Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Chúng ta sống bằng những gì kiếm được nhưng tạo ra cuộc đời bằng những gì cho đi. (We make a living by what we get, we make a life by what we give. )Winston Churchill
Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc chi là khó. Ví như dòng nước nhỏ mà chảy mãi thì cũng làm mòn được hòn đá.Kinh Lời dạy cuối cùng
Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thường tự xét lỗi mình, đừng nói lỗi người khác. Kinh Đại Bát Niết-bàn
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Bạn có biết là những người thành đạt hơn bạn vẫn đang cố gắng nhiều hơn cả bạn?Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Yêu ma »»
(結草含[銜]環): hay hàm hoàn kết thảo (含環結草、銜環結草), nghĩa là kết cỏ ngậm vành. Kết thảo (結草, kết cỏ) vốn phát xuất từ câu chuyện trong Tả Truyện (左傳), phần Tuyên Công Thập Ngũ Niên (宣公十五年). Ngụy Võ Tử (魏武子) là quan Đại Phu nhà Tần, có một người vợ lẽ rất đẹp. Tục lệ nước Tần, hễ chồng chết thì phải chôn người thiếp chết theo. Lúc bình thường, Ngụy Võ Tử dặn con trưởng Ngụy Khỏa (魏顆) rằng khi ông chết thì đừng chôn người thiếp đó theo, mà hãy tìm nơi tử tế gả nàng. Nhưng sau đó, khi Ngụy Võ Tử đau gần chết thì lại dặn con là chôn người thiếp ấy theo. Đến khi Ngụy Võ Tử chết, Ngụy Khỏa không chôn người thiếp của cha, sau đó lại tìm người tử tế gả nàng để nương nhờ tấm thân. Có người thắc mắc, Ngụy Khỏa đáp rằng: “Tật bệnh tắc loạn, ngô tùng kỳ trị dã (疾病則亂、吾從其治也, khi bị tật bệnh thì không sáng suốt, ta cứ theo lời dặn trước đây của người vậy).” Về sau, Ngụy Khỏa lên làm tướng nước Tần, đánh nhau với tướng của nước Tấn là Đỗ Hồi (杜回) rất vũ dũng, ít ai thắng nổi, Ngụy Khỏa thường thua. Có một hôm, Ngụy Khỏa và Đỗ Hồi ra trận, đánh nhau trên một bãi cỏ, Ngụy Khỏa thấy mường tượng như có một ông già đang cúi xuống kết cỏ thành từng vòng dưới chân ngựa của Đỗ Hồi, khiến cho ngựa của Đỗ Hồi vướng cỏ ngã lăn ra, Đỗ Hồi cũng ngã theo, bị Ngụy Khỏa bắt đem về, thắng trận vẻ vang. Đêm hôm ấy, Ngụy Khỏa mộng thấy ông già kết cỏ về bảo rằng: “Dư, nhi sở giá phụ nhân chi phụ dã, nhĩ dụng tiên nhân chi trị mệnh, dư thị dĩ báo (余、而所嫁婦人之父也、爾用先人之治命、余是以報, tôi là cha của người thiếp do ông đã gả chồng, ông biết theo lời dặn sáng suốt của tiền nhân để gả chồng cho con gái tôi, tôi lấy việc đó để báo ơn ông).” Do điển tích này, từ ngữ kết thảo thường được dùng để chỉ việc đền ơn đáp nghĩa. Từ hàm hoàn (銜環, 含環, ngậm vành) có xuất xứ từ câu chuyện trong Hậu Hán Thư (後漢書) quyển 54, Truyện Dương Chấn (楊震傳) có chú dẫn Tục Tề Hài Ký (續齊諧記) của Ngô Quân (吳均, 469-520) nhà Lương thời Nam Triều. Chuyện kể rằng vào thời nhà Hán, có Dương Bảo (楊寶), lúc 9 tuổi, đi chơi đến phía bắc núi Hoa Âm (華陰), thấy một con chim sẻ vàng bị con chim cú đánh rơi xuống gốc cây, lại bị kiến lửa bu đốt. Dương Bảo lấy làm thương hại, bắt đem về nhà chăm sóc, nuôi cho đến khi chim sẻ khỏe mạnh, lông mọc đầy đủ mới thả cho bay đi. Đêm hôm ấy, Dương Bảo bỗng thấy một đứa bé mặc áo vàng ngậm một vòng ngọc, chạy vào trướng, đến trước mặt Dương Bảo nói: “Ngã Tây Vương Mẫu Sứ Giả, quân nhân ái cứu chửng, thật cảm thành tế (我西王母使者、君仁愛救拯、實感成濟, tôi là Sứ Giả của Tây Vương Mẫu, ông nhân ái cứu sống tôi, thực cảm đội ơn cứu mạng).” Rồi lấy bốn chiếc vòng ngọc trắng trao cho Dương Bảo và nói tiếp: “Linh quân tử tôn khiết bạch, vị đăng Tam Sự, đương như thử hoàn (令君子孫潔白、位登三事、當如此環矣, mong cho con cháu của ông luôn trong trắng, liêm khiết, sau này hiển đạt lên Tam Công [Thái Úy, Tư Đồ, Tư Không], giống như mấy chiếc vòng này).” Nói xong, cậu bé áo vàng để lại vòng ngọc, từ tạ bay mất. Thuật ngữ “kết thảo hàm hoàn” trở thành thông dụng và rất phổ biến trong văn học dân gian. Như trong tác phẩm Hôi Lan Ký (灰闌記) phần 1 của Lý Hành Đạo (李行道, ?-?) nhà Nguyên có câu: “Đa tạ đại nương tử, tiểu nhân kết thảo hoàn hàm, thử ân tất đương trọng báo (多謝大娘子、小人結草銜環、此恩必當重報, xin đa tạ đại nương tử, kẻ tiểu nhân kết cỏ ngậm vành, ơn này tất sẽ báo đáp).” Hay trong Tây Du Ký (西遊記), hồi 37 lại có đoạn: “Kim lai chí tâm bái khẩn, thiên khất đáo ngã quốc trung, chưởng trụ Yêu ma, biện minh tà chánh, Trẫm đương kết thảo hàm hoàn, báo thù sư ân dã (今來志心拜懇、千乞到我國中、拿住妖魔、辨明邪正、朕當結草銜環、報酬師恩也, nay đến đây thành tâm lạy khẩn thiết, ngàn lần cầu xin Người đến nước tôi, dẹp trừ Yêu ma, làm rõ chánh tà, Trẫm sẽ kết cỏ ngậm vành, báo đáp ơn của Đại Sư).” Ngay như trong Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du (阮攸, 1765-1820) cũng có câu: “Rằng tôi bèo bọt chút thân, lạc đàn mang lấy nợ nần yến oanh, dám nhờ cốt nhục tử sinh, còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau.”
(普庵印肅, 1115-1169), còn gọi là Phổ Am Thiền Sư (普庵[菴]禪師), Phổ Am Tổ Sư (普庵祖師); trong dân gian vẫn thường gọi là Phổ Án (普唵). Ngài là bậc cao tăng của Lâm Tế Tông, pháp từ của Mục Am Pháp Trung (牧庵法忠), sanh vào năm thứ 5 (1115) niên hiệu Chính Hòa (政和) đời vua Huy Tông (徽宗, tại vị 1100-1125) nhà Tống; xuất thân Nghi Xuân (宜春), Viên Châu (袁州); họ là Dư (余), dung mạo rất kỳ khôi, thiên tánh mẫn tuệ. Khi hạ sanh ông, mẫu thân mộng thấy ánh sáng tỏa khắp bầu trời, hoa sen sanh trên lối đi. Lúc còn nhỏ, Phổ Am mộng thấy một vị dị tăng chỉ vào ngực ông mà bảo rằng: “Ngươi ngày kia sẽ tỉnh ngộ.” Tỉnh dậy, ông đem câu chuyện ấy kể cho mẹ nghe, người mẹ bèn vạch ngực ông ra xem thì quả nhiên có một điểm màu hồng như trái đào. Vào năm 1134 (Thiệu Hưng [紹興] 4), lúc 20 tuổi, ông xuất gia với Thiền Sư Thọ Long Hiền (壽隆賢); rồi đến năm 1141 (Thiệu Hưng 11) mới được xuống tóc và năm sau thì thọ giới ở Khai Nguyên Tự (開元寺), Viên Châu (袁州). Vào năm 1143 (Thiệu Hưng 13), ông đến dạo chơi Hồ Tương (湖湘), tham yết Thiền Sư Yết Mục Am Pháp Trung (牧庵法忠), được vị này khai thị cho nên tỉnh ngộ. Sau ông trở về Thọ Long Viện (壽隆院). Đến năm 1153 (Thiệu Hưng 23), năm lên 39 tuổi, ông được thỉnh làm Trú Trì Từ Hóa Tự (慈化寺) ở Nghi Xuân, Giang Tây (江西). Ông thường mặc áo vải thô sơ, lưng chưa hề chấm chiếu, chuyên tâm Thiền định, nhân một hôm đọc đến đoạn “đạt bổn tình vong, tri tâm thể hợp (達本情忘、知心體合, đạt gốc tình quên, biết tâm thể hợp)” trong Kinh Hoa Nghiêm thì hoát nhiên tỉnh ngộ. Vào năm 1169 (Càn Đạo [乾道] 5, đời vua Hiếu Tông [孝宗, tại vị 1162-1189] nhà Nam Tống), ông tắm rửa, viết bài kệ, ngồi xếp bằng viên tịch. Bộ Phổ Am Ấn Túc Thiền Sư Ngữ Lục (普菴印肅禪師語錄), 3 quyển, của ông hiện được thâu lục trong bộ Vạn Tân Toản Tục Tạng Kinh (卍新纂續藏經, Vol. 69, No. 1356). Do vì khi còn tại thế, có rất nhiều truyền thuyết linh nghiệm về ông, sau khi qua đời, Thiền Sư Phổ Am được mọi người tín ngưỡng, trở thành một vị thần thánh của Phật Giáo chuyên tiêu tai, giải ách. Như vào năm 1156 (Thiệu Hưng 26), một hôm nọ Thiền Sư mở pháp hội, mọi người đến tham dự rất đông; vì vậy quan phủ cho người đến điều tra xem thử hư thực thế nào, nhưng đột nhiên cuồng phong, mưa lớn, trên trời hiện ra một con rồng lớn, nên quan phủ không dám điều tra, bèn quay trở về. Lại có hôm nọ, đáp ứng lời mời của người tín đồ tên Trần Thiên Chương (陳天章), cử hành pháp sự tại tư gia của người này, nhưng chỉ sai chúng tăng tụng một bộ Kinh Kim Cang. Nhân đó, Trần Thiên Chương không vui lòng, vì vậy Thiền Sư Phổ Am phải tụng thêm một bộ Kinh Kim Cang nữa. Về sau, Trần Thiên Chương bị chết sấp giữa đường, rồi ba ngày sau thì tái sanh lại, tự cho là ông bị dẫn xuống Địa Phủ, Phán Quan quở trách ông rằng: “Sao nhà ngươi lại bất kính với Thiền Sư Phổ Am, rồi bắt tụng thêm biến Kinh Kim Cang.” Sau đó, Trần Thiên Chương lại mang một xâu tiền đèn dầu cúng cho Thiền Sư và nhân đó Thiền Sư viết lên lên lưng ông bốn chữ “thí tài công cứ (施財功據, công đức bố thí tiền tài)”. Sau khi Trần Thiên Chương qua đời, trong một gia đình họ Cam (甘) hạ sanh một đứa bé, trên lưng đứa bé ấy xuất hiện dấu tích bốn chữ như vậy. Tương truyền Thiền Sư rất sùng kính Kinh Kim Cang, từng dùng máu mình viết bộ kinh này trong vòng 5 năm trường và sau đó được tôn thờ tại Từ Hóa Tự. Bộ kinh này cùng với bài văn bia Kim Cang Kinh của thi hào Tô Đông Pha (蘇東坡, 1036-1101) ở Huệ Lực Tự (慧力寺), Lâm Giang (臨江), được xem như là hai bảo vật vô giá về Kinh Kim Cang của Giang Tây. Vào năm 1300 (Đại Đức [大德] 4, đời vua Thành Tông [成宗, tại vị 1294-1307] nhà Nguyên), ông được ban cho thụy hiệu là Đại Đức Huệ Khánh (大德慧慶); rồi đến năm 1420 (Vĩnh Lạc [永樂] 18, đời vua Thành Tổ [成祖, tại vị 1402-1424] nhà Minh), ông lại được phong thêm hiệu là Phổ Am Chí Thiện Hoằng Nhân Viên Thông Trí Tuệ Tịch Cảm Ứng Từ Tế Chơn Giác Chiêu Huống Huệ Khánh Hộ Quốc Tuyên Giáo Đại Đức Bồ Tát (普庵至善弘仁圓通智慧寂感妙應慈濟眞覺昭貺慧慶護國宣敎大德菩薩). Tại các tự viện của Lâm Tế Tông, thường có thờ Thần Vị của Thiền Sư Phổ Am để hàng phục Yêu ma. Do vì ông có tính thần dị, có các đạo sĩ không thuộc Phật Giáo lại tôn sùng ông là Tổ Sư, xưng hiệu là Phổ Án Giáo Chủ (普唵敎主) của Phổ Am Phái (普庵派) hay Phổ Án Phái (普唵派). Tượng của ông có nhiều loại khác nhau như tượng Tỳ Kheo, Đạo Sĩ, Tướng Quân, Đế Vương, v.v. Thậm chí như những người chuyên về ngư nghiệp, thuyền hải cũng thường tôn thờ Thần Vị của Thiền Sư Phổ Am trên thuyền của họ để cầu bình an trên sông nước; nên ông còn được xem như là người có công năng như Hải Thần vậy. Theo truyền thuyết của dân gian, nếu lấy giấy màu hồng, vàng viết lên 8 chữ “Phổ Am đáo thử bách vô cấm kỵ (普庵到此百無禁忌, Phổ Am đến đây, trăm điều không còn cấm kỵ nữa)”, rồi dán trong nhà thì có thể cải thiện được vấn đề phong thủy; hay mang nơi thân mình thì có thể xua đuổi điều xấu và mang lại điều lành. Trong lúc sinh tiền, ông thường làm những điều linh nghiệm như bẻ cây trị bệnh, chặt cây ma quái, cầu mưa, v.v. Hơn nữa, ông lại rất tinh thông Phạn văn, từng lấy Phạn văn phiên âm thành chú, người đời gọi đó là Phổ Am Chú (普庵咒). Thần chú này có thần lực làm cho an định mười phương và tòng lâm, nên thường được tụng tại các tự viện vào mỗi dịp đầu và giữa tháng. Thậm chí thần chú này còn có công năng xua đuổi các loài muỗi, trùng, rắn rít, v.v. Trong khoảng niên hiệu Vạn Lịch (萬曆, 1573-1620) nhà Minh, Thiền Sư Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏, 1535-1615) mới đưa thần chú này vào bản Chư Kinh Nhật Tụng (諸經日誦).
(關聖): tên gọi một vị danh tướng của nhà Thục thời Tam Quốc, tên là Quan Vũ (關羽), tự là Trường Sanh (長生), Vân Trường (雲長), thường gọi là Quan Công (關公). Ông đã từng phục vụ cho Lưu Bị (劉僃) nhà Thục, rất liêm chính, cương trực, sau bị Tôn Quyền (孫權) nhà Ngô giết chết. Ông được sùng kính như là vị anh hùng của quốc dân, được xem như là bậc thánh và được thờ tại Quan Đế Miếu (關帝廟), cho nên có tên gọi là Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君). Ông còn được gọi là Quan Đế Da (關帝爺), Tây Sơn Phu Tử (西山夫子), Cái Thiên Cổ Phật (蓋天古佛), Hiệp Thiên Đại Đế (協天大帝), Phục Ma Đại Đế (伏魔大帝), v.v. Dưới thời nhà Tống, vua Huy Tông (徽宗) phong ông lên ba cấp từ Trung Huệ Công (忠惠公), Sùng Ninh Chơn Quân (崇寧眞君) cho đến Chiêu Liệt Võ An Vương (昭烈武安王). Vua Văn Tông (文宗) nhà Nguyên lại phong cho ông là Hiển Linh Nghĩa Dũng Võ An Anh Tế Vương (顯靈義勇武安英濟王). Vua Thần Tông (神宗) nhà Minh phong cho ông tước hiệu Tam Giới Phục Ma Đại Đế Thần Uy Viễn Trấn Thiên Tôn Quan Thánh Đế Quân (三界伏魔大帝神威遠鎭天尊關聖帝君). Đến thời nhà Thanh, vua Đức Tông (德宗) phong cho ông tước hiệu dài nhất là Trung Nghĩa Thần Võ Linh Hựu Nhân Dũng Hiển Uy Hộ Quốc Bảo Dân Tinh Thành Tuy Tĩnh Dực Tán Tuyên Đức Quan Thánh Đại Đế (忠義神武靈佑仁勇顯威護國保民精誠綏靖翊讚宣德關聖大帝). Tín ngưỡng về Quan Thánh rất phổ biến kể từ thời nhà Đường, nhưng đến thời nhà Thanh thì ông được sùng kính như là vị thần hộ vệ cho hoàng tộc. Vì lẽ đó, trong suốt giai đoạn này bất cứ nơi đâu người ta đều thấy xuất hiện Quan Đế Miếu (關帝廟). Ngoài ra, ông còn được xem như là Thần Tài, vị thần phù hộ làm ra nhiều tiền và thịnh vượng. Đặc biệt, trong Phật Giáo, ông được tôn kính như là vị đại hộ pháp. Trong một vài thư tịch của Thiền Tông, có đề cập đến câu chuyện sau khi ông bị chém đứt đầu chết thì biến thành con quỷ không đầu, hồn phách thường lảng vảng trong rừng trải qua đến ba bốn trăm năm. Cuối cùng con quỷ không đầu ấy gặp Trí Khải Đại Sư (智顗大師, 538-397)—người sáng lập ra Thiên Thai Tông Trung Quốc, được Đại Sư dùng pháp Phật làm cho siêu độ và thoát khỏi thân quỷ. Sau khi được siêu độ, có chánh tín vào Phật pháp, Quan Công phát nguyện lớn đời đời kiếp kiếp sẽ hộ trì chánh pháp, hàng phục Yêu ma, bảo hộ già lam thánh chúng. Cho nên ông trở thành vị Bồ Tát hộ pháp cho chốn già lam, được liệt vào hàng ngũ hai vị thần hộ pháp cùng với Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát (韋駄尊天菩薩). Hằng năm, người dân vẫn tưởng niệm ngày khánh đản của ông vào ngày 24 tháng 6 âm lịch. Đạo Giáo Trung Quốc vẫn lưu hành Quan Thánh Đế Quân Giác Thế Chơn Kinh (關聖帝君覺世眞經), trong đó có dạy rằng: “Nhân sanh tại thế, quý tận trung hiếu tiết nghĩa đẳng sự, phương ư nhân đạo vô quý, khả lập ư thiên địa chi gian (人生在世、貴盡忠孝節義等事、方於人道無愧、可立於天地之間, con người ở đời, quý nhất các việc tận trung, hiếu, tiết nghĩa, mới không xấu hổ với mọi người, có thể đứng vững giữa trời đất).”
(關聖帝君): tên gọi một vị danh tướng của nhà Thục thời Tam Quốc, tên là Quan Vũ (關羽, ?-219), tự là Trường Sanh (長生), Vân Trường (雲長), thường gọi là Quan Công (關公). Ông đã từng phục vụ cho Lưu Bị (劉僃) nhà Thục, rất liêm chính, cương trực, sau bị Tôn Quyền (孫權) nhà Ngô giết chết. Ông được sùng kính như là vị anh hùng của quốc dân, được xem như là bậc thánh và được thờ tại Quan Đế Miếu (關帝廟), cho nên có tên gọi là Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君). Ông còn được gọi là Quan Đế Da (關帝爺), Tây Sơn Phu Tử (西山夫子), Cái Thiên Cổ Phật (蓋天古佛), Hiệp Thiên Đại Đế (協天大帝), Phục Ma Đại Đế (伏魔大帝), v.v. Dưới thời nhà Tống, vua Huy Tông (徽宗) phong ông lên ba cấp từ Trung Huệ Công (忠惠公), Sùng Ninh Chơn Quân (崇寧眞君) cho đến Chiêu Liệt Võ An Vương (昭烈武安王). Vua Văn Tông (文宗) nhà Nguyên lại phong cho ông là Hiển Linh Nghĩa Dũng Võ An Anh Tế Vương (顯靈義勇武安英濟王). Vua Thần Tông (神宗) nhà Minh phong cho ông tước hiệu Tam Giới Phục Ma Đại Đế Thần Uy Viễn Trấn Thiên Tôn Quan Thánh Đế Quân (三界伏魔大帝神威遠鎭天尊關聖帝君). Đến thời nhà Thanh, vua Đức Tông (德宗) phong cho ông tước hiệu dài nhất là Trung Nghĩa Thần Võ Linh Hựu Nhân Dũng Hiển Uy Hộ Quốc Bảo Dân Tinh Thành Tuy Tĩnh Dực Tán Tuyên Đức Quan Thánh Đại Đế (忠義神武靈佑仁勇顯威護國保民精誠綏靖翊讚宣德關聖大帝), v.v. Tín ngưỡng về Quan Thánh rất phổ biến kể từ thời nhà Đường, nhưng đến thời nhà Thanh thì ông được sùng kính như là vị thần hộ vệ cho hoàng tộc. Vì lẽ đó, trong suốt giai đoạn này bất cứ nơi đâu người ta đều thấy xuất hiện Quan Đế Miếu (關帝廟). Ngoài ra, ông còn được xem như là Thần Tài, vị thần phù hộ làm ra nhiều tiền và thịnh vượng. Đặc biệt, trong Phật Giáo, ông được tôn kính như là vị đại hộ pháp. Trong thư tịch của Thiền Tông như Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀), có đề cập đến câu chuyện sau khi ông bị chém đứt đầu chết thì biến thành con quỷ không đầu, hồn phách thường lảng vảng trong rừng trải qua đến ba bốn trăm năm. Cuối cùng con quỷ không đầu ấy gặp Trí Khải Đại Sư (智顗大師, 538-397)—người sáng lập ra Thiên Thai Tông Trung Quốc, được Đại Sư dùng pháp Phật làm cho siêu độ và thoát khỏi thân quỷ. Sau khi được siêu độ, có chánh tín vào Phật pháp, Quan Công phát nguyện lớn đời đời kiếp kiếp sẽ hộ trì chánh pháp, hàng phục Yêu ma, bảo hộ già lam thánh chúng. Cho nên ông trở thành vị Bồ Tát hộ pháp cho chốn già lam, được liệt vào hàng ngũ hai vị thần hộ pháp cùng với Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát (韋駄尊天菩薩).
(重陽節): còn gọi là Trùng Cửu (重九), lễ hội vào ngày mồng 9 tháng 9 Âm Lịch. Theo quan niệm âm dương của Nho gia vào thời nhà Hán, có “lục âm cửu dương (六陰九陽, 6 âm 9 dương)”, 9 là số dương; cho nên Trùng Cửu còn gọi là Trùng Dương. Vào dịp này, trong dân gian có tập tục leo lên núi cao chơi; vì vậy tiết này còn gọi là Đăng Cao Tiết (登高節), Thù Du Tiết (茱萸節), Cúc Hoa Tiết (菊花節). Do vì tiết này nhằm vào cửu nguyệt sơ cửu nhật (九月初九日, mồng 9 tháng 9), viết là cửu cửu (九九), đọc âm trùng với cửu cửu (久久), ý nghĩa là dài lâu; nên ngày này người ta cũng tiến hành cúng tế tổ tiên và hoạt động kính trọng người lớn tuổi. Về nguồn gốc của Tiết Trùng Dương, có nhiều thuyết khác nhau.
(1) Theo Tục Tề Hài Ký (續齊諧記) của Ngô Quân Chi (吳均之) nhà Lương (梁, 502-557) thời Nam Triều, vào thời Đông Hán (東漢, 25-220), tại Huyện Nhữ Nam (汝南縣) có một người tên là Hoàn Cảnh (桓景), nơi địa phương anh ở bỗng nhiên phát sinh ôn dịch; do đó, cả song thân Hoàn Cảnh đều bị bệnh mà tử vong. Từ đó, ông đến Đông Nam Sơn, tìm thầy học bí thuật; tiên nhân Phí Trường Phòng (費長房) trao cho ông một cây Hàng Ma Thanh Long Kiếm (降妖青龍劍). Hoàn Cảnh thức khuya dậy sớm, trãi qua tháng ngày, siêng năng học tập và khổ luyện. Một hôm nọ, Phí Trường Phòng bảo rằng: “Vào ngày mồng 9 tháng 9, ma dịch bệnh lại đến, ngươi có thể xua đuổi Yêu ma trừ hại.” Bèn trao cho Hoàn Cảnh một bao lá Thù Du (茱萸, loại thực vật có chức năng sát trùng, tiêu độc), một bình rượu Hoa Cúc, để cho người già trong làng dùng khi lên núi cao tránh tai họa. Nhân đó, ông trở về cố hương, đúng ngày mồng 9 tháng 9, ông dẫn vợ con, mọi người trong làng lên trên một ngọn núi cao; lấy lá Thù Du phân phát cho mọi người đeo bên mình, nhờ vậy ma dịch bệnh không đến gần được. Rồi lấy rượu Hoa Cúc cho mỗi người uống một hớp, để đề phòng dịch bệnh. Ông cùng với ma dịch bệnh đánh nhau kịch liệt, cuối cùng giết được Yêu ma kia. Từ đó, bá tánh lấy ngày mồng 9 tháng 9 làm ngày leo lên núi cao tránh tai họa, và tập tục lên núi cao, đeo túi Thù Du, uống rượu Hoa Cúc cũng hình thành từ đây. Các tác phẩm như Sơ Học Ký (初學記) nhà Đường (唐, 618-907), Thái Bình Ngự Lãm (太平御覽) nhà Tống (宋, 960-1279), v.v., đều có thuật lại sự tích này.
(2) Trong Tây Kinh Tạp Ký (西京雜記) của Lưu Hâm (劉歆, khoảng 50 ttl.-23 stl.) có ghi rằng người ái thê của Hán Cao Tổ Lưu Bang (漢高祖劉邦, tại vị 206 ttl.~195 ttl.) là Thích Phu Nhân (戚夫人) bị Lữ Hậu (呂后) sát hại, sau đó người thị nữ của phu nhân là Giá Bội Lan (賈佩蘭) cũng bị trục xuất khỏi cung nội. Khi nói chuyện nhàn hạ, cô thường đề cập đến tập tục trong cung đình, cứ mỗi năm vào ngày mồng 9 tháng 9, mọi người thường mang lá Thù Du, ăn bánh cỏ Bồng, uống rượu hoa cúc, để tránh tà ma, kéo dài mạng sống.
(3) Trong Truyện Vương Bột (王勃傳) của Cựu Đường Thư (舊唐書) có ghi rằng bài Tựa Đằng Vương Các (滕王閣序) của Vương Bột (王勃, 649-675) nhà Đường được viết nhân Tiết Trùng Dương này. Đương thời phụ thân Vương Bột làm quan ở Giao Chỉ (交趾), ông lê đường đến thăm cha; vào ngày mồng 9 tháng 9 chỉ mới đi qua Nam Xương (南昌). Lúc bấy giờ, vị quan Châu Mục của Hồng Châu (洪州) là Diêm Bá Tự (閻伯嶼) đang mời quan khách, thuộc hạ của ông đến dự yến tiệc trùng tu Đằng Vương Các (滕王閣); nhân đó khoe khoang với mọi người về tài trí của người con rễ Ngô Tử Chương (吳子章), rồi mời quan khách viết bài tựa cho Đằng Vương Các. Ai cũng biết dụng ý của ông, nên chẳng người nào dám viết cả. Chỉ có mình Vương Bột không biết, bèn tự nhiên tiếp bút viết liền. Quan Châu Mục thấy trong lòng sảng khoái, lập tức sai người đứng hai bên xem Vương Bột viết. Không ngờ Vương Bột tài khí phi phàm, văn chương lưu loát, bất ngờ đến câu: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thủy cọng trường thiên nhất sắc (落霞與孤鶩齊飛、秋水共長天一色, ráng chiều cùng vịt trời đều bay, nước thu với trời xanh một sắc)”, quan Châu Mục không chịu được nữa bèn thốt lên rằng: “Tuyệt hảo !” Và từ đó, Vương Bột nổi danh trong thi đàn.
Đối với người Trung Quốc, nhân dịp này họ có một số tập tục đặc biệt như ăn Bánh Trùng Dương, bắn tên, hoạt động kính lão, cúng tế tổ tiên, v.v. Đối với người Nhật Bản thì có tục ăn trái Cà Tím (茄子, eggplant), Hạt Dẻ (栗子, chestnut), Lễ Hội Hoa Cúc, v.v. Đây là lễ hội quan trọng đối với người Trung Quốc, nên từ xưa nay đã có nhiều thơ văn bất hủ đề cập đến, như trong bài Cửu Nhật Đăng Lý Minh Phủ Bắc Lâu (九日登李明府北樓) của Lưu Trường Khanh (劉長卿, 709-780) nhà Đường có câu: “Cửu nhật đăng cao vọng, thương thương viễn thọ đê, nhân yên hồ thảo lí, sơn thúy hiện lâu Tây (九日登高望、蒼蒼遠樹低、人煙湖草裡、山翠現樓西, mông chín lên cao ngắm, xanh um cây rạp đầu, khói vương hồ cỏ rậm, núi biếc hiện lầu Tây).” Thiệu Đại Chấn (邵大震, ?-?), thi nhân nhà Đường, người đồng thời với Vương Bột có làm bài Cửu Nhật Đăng Huyền Võ Sơn Lữ Thiếu (九日登玄武山旅眺): “Cửu nguyệt cửu nhật vọng diêu không, thu thủy thu thiên sanh tịch phong, hàn nhạn nhất hướng nam phi viễn, du nhân kỉ độ cúc hoa tùng (九月九日望遙空、秋水秋天生夕風、寒雁一向南飛遠、遊人幾度菊花叢, mồng chín tháng chín ngắm trời không, nước thu trời thu sanh gió vương, nhạn bay một hướng về nam tít, du nhân mấy độ hoa cúc mừng).” Trong bài Cửu Nguyệt Thập Nhật Tức Sự (九月十日卽事) của thi hào Lý Bạch (李白, 701-762) có câu: “Tạc nhật đăng cao bãi, kim triêu tái cử thương, cúc hoa hà thái khổ, tao thử lưỡng Trùng Dương (昨日登高罷、今朝再舉觴、菊花何太苦、遭此兩重陽, hôm qua lên cao mệt, sáng nay lại nâng ly, hoa cúc sao quá đắng, gặp lại hai Trùng Dương).” Bên cạnh đó, thi hào Vