếng.v.v... Những vật như vậy nhân nương vào đất đều đầy đủ hết. Như vậy, thưa đức Thế Tôn ! Những chúng sinh này vì biết ơn con nên tác khởi ý nghĩ này : “Ta phải nhất định thính thọ Kinh này, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán !”. Nghĩ thế rồi, họ liền từ chỗ ở, hoặc thành ấp, tụ lạc, nhà cửa, đất trống mà đi đến chỗ pháp hội mà thính thọ Kinh này. Đã thính thọ rồi, họ trở lại chỗ ở của mình, đều mừng cho nhau mà nói lên rằng : “Chúng ta hôm nay nghe được diệu pháp thậm thâm vô thượng này, đã được nhiếp lấy chẳng thể nghĩ bàn công đức tụ, gặp gỡ vô lượng vô biên các đức Phật, quả báo ba đường ác đã được giải thoát, vào đời vị lai thường sinh lên trời, trong loài người, hưởng thọ khoái lạc”. Những chúng sinh đó đều ở tại trú xứ, hoặc vì người khác diễn nói Kinh này, hoặc nói một ví dụ, một phẩm, một duyên, hoặc lại xưng tán một đức Phật, một vị Bồ tát, một bài kệ bốn câu... cho đến một câu mà xưng danh tự đầu đề Kinh này... Thưa đức Thế Tôn ! Tùy theo chỗ sở trụ của chúng sinh đó mà đất nơi ấy đầy đủ mầu mỡ phong thịnh hơn đất chỗ khác. Phàm vật sinh ra nhân đất này đều được tăng trưởng to rộng nhiều thêm khiến cho chúng sinh thụ hưởng được khoái lạc, của báu dư thừa, ưa làm bố thí, lòng thường kiên cố tin sâu Tam Bảo.
 Lúc bấy giờ, đức Phật bảo địa thần Kiên Lao rằng :
 - Nếu có chúng sinh thậm chí chỉ nghe nghĩa một câu của Kinh Kim Quang Minh này thì thọ mạng trong loài người hết được tùy ý vãng sinh lên Tam Thập Tam thiên. Này Địa thần ! Nếu có chúng sinh vì muốn cúng dường Kinh điển này mà trang nghiêm nhà cửa... cho đến giăng treo một phan một bảo cái, hoặc dùng một chiếc áo... thì sáu trời cõi Dục đã có cung điện thất bảo tự nhiên thì người này sau khi mạng chung liền vãng sinh về đó. Này Địa thần ! Ở trong những cung điện thất bảo, mỗi mỗi đều tự nhiên có bảy thiên nữ chung nhau vui sướng, ngày đêm thường hưởng thụ khoái lạc vi diệu chẳng thể nghĩ bàn.
 Bấy giờ, Địa thần bạch đức Phật rằng :
 - Thưa đức Thế Tôn ! Do nhân duyên khi Tỳkheo ngồi pháp tòa nói pháp, con thường ngày đêm hộ vệ chẳng rời, ẩn che thân mình và tại dưới pháp tòa, đảnh lễ dưới chân vị ấy, thưa đức Thế Tôn ! Nên nếu có chúng sinh ở trăm ngàn chỗ Phật gieo trồng thiện căn thì người nói pháp này vì những người đó mà ở cõi Diêm Phù Đề tuyên nói, lưu bố Kinh điển vi diệu này khiến cho chẳng đoạn tuyệt. Những chúng sinh đó nghe Kinh này rồi, đời vị lai vô lượng trăm ngàn na do tha kiếp, họ ở trên trời, trong loài người thường hưởng thọ khoái lạc, gặp gỡ các đức Phật, mau chóng thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, khổ của ba đường ác đều cắt đứt không còn.
  PHẨM THỨ MƯỜI LĂM : TÁN CHỈ QUỈ THẦN  
 Hán dịch : Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm - Đời Bắc Lương
 Lúc bấy giờ, Tán Chỉ Quỉ Thần đại tướng quân và hai mươi tám bộ những quỉ thần đều liền đứng dậy, trật áo vai phải quì gối phải xuống đất, bạch đức Phật rằng :
 - Thưa đức Thế Tôn ! Kinh điển vi diệu Kim Quang Minh này, nếu đời hiện tại và đời vị lai, ở tại khắp nơi nơi, hoặc thành ấp, tụ lạc, hoặc sơn trạch, chỗ trống, hoặc vương cung, nhà cửa... tùy theo chỗ lưu bố của Kinh điển này thì con sẽ cùng với hai mươi tám bộ đại quỉ thần này đi đến chỗ đó, ẩn che thân hình mà theo đuổi ủng hộ người nói pháp đó, tiêu diệt các ác khiến cho được yên ổn. Đối với chúng nghe pháp, hoặc nam hoặc nữ hay đồng nam, đồng nữ, ở trong Kinh này, thậm chí chỉ nghe được danh hiệu một đức Như Lai, một vị Bồ tát, và danh tự đầu đề của Kinh điển này mà thọ trì đọc tụng thì con sẽ theo hầu làm túc vệ ủng hộ, diệt hết ác của người ấy, khiến cho được yên ổn. Và quốc ấp, thành quách hay cung điện vua, nhà cửa, chỗ trống đều cũng như vậy. Thưa đức Thế Tôn ! Vì nhân duyên gì mà con tên là Tán Chỉ Quỉ Thần đại tướng ? Thưa vâng, đức Thế Tôn tự sẽ chứng biết. Thưa đức Thế Tôn ! Con biết tất cả pháp, tất cả duyên pháp, rõ tất cả pháp, biết rành rẽ pháp, như pháp an trụ tất cả pháp, như tính đối với tất cả pháp, hàm thọ tất cả pháp.
 Thưa đức Thế Tôn ! Con hiện thấy ánh sáng trí chẳng thể nghĩ bàn, đuốc trí chẳng thể nghĩ bàn, trí hạnh chẳng thể nghĩ bàn, trí tụ chẳng thể nghĩ bàn, trí cảnh chẳng thể nghĩ bàn. Thưa đức Thế Tôn ! Con đối với các pháp chánh giải, chánh quán được chánh phân biệt, chánh giải. Con đối với duyên chánh có thể hiểu rõ. Thưa đức Thế Tôn! Do vậy nên gọi là Tán Chỉ Đại Tướng. Thưa đức Thế Tôn ! Tán Chỉ Đại Tướng, con khiến cho người nói pháp trang nghiêm lời nói biện luận chẳng đoạn tuyệt, mọi vị tinh khí theo lỗ chân lông vào làm sung mãn thêm thân lực, lòng tinh tấn dũng nhuệ, thành tựu trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn, vào chánh ức niệm... Những việc như vậy đều khiến cho người nói pháp đó đầy đủ, lòng không mệt chán, thân thọ an vui, lòng được hoan hỷ. Do vậy nên người đó có thể vì chúng sinh rộng nói Kinh này. Nếu có các chúng sinh ở trăm ngàn chỗ Phật gieo trồng các thiện căn thì người nói pháp vì những chúng sinh đó, ở bên trong cõi Diêm phù đề tuyên dương, lưu bố rộng rãi Kinh điển vi diệu này khiến cho chẳng đoạn tuyệt. Vô lượng chúng sinh nghe Kinh này rồi sẽ được trí tụ chẳng thể nghĩ bàn, nhiếp lấy công đức tụ chẳng thể nghĩ bàn. Vào đời vị lai vô lượng trăm ngàn kiếp họ thường ở trong người, trời hưởng thụ khoái lạc. Vào đời vị lai họ gặp gỡ các đức Phật, mau chóng được chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tất cả mọi khổ và số phận ba đường ác diệt trừ vĩnh viễn không còn. Nam mô Bảo Hoa Công Đức Hải Lưu Ly Kim Sơn Quang Chiếu Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri ! Nam mô Vô Lượng Bách Thiên Ức Na Do Tha Trang Nghiêm Kỳ Thân Thích Ca Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri thắp lên đuốc pháp vi diệu như vậy ! Nam mô Đệ Nhất Uy Đức Thành Tựu Chúng Sự Đại Công Đức Thiên ! Nam mô Bất Khả Tư Lượng Trí Tuệ Công Đức Thành Tựu Đại Biện Thiên !
  PHẨM THỨ MƯỜI SÁU : CHÁNH LUẬN  
 Hán dịch : Tam Tạng Pháp Sư Đàm Vô Sấm - Đời Bắc Lương
 Lúc bấy giờ, đức Phật bảo địa thần Kiên Lao rằng :
 - Thuở quá khứ, có vị vua tên là Lực Tôn Tướng, vị vua ấy có người con tên là Tín Tướng chẳng bao lâu sẽ thọ ngôi Quán Đảnh, thống lĩnh đất nước. Bấy giờ, vua cha bảo thái tử Tín Tướng ấy rằng : “Đời có Chánh luận khéo trị đất nước ! Ta thuở xưa từng làm thái tử, chẳng bao lâu phải nối ngôi vua cha. Bấy giờ, vua cha mang Chánh luận đó mà vì ta giải nói. Ta dùng Chánh luận này khéo trị đất nước đến hai vạn năm, chưa từng một niệm dùng hạnh phi pháp, đối với quyến thuộc của mình, tình cảm không có ái trước”.
 Những gì là Chánh luận trị đời ? - Này Địa thần ! Bấy giờ, vua Lực Tôn Tướng vì thái tử Tín Tướng nói kệ này rằng :
 Ta nay sẽ nói 
 Chánh luận chư vương
 Vì lợi sinh chúng 
 Đoạn các nghi nan
 Vua người tất cả  
 Vua trời chư thiên
 Nên phải hoan hỷ 
 Chắp tay lắng lòng (nghe) :
 Các vua hòa hợp 
 Gom núi Kim Cương.
 Hộ Thế bốn trấn 
 Khởi hỏi Phạm Vương :
 - Đại sư Phạm tôn  
 Đấng Tự Tại Thiên
 Hay trừ nghi hoặc 
 Vì tôi đoạn tan
 Làm sao người đó 
 Được gọi là Thiên ?
 Làm sao nhân vương 
 Lại gọi thiên tử ?
 Trong loài người sinh 
 Sống ở vương cung
 Chính pháp trị thế 
 Mà gọi là Thiên (trời) ?
 Hộ Thế tứ vương 
 Hỏi xong việc đó
 Tôn sư Phạm Vương 
 Liền nói kệ đáp :
 - Các ông tuy dùng 
 Nghĩa này mà hỏi
 Ta nay cần phải 
 Vì mọi chúng sinh
 Nói bày tuyên dương 
 Thắng luận đệ nhất.
 Nhân Tập nghiệp nên 
 Sinh trong nhân gian
 Thống lĩnh đất nước 
 Nên xưng Nhân vương.
 Ở trong thai mẹ  
 Chư thiên thủ hộ
 Hoặc trước giữ gìn 
 Sau vào thai mẹ
 Tuy tại nhân trung 
 Mà làm Nhân vương
 Vì do trời hộ  
 Lại xưng thiên tử
 Tam Thập Tam thiên 
 Đều lấy đức mình.
 Chia cho người đó 
 Nên xưng thiên tử.
 Đã thêm sức thần 
 Nên được tự tại
 Pháp ác lìa khỏi 
 Khiến chẳng khởi lên
 An trụ pháp thiện 
 Tu khiến rộng thêm
 Hay khiến chúng sinh 
 Sinh lên thiên thượng
 Nửa tên Nhân vương. 
 Cũng tên Chấp Lạc,
 La sát dữ dằn  
 Làm ác hay ngăn.
 Cũng tên cha mẹ 
 Tu thiện dạy răn
 Thị hiện quả báo 
 Chư thiên đã hộ.
 Các nghiệp ác lành 
 Vị lai hiện tại
 Hiện chịu báo đền 
 Chư thiên đã hộ.
 Nếu có ác sự  
 Chẳng hỏi mà buông.
 Chẳng trị tội ấy 
 Chánh giáo chẳng dùng
 Bỏ xa thiện pháp 
 Ác tụ lớn tăng
 Nên khiến trong nước 
 Nhiều những tranh gian
 Tam Thập Tam thiên 
 Đều sinh sân hận
 Do vị quốc vương 
 Tha ác không trị
 Ác pháp hại dân 
 Gian trá xí thạnh.
 Oán địch tha phương 
 Tranh đến xâm lược
 Sở hữu nhà mình 
 Tiền tài trân bảo
 Giặc trộm ác hung 
 Chung nhau cướp đoạt.
