Việc người khác ca ngợi bạn quá hơn sự thật tự nó không gây hại, nhưng thường sẽ khiến cho bạn tự nghĩ về mình quá hơn sự thật, và đó là khi tai họa bắt đầu.Rộng Mở Tâm Hồn
Dầu giữa bãi chiến trường, thắng ngàn ngàn quân địch, không bằng tự thắng mình, thật chiến thắng tối thượng.Kinh Pháp cú (Kệ số 103)
Không có sự việc nào tự thân nó được xem là tốt hay xấu, nhưng chính tâm ý ta quyết định điều đó. (There is nothing either good or bad but thinking makes it so.)William Shakespeare
Sự hiểu biết là chưa đủ, chúng ta cần phải biết ứng dụng. Sự nhiệt tình là chưa đủ, chúng ta cần phải bắt tay vào việc. (Knowing is not enough; we must apply. Willing is not enough; we must do.)Johann Wolfgang von Goethe
Mỗi cơn giận luôn có một nguyên nhân, nhưng rất hiếm khi đó là nguyên nhân chính đáng. (Anger is never without a reason, but seldom with a good one.)Benjamin Franklin
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Người nhiều lòng tham giống như cầm đuốc đi ngược gió, thế nào cũng bị lửa táp vào tay. Kinh Bốn mươi hai chương
Càng giúp người khác thì mình càng có nhiều hơn; càng cho người khác thì mình càng được nhiều hơn.Lão tử (Đạo đức kinh)
Thành công không phải là chìa khóa của hạnh phúc. Hạnh phúc là chìa khóa của thành công. Nếu bạn yêu thích công việc đang làm, bạn sẽ thành công. (Success is not the key to happiness. Happiness is the key to success. If you love what you are doing, you will be successful.)Albert Schweitzer
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Văn Tinh »»
(膨際靖, Hō Saisei, 1740-1796): họ Bành (膨), húy là Tế Tĩnh (際靖), hiệu Tri Quy Tử (知歸子). Ban đầu, ông học sách Nho, luận bác bài xích Phật Giáo; nhưng về sau ông được tiếp xúc với các luận sư như Minh Đạo (明道), Tượng Sơn (象山), Dương Minh (陽明), Lương Khê (梁谿), mới biết rõ sự quy nhất của Tam Giáo. Từ đó, ông bắt đầu đóng cửa cấm túc ở Văn Tinh Các (文星閣), chuyên tu pháp môn Niệm Phật Tam Muội trong vòng hơn 10 năm. Đến năm thứ 40 (1775) niên hiệu Càn Long (乾隆), ông viết xong bộ Cư Sĩ Truyện (居士傳) gồm 56 quyển. Ngoài ra, ông còn trước một số tác phẩm khác liên quan đến Tịnh Độ như Vô Lượng Thọ Kinh Khởi Tín Luận (無量壽經起信論) 3 quyển, Vô Lượng Thọ Phật Kinh Ước Luận (無量壽佛經約論) 1 quyển, A Di Đà Kinh Ước Luận (阿彌陀經約論) 1 quyển, Nhất Thừa Quyết Nghi Luận (一乘決疑論) 1 quyển, Hoa Nghiêm Niệm Phật Tam Muội Luận (華嚴念佛三昧論) 1 quyển, Niệm Phật Cảnh Sách (念佛警策) 2 quyển, Thiện Nữ Nhân Truyện (善女人傳) 2 quyển, v.v. Ngoài ra, ông có hiệu đính Tỉnh Am Pháp Sư Ngữ Lục (省菴法師語錄) 2 quyển, và Trùng Đính Tây Phương Công Cứ (重訂西方公據).
(良源, Ryōgen, 912-985): vị tăng của Thiên ThaiTông Nhật Bản, sống dưới thời đại Bình An, thụy hiệu Từ Huệ Đại Sư (慈慧大師), người đời thường gọi ông là Nguyên Tam Đại Sư (元三大師), Ngự Miếu Đại Sư (御廟大師), Giác Đại Sư (角大師), Đậu Đại Sư (豆大師), họ là Mộc Tân (木津), xuất thân vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Năm lên 12 tuổi, ông theo học pháp với Lý Tiên (理仙), và sau khi thầy qua đời, ông đến thọ giới với Thiên Thai Tọa Chủ Tôn Ý (尊意, Soni), rồi theo học với Hỷ Khánh (喜慶, Kikei), Giác Huệ (覺惠, Kakue) và Vân Tình (雲晴, Unsei). Vào năm 937, tại Duy Ma Hội của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji), ông đã đối luận với Nghĩa Chiêu (義昭, Gishō) của Nguyên Hưng Tự (元興寺, Gankō-ji) và hàng phục được vị này. Đến năm 963, tại Pháp Hoa Hội ở Thanh Lương Điện, ông lại luận phá được Pháp Tàng (法藏, Hōzō) của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), nên thanh danh của ông vang khắp thiên hạ. Năm 964, ông được liệt vào hàng Nội Cúng Phụng (內供奉, hàng ngũ của 10 vị Thiền Sư), rồi năm sau thì làm Quyền Luật Sư, năm kế đến thì trở thành Thiên Thai Tọa Chủ. Trong thời gian làm Tọa Chủ được khoảng 20 năm, ông đã nỗ lực phục hưng Giảng Đường và giáo dưỡng đồ chúng. Chính ông đã định ra Nhị Thập Lục Điều Thức (二十六條式) để chỉnh đốn quy luật trongSơn Môn. Ông được sùng ngưỡng như là vị Tổ Sư thời Trung Hưng, và ngoài thế gian thì sùng bái như là hóa thân của Quan Âm, hay của Bất Động Minh Vương Bồ Tát. Môn hạ của ông có một số nhân vật kiệt xuất như Nguyên Tín (源信, Genshin), Giác Vận (覺運, Kakuun), Tầm Thiền (尋禪, Jinzen), Giác Siêu (覺超, Kakuchō) và hơn 3000 người. Trước tác của ông để lại có Bách Ngũ Thập Tôn Khẩu Quyết (百五十尊口訣), Cửu Phẩm Vãng Sanh Nghĩa (九品徃生義), Danh Biệt Nghĩa Thông Tư Ký (名別義通私記), Thai Kim Niệm Tụng Hành Ký (胎金念誦行記).
có tên gọi khác như Phạp Nguyệt (乏月), Hoang Nguyệt (荒月), Dương Nguyệt (陽月), Nông Nguyệt (農月), Càn Nguyệt (乾月), Tỵ Nguyệt (巳月), Úy Nguyệt (畏月), Vân Nguyệt (雲月), Hòe Nguyệt (槐月), Mạch Nguyệt (麥月), Chu Nguyệt (朱月), Dư Nguyệt (餘月), Thủ Hạ (首夏), Hạ Thủ (夏首), Mạnh Hạ (孟夏), Sơ Hạ (初夏), Duy Hạ (維夏), Thỉ Hạ (始夏), Hòe Hạ (槐夏), Đắc Điểu Vũ Nguyệt (得鳥羽月), Hoa Tàn Nguyệt (花殘月), Trọng Lữ (仲侶、仲呂), Thuần Dương (純陽), Thuần Càn (純乾), Chánh Dương Nguyệt (正陽月), Hòa Nguyệt (和月), Mạch Thu Nguyệt (麥秋月), Mạch Hầu (麥候), Mạch Tự (麥序), Lục Dương (六陽), Mai Nhục (梅溽), Mai Nguyệt (梅月), Thanh Hòa (清和), Chu Minh (朱明), Phạp Hạ (乏夏), Xuân Dư (春餘), Hòe Tự (槐序), Anh Tự (櫻序). Một số câu hay cho tháng Tư như Hòe phong mị Hạ (槐風媚夏, gió đưa cây Hòe nịnh hót mùa Hè), mạch Hạ phiên Thu (麥夏翻秋, mùa Hè lúa chuyển sang Thu), ngũ phong mạch thục (五風麥熟, năm gió làm lúa chín), tế vũ mai phì (細雨梅肥, mưa nhẹ làm cho Mai tươi tốt), Chu Minh bố lệnh (朱明布令, Chu Minh ban lệnh), Xích Đế ty quyền (赤帝司權, Xích Đế nắm quyền). Một số từ dùng cho tháng Tư nhuận như nguyệt tiêu kỷ nhuận (月蕭紀閏, trăng tiêu điều tháng năm nhuận), thử khí sơ lai (暑氣初來, khí nóng bắt đầu đến), vân đường nghênh Hạ (雲堂迎夏, nhà mây đón mùa Hè), tuyết sơn tống Xuân (雪山送春, núi tuyết tiễn Xuân đi). Một số từ dùng cho truy điệu vào tháng này như Mai hoàng sầu vũ (梅黃愁雨, Mai vàng buồn mưa), mạch thục bi phong (麥熟悲風, lúa chín sầu gió). Từ dùng cho Lập Hạ là Hạ hành triệu thỉ (夏衡肇始, mùa Hè thật sự bắt đầu), viêm đức phương tân (炎德方新, khí nóng càng mới), quỳ hoa hướng dương (葵花向陽, hoa Quỳ hướng về mặt trời), trúc diệp thùy âm (竹葉垂陰, lá tre tìm bóng râm), tân hà thiếp thủy (新荷貼水, sen mới bám vào nước), trĩ trúc thành âm (稚竹成陰, tre non thành bóng râm), lục long hành Hạ (六龍行夏, sáu rồng đi khắp mùa Hè), vạn tính thư Hạ (萬姓舒憂, muôn họ thư thả hưởng mùa Hè).
(前田利家, Maeda Toshiie, 1538-1599): vị Võ Tướng dưới thời đại An Thổ Đào Sơn, Tổ khai sáng ra vùng Gia Hạ (加賀, Kaga); xuất thân vùng Vĩ Trương (尾張, Owari); tên lúc nhỏ là Khuyển Thiên Đại (犬千代); biệt danh là Hựu Tả Vệ Môn (又左衞門), Hựu Tả (又左), Hựu Tứ Lang (又四郎), Tôn Tứ Lang (孫四郎), Việt Trung Thiếu Tướng (越中少將), Vũ Sài Trúc Tiền Thủ (羽柴筑前守); giới danh là Cao Đức Viện Đào Vân Tịnh Kiến Đại Cư Sĩ (高德院桃雲淨見大居士); thân phụ là Tiền Điền Lợi Xuân (前田利春, Maeda Toshiharu), thân mẫu là Trường Linh Viện (長齡院). Ông từng làm việc cho Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga) cũng như Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi). Sau khi Tú Cát qua đời, ông trợ tá cho Tú Lại (秀賴, Hideyori) với tư cách là một trong 5 Lão Nhân hàng đầu.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập