Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Ngủ dậy muộn là hoang phí một ngày;tuổi trẻ không nỗ lực học tập là hoang phí một đời.Sưu tầm
Chúng ta không thể đạt được sự bình an nơi thế giới bên ngoài khi chưa có sự bình an với chính bản thân mình. (We can never obtain peace in the outer world until we make peace with ourselves.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Không có ai là vô dụng trong thế giới này khi làm nhẹ bớt đi gánh nặng của người khác. (No one is useless in this world who lightens the burdens of another. )Charles Dickens
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Nay vui, đời sau vui, làm phước, hai đời vui.Kinh Pháp Cú (Kệ số 16)
Không làm các việc ác, thành tựu các hạnh lành, giữ tâm ý trong sạch, chính lời chư Phật dạy.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Đừng than khóc khi sự việc kết thúc, hãy mỉm cười vì sự việc đã xảy ra. (Don’t cry because it’s over, smile because it happened. )Dr. Seuss
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Đừng cố trở nên một người thành đạt, tốt hơn nên cố gắng trở thành một người có phẩm giá. (Try not to become a man of success, but rather try to become a man of value.)Albert Einstein
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Vãng Sanh Truyện »»
(獨湛性瑩, Dokutan Shōkei, 1628-1706): vị tăng của Hoàng Bá Tông Trung Quốc, tự là Độc Trạm (獨湛), xuất thân Huyện Bồ Điền (莆田), Phủ Hưng Hóa (興化府, Tỉnh Phúc Kiến), họ là Trần (陳). Năm 16 tuổi, ông theo xuất gia với Y Châu (衣珠) ở Tích Vân Tự (積雲寺), Ngộ Sơn (悟山). Sau đó, vào năm thứ 7 (1650) niên hiệu Thuận Trị (順治), ông đến tham học với Hoàn Tín Hành Di (亘信行彌) ở Thừa Thiên Tự (承天寺), rồi năm sau thì đến tham vấn Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦) ở Hoàng Bá Sơn (黃檗山). Đến năm thứ 3 (1654) niên hiệu Thừa Ứng (承應), ông theo Ẩn Nguyên sang Nhật. Vào năm thứ 3 (1663) niên hiệu Khoan Văn (寛文), khi Vạn Phước Tự (萬福寺, Manfuku-ji) ở Hoàng Bá Sơn, Vũ Trị (宇治, Uji) khánh thành, ông được cử làm chức quản lý Tây Đường. Đến tháng 5 năm sau, ông kế thừa dòng pháp của Ẩn Nguyên. Sau đó, thể theo lời cung thỉnh của Cận Đằng Trinh Dụng (近藤貞用) ở Kỳ Bổn (旗本), ông đến vùng Kim Chỉ (金指), Viễn Giang (遠江, Tōtōmi, thuộc Shizuoka-ken [靜岡縣]). Vào tháng 11 năm sau, cũng tại địa phương này ông sáng lập Sơ Sơn Bảo Lâm Tự (初山寶林寺). Sống nơi đây được 18 năm, vào năm đầu (1673) niên hiệu Diên Bảo (延寶), ông kiến lập Quốc Thoại Tự (國瑞寺) ở Phụng Dương Sơn (鳳陽山), Tân Điền (新田), Thượng Dã (上野, Ueno, thuộc Gunma-ken [群馬縣]). Đến tháng giêng năm thứ 2 (1682) niên hiệu Thiên Hòa (天和), ông làm trú trì đời thứ 4 của Vạn Phước Tự. Vào tháng 3 năm thứ 2 (1685) niên hiệu Trinh Hưởng (貞享) và tháng 9 