 Pháp trị thế gian 
 Chẳng làm việc đó.
 Nếu làm việc đó 
 Nước ấy diệt tan
 Như con cuồng tượng (voi điên) 
 Dày xéo ao sen
 Gió dữ bỗng khởi 
 Mưa xấu thường tuôn
 Ác tinh xuất hiện 
 Nhật nguyệt vô quang
 Kết quả ngũ cốc 
 Đều chẳng nhiều thêm.
 Do vua bỏ chính 
 Khiến nước cơ hàn
 Trời ở cung điện 
 Đều ôm lo buồn.
 Do vua bạo ngược 
 Chẳng tu việc lành
 Lúc đó, Thiên đế 
 Nói với nhau rằng :
 - Vua này làm ác 
 Bạn cùng ác hung !
 Vì tạo tác ác  
 Bị trời giận hờn
 Do trời nổi giận 
 Chẳng lâu nước tan
 Phi pháp binh khí 
 Gian trá đấu tranh
 Dịch bệnh hoành hành 
 Dồn vào nước ấy.
 Tất cả trời liền 
 Lìa bỏ vua đó
 Khiến nước bại vong 
 Sinh đại sầu não.
 Anh em chị em 
 Vợ con quyến thuộc
 Lưu ly cô độc  
 Thân cũng diệt vong.
 Lưu tinh (sao băng) rơi rụng 
 Hai ngày hiện liền
 Giặc ác tha phương 
 Xâm lược cõi ấy.
 Nhân dân cơ hàn 
 Nhiều những dịch bệnh
 Đại thần trọng dụng 
 Lìa bỏ tử vong
 Voi ngựa xe cộ  
 Thoáng chốc diệt tan
 Gia tài sản nghiệp 
 Sở hữu quốc dân
 Tranh nhaucướp đọat 
 Chết vì đao binh
 Năm tinh các tú (tinh tú : sao)
 Trái mất độ thường (không theo quĩ đạo)
 Các dịch bệnh ác 
 Nước ấy lan tràn.
 Những người hưởng lộc 
 Sủng ái đại thần.
 Và những quan lại  
 Chuyên làm phi pháp.
 Làm ác như trên  
 Mà hưởng ân huệ
 Người tu pháp lành 
 Ngày ngày suy giảm
 Người ác pháp hành 
 Mà sinh cung kính.
 Thấy người tu hành 
 Lòng chẳng ngoái lại
 Nên khiến thế gian 
 Ba điều lạ khởi :
 Sao mất độ thường 
 Tuôn mưa gió dữ.
 Phá hoại pháp chân 
 Cam lộ vô thượng
 Những loài chúng sinh 
 Và đất mầu mỡ.
 Tệ ác kính nhường, 
 Người lành hủy báng
 Nên mưa đá tuông 
 Dịch bệnh, đói, chết
 Trái cây, gạo thóc 
 Suy giảm vị ngon
 Chúng sinh nhiều bệnh. 
 Nước ấy đầy tràn
 Quả ngon trái ngọt 
 Ngày ngày giảm dần
 Vị đắng thô ác  
 Theo thời tăng lên.
 Chỗ cũ du hí  
 Đáng yêu vô cùng
 Nay đều khô héo 
 Đáng yêu không còn.
 Đồ ăn chúng sinh  
 Thượng vị tinh diệu
 Tổn giảm dần dần 
 Ăn không bổ dưỡng
 Xấu xí dung nhan 
 Suy vi khí lực.
 Phàm việc uống ăn 
 Chẳng biết chán đủ,
 Dũng mãnh lực tinh 
 Diệt hết không có.
 Giải đãi chơi rong 
 Tràn đầy nước ấy.
 Tật khổ nhiều thêm 
 Bức thiết thân ấy.
 Biến động ác tinh 
 La sát làm loạn
 Nếu có Nhân vương 
 Làm theo phi pháp
 Bạn ác tăng lên 
 Tổn đạo nhân thiên,
 Ở trong ba cõi 
 Khổ não nhiều thêm.
 Khởi lên việc ác 
 Như vậy không lường
 Đều do Nhân vương 
 Ái trước quyến thuộc
 Cho họ tạo ác  
 Chẳng trị mà buông (tha).
 Nếu là chư thiên 
 Ủng hộ đời sống
 Thì vua như trên 
 Trọn chẳng được thế.
 Có người làm lành 
 Được sinh Thiên thượng,
 Người làm chẳng lành 
 Đọa ba đường ác
 Tam Thập Tam thiên 
 Sinh ra cháy nóng
 Do vua ác dung (túng) 
 Tha mà chẳng trị.
 Trái nghịch chư thiên 
 Và cha mẹ dạy
 Chẳng trị chánh chân 
 Chẳng phải con hiếu
 Khởi lên ác gian  
 Phá hoại đất nước.
 Chẳng nên bỏ buông (tha) 
 Phải chánh trị tội
 Vậy nên chư thiên 
  Hộ trì vua đó.
 Ác pháp diệt tan 
 Tu tập thiện căn
 Hiện thế chánh trị 
 Vương vị được tăng
 Nên đều vì nói : 
 Nghiệp lành, chẳng lành.
 Hay bày nhân quả 
 Nên được làm vương
 Chư thiên thủ hộ 
 Lân vương (vua ở gần) giúp đỡ
 Vì mình vì người 
 Tu chánh trị nước.
 Có người hoại nước 
 Chánh giáo phải dùng.
 Vì mạng và nước 
 Chánh pháp tu hành
 Chẳng nên làm ác 
 Ác chẳng nên dung (túng)
 Việc sở hữu khác 
 Chẳng ứng hoại nước
 Ác nhân (nhân duyên) nhiều gian (trá) 
 Nhiên hậu khuynh bại.
 Nếu khởi nhiều gian (trá) 
 Hủy hoại đất nước
 Như voi dữ nhất 
 Phá hoại ao sen.
 Oán hận chư thiên 
  Nên trời sinh não
 Khởi việc ác hung 
 Khắp cùng nước ấy.
 Vậy nên phải dùng 
 Chánh pháp trị thế,
 Dùng thiện hóa dân (nước) 
 Chẳng theo phi pháp.
 Thà mất mạng thân 
 Chẳng yêu quyến thuộc
 Với thân phi thân (người thân, chẳng phải người thân)
 Lòng luôn bình đẳng.
 Xem thân, phi thân 
 Hòa hợp làm một.
 Chánh hạnh danh xưng 
 Lưu trải ba cõi
 Chánh pháp trị dân (nước) 
 Người làm nhiều thiện,
 Thường dùng thiện tâm 
 Chiêm ngưỡng quốc vương
 Hay khiến thiên chúng 
 Đầy đủ mãn sung.
 Vậy nên Chánh trị 
 Gọi là Nhân vương
 Tất cả chư thiên  
 Vua người ái hộ.
 Giống như cha mẹ 
 Ủng hộ con mình
 Nên khiến nhật nguyệt 
 Các sao, năm tinh (tinh tú : sao)
 Theo phận tề chỉnh 
 Chẳng mất độ thường
 Gió mưa đúng lúc (theo đúng thời tiết) 
Không có tai ương
 Khiến nước phồn thịnh 
 An lạc tưng bừng
 Nhân dân tăng ích (thêm) 
 Quần chúng chư thiên.
 Do nhân duyên đó 
 Nên các Nhân vương
 Thì mất thân mạng 
 Ác chẳng nên làm,
 Chẳng nên lìa bỏ 
 Chính pháp bảo trân
 Do chính pháp bảo 
 Người đời yêu thương.
 Thường phải cận thân 
 Người tu chánh pháp
 Công đức tụ gom 
 Trang nghiêm thân ấy
 Với quyến thuộc mình 
 Luôn biết dừng đủ
 Phải xa ác nhân  
 Tu trị chính pháp.
 Dừng yên chúng sinh 
 Ở các thiện pháp 
 Dạy bảo hộ phòng  
 Khiến lìa bất thiện
 Nên đất nước yên,  
 Giàu thịnh vui sướng
 Vua đó cũng thêm  
 Uy đức đầy đủ
 Tùy theo nhân dân 
 Hành động ác pháp
 Cần phải phục hàng 
 Như pháp dạy răn
 Vua này sẽ được 
 Danh dự tốt lành
 Khéo hay nhiếp hộ 
 An lạc chúng sinh.