năm thứ 3 (1689) niên hiệu Nguyên Lộc (元祿), ông mở Giới Đàn. Đến tháng giêng năm thứ 5 (1691) cùng niên hiệu trên, ông lui về ẩn cư tại Sư Tử Lâm (獅子林). Tuy nhiên, vào năm thứ 8 (1694) cùng niên hiệu trên, ông chuyển đến Bảo Lâm Tự, rồi đến năm thứ 10 thì thiết lập Giới Đàn Bồ Tát và trở về lại Sư Tử Lâm. Vào ngày 26 tháng giêng năm thứ 3 (1706) niên hiệu Bảo Vĩnh (寶永), ông thị tịch, hưởng thọ 79 tuổi. Ông là vị Thiền tăng có hành trì pháp môn Niệm Phật, cho nên được gọi là Niệm Phật Độc Trạm (念佛獨湛). Trước tác của ông để lại có Sơ Sơn Độc Trạm Thiền Sư Ngữ Lục (初山獨湛禪師語錄) 1 quyển, Sơ Sơn Lệ Hiền Lục (初山勵賢錄) 1 quyển, Sơ Sơn Độc Trạm Thiền Sư Hành Do (初山獨湛禪師行由) 1 quyển, Vĩnh Tư Tổ Đức Lục (永思祖德錄) 2 quyển, Ngô Sơn Cựu Cảo (梧山舊稿) 4 quyển, Khai Đường Pháp Ngữ (開堂法語) 1 quyển, Thí Thực Yếu Quyết (施食要訣) 1 quyển, Đương Ma Hóa Phật Chức Tạo Ngẫu Ty Tây Phương Cảnh Đồ Thuyết (當麻化佛織造藕絲西方境圖說) 1 quyển, Thọ Thủ Đường Tịnh Độ Thi (授手堂淨土詩) 1 quyển, Khuyến Tu Tác Phước Niệm Phật Đồ (勸修作福念佛圖), Xưng Tán Tịnh Độ Vịnh (稱讚淨土詠) 1 quyển, Độc Trạm Hòa Thượng Hành Lược (獨湛和尚行略) 1 quyển, Phù Tang Ký Quy Vãng Sanh Truyện (扶桑寄歸徃生傳) 2 quyển, Độc Trạm An Tâm Pháp Ngữ (獨湛安心法語) 1 quyển, Độc Trạm Thiền Sư Ngữ Lục (獨湛禪師語錄) 9 quyển, v.v. Môn nhân kế thừa dòng pháp của ông có 39 người như Viên Thông Thành Đạo (圓通成道), Duyệt Phong Đạo Chương (悅峰道章)—vị trú trì đời thứ 8 của Vạn Phước Tự, v.v.
(日本徃生極樂記, Nihonōjōgokurakuki): truyền ký về những người có dị tướng vãng sanh, được biên tập vào giữa thời đại Bình An, do Khánh Tư Bảo Dận (慶滋保胤, Yoshishige-no-Yasutane, 931-1002) trước tác, 1 quyển; còn gọi là Nhật Bản Vãng Sanh Truyện (日本徃生傳). Từ việc ký thuật câu chuyện của Thiên Quán (千觀) qua đời năm 983 (Vĩnh Quán [永觀] nguyên niên), tác phẩm này được xem như thành lập trong khoảng thời gian từ năm đó cho đến năm 986 (Khoan Hòa [寛和] thứ 2), khi Bảo Dận xuất gia. Rồi sau đó, ông còn ghi thêm truyện của Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi), Hành Cơ (行基, Gyōki) cũng như của 5, 6 người vãng sanh khác. Tác phẩm này bắt chước theo Tịnh Độ Luận (淨土論) của Ca Tài (迦才) nhà Đường, Vãng Sanh Tây Phương Tịnh Độ Thoại Ứng San Truyện (徃生西方淨土瑞應删傳) của Văn Thẩm (文諗), Thiếu Khang (少康), thâu lục các biệt truyện của mọi người, hay hạnh nghiệp của người vãng sanh từ những truyền văn xa xưa. Ký lục về những người vãng sanh có 45 trường hợp, bao hàm cả nam nữ, tăng tục, người tu hạnh Niệm Phật, tụng Kinh Pháp Hoa hay hành trì Chơn Ngôn, v.v. Thư tịch này được thâu lục vào trong phần Truyện Bộ của Quần Thư Loại Đồ (群書類圖), Tục Tịnh Độ Tông Toàn Thư (續淨土宗全書) 17, Đại Nhật Bản Phật Giáo Toàn Thư (大日本佛敎全書), Nhật Bản Vãng Sanh Toàn Truyện (日本徃生全傳), Nhật Bản Tư Tưởng Đại Hệ (日本思想大系) 7.
(托質): đồng nghĩa với thác sanh (托生), thác thai (s: garbhāvakrānti, p: gabbhāvakkanti, 托胎), tức thác sanh vào trong bào thai mẹ, hoặc chỉ cho sự thác sanh vào trong hoa sen ở thế giới Cực Lạc. Như trong Phật Thuyết A Di Đà Kinh Yếu Giải (佛說阿彌陀經要解) của Ngẫu Ích Trí Húc (蕅益智旭, 1599-1655) có đoạn: “Di Đà thánh chúng, bất lai nhi lai, thân thùy tiếp dẫn, hành nhân tâm thức, bất vãng nhi vãng, thác chất bảo liên hoa dã (彌陀聖眾、不來而來、親垂接引、行人心識、不徃而徃、托質寶蓮也, đức Phật Di Đà và thánh chúng, không đến mà đến, gần gủi tiếp dẫn, tâm thức hành giả, không đi mà đi, thác sanh vào hoa sen báu).” Hay trong Ngẫu Ích Đại Sư Tịnh Độ Tuyển Tập (蕅益大師淨土選集), phần Truyện Ký, Tụng Chửu Sư Vãng Sanh Truyện (誦帚師徃生傳) có đoạn: “Sư toại thị tật, triệu dư trợ kỳ niệm Phật, mạng thị giả trừ phát dục thân; dục tất, đoan tọa, cử thủ nhi thệ, chánh niệm phân minh, thần thanh khí định; việt nhị thời, đảnh hiển thượng noãn, thác chất liên nhụy, vô nghi dã (師遂示疾、召予助其念佛,命侍者除发浴身;浴毕、端坐,举手而逝。召予助其念佛、命侍者除發浴身、浴畢、端坐、舉手而逝、正念分明,神清气定。正念分明、神清氣定、越二时,顶显尚暖。越二時、頂顯尚暖、托质莲蕊,无疑也。托質蓮蕊、無疑也, sư bèn cáo bệnh, mời tôi đến giúp sư niệm Phật, sai thị giả xuống tóc, tắm rửa thân thể; tắm xong, sư ngồi ngay ngắn, vẩy tay chào mà đi, chánh niệm rõ ràng, thần khí trong sáng, định tĩnh; trãi qua hai thời gian, trên đỉnh đầu sư vẫn còn ấm, quả là thác sanh vào nhụy hoa sen, chẳng còn nghi ngờ gì cả).” Cũng như trong Sanh Tử Quan Toàn Tập (生死關全集), Thiên Chuyển Nữ Thành Nam (轉女成男篇) do Cư Sĩ Trần Do Bân (陳由斌) biên soạn có câu: “Cánh hữu dị phương tiện, chuyên niệm A Di Đà, thác chất diệu Liên Hoa, tật đắc bất thối chuyển (更有異方便、專念阿彌陀、托質妙蓮華、疾得不退轉, lại có phương tiện khác, chuyên niệm A Di Đà, thác sanh hoa sen mầu, mau được không thối chuyển).”
(徃生): sau khi mạng chung sanh vào thế giới khác; thông thường từ này được dùng thay thế cho từ “chết”. Nếu nói về nghĩa rộng, vãng sanh có nghĩa là thọ sanh vào Ba Cõi, Sáu Đường cũng như Tịnh Độ của chư Phật; nhưng sau khi thuyết Di Đà Tịnh Độ (彌陀淨土) trở nên thịnh hành, từ này chủ yếu ám chỉ thọ sanh về thế giới Cực Lạc (s: Sukhāvatī, 極樂). Vãng sanh được chia làm 3 loại:
(1) Cực Lạc Vãng Sanh (極樂徃生), căn cứ vào thuyết của Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經), Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量壽經) và A Di Đà Kinh (阿彌陀經); tức là xa lìa thế giới Ta Bà (s, p: sahā, 娑婆), đi về cõi Cực Lạc Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà ở phương Tây, hóa sanh trong hoa sen của cõi đó.
(2) Thập Phương Vãng Sanh (十方徃生), căn cứ vào thuyết của Thập Phương Tùy Nguyện Vãng Sanh Kinh (十方隨願徃生經), tức vãng sanh về các cõi Tịnh Độ khác ngoài thế giới của đức Phật A Di Đà.
(3) Đâu Suất Vãng Sanh (兜率徃生), y cứ vào thuyết của Di Lặc Thượng Sanh Kinh (彌勒上生經) cũng như Di Lặc Hạ Sanh Kinh (彌勒下生經); có nghĩa rằng Bồ Tát Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒) hiện đang trú tại Nội Viện Đâu Suất (s: Tuṣita, p: Tusita, 兜率), đến 16 ức 7 ngàn vạn năm sau, Ngài sẽ giáng sanh xuống cõi Ta Bà để hóa độ chúng sanh. Người tu pháp môn này sẽ được vãng sanh về cung trời Đâu Suất, tương lai sẽ cùng Bồ Tát Di Lặc xuống thế giới Ta Bà. Phần nhiều hành giả Pháp Tướng Tông (法相宗) đều tu theo pháp môn này.
Ngoài ra, còn có các tín ngưỡng vãng sanh khác như người phụng thờ đức Phật Dược Sư (s: Bhaiṣajyaguru, 藥師) thì sẽ được vãng sanh về thế giới Tịnh Lưu Ly (淨瑠璃) của Ngài; người phụng thờ Bồ Tát Quán Thế Âm (s: Avalokiteśvara, 觀世音) thì được vãng sanh về cõi Bổ Đà Lạc Ca (s: Potalaka, 補陀洛迦); người tín phụng đức Phật Thích Ca (s: Śākya, p: Sakya, 釋迦) thì được sanh về Linh Thứu Sơn (靈鷲山); người tín phụng Hoa Nghiêm Kinh (s: Buddhāvataṃsaka-nāma-mahāvaipulya-sūtra, 華嚴經) thì được vãng sanh về Hoa Tạng Giới (華藏界); tuy nhiên, các tín ngưỡng này rất ít, nên vẫn chưa hình thành tư trào. Như đã nêu trên, Cực Lạc Vãng Sanh và Đâu Suất Vãng Sanh là hai dòng tư tưởng chủ lưu của Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, v.v. Đối với Tam Luân Tông, Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm Tông, Thiền Tông, v.v., Cực Lạc Vãng Sanh là phương pháp tự lực thành đạo. Riêng đối với Tịnh Độ Tông, tư tưởng này nương vào sự cứu độ của đức giáo chủ Di Đà làm con đường thành Phật, nên được gọi là Tha Lực Tín Ngưỡng. Còn Đâu Suất Vãng Sanh là tư tưởng thích hợp đối với Pháp Tướng Tông, được xem như là pháp môn phương tiện tu đạo. Tại Nhật Bản, trong Tây Sơn Tịnh Độ Tông (西山淨土宗) có lưu hành 2 thuyết về vãng sanh là Tức Tiện Vãng Sanh (卽便徃生) và Đương Đắc Vãng Sanh (當得徃生). Tịnh Độ Chơn Tông thì chủ trương thuyết Hóa Sanh (化生) vãng sanh về Chân Thật Báo Độ (眞實報土), và Thai Sanh (胎生) vãng sanh về Phương Tiện Hóa Độ (方便化土), v.v. Một số tác phẩm của Trung Quốc về tư tưởng vãng sanh như An Lạc Tập (安樂集, 2 quyển) của Đạo Xước (道綽, 562-645) nhà Đường, Vãng Sanh Luận Chú (徃生論註, còn gọi là Tịnh Độ Luận Chú [淨土論註], 2 quyển) của Đàm Loan (曇鸞, 476-?) thời Bắc Ngụy, v.v. Về phía Nhật Bản, cũng có khá nhiều thư tịch liên quan đến tư tưởng này như Vãng Sanh Thập Nhân (徃生拾因, 1 quyển) của Vĩnh Quán (永觀); Vãng Sanh Yếu Tập (徃生要集) của Nguyên Tín (源信); Nhật Bản Vãng Sanh Cực Lạc Ký (日本徃生極樂記) của Khánh Tư Bảo Dận (慶滋保胤); Tục Bản Triều Vãng Sanh Truyện (續本朝徃生傳) của Đại Giang Khuông Phòng (大江匡房); Thập Di Vãng Sanh Truyện (拾遺徃生傳), Hậu Thập Di Vãng Sanh Truyện (後拾遺徃生傳) của Tam Thiện Vi Khang (三善爲康); Tam Ngoại Vãng Sanh Truyện (三外徃生傳) của Liên Thiền (蓮禪); Bản Triều Tân Tu Vãng Sanh Truyện (本朝新修徃生傳) của Đằng Nguyên Tông Hữu (藤原宗友); Cao Dã Sơn Vãng Sanh Truyện (高野山徃生傳) của Như Tịch (如寂), v.v. Thần chú trì tụng để được vãng sanh về cõi Tịnh Độ là Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sanh Tịnh Độ Đà La Ni (拔一切業障根本得生淨土陀羅尼), còn gọi là Vãng Sanh Quyết Định Chơn Ngôn (徃生決定眞言) hay Vãng Sanh Tịnh Độ Thần Chú (徃生淨土神呪). Trong Tịnh Độ Chứng Tâm Tập (淨土證心集) của Vạn Liên Pháp Sư (卍蓮法師) nhà Thanh có câu: “Tam Giáo đồng nguyên, thống Nho Thích Đạo, câu kham niệm Phật, nhất tâm quy mạng, cụ Tín Nguyện Hạnh, tận khả vãng sanh (三敎同源、統儒釋道、俱堪念佛、一心歸命、具信願行、盡可徃生, Ba Giáo cùng gốc, cả Nho Thích Đạo, đều chung Niệm Phật; một lòng quy mạng, đủ Tín Nguyện Hạnh, thảy được vãng sanh).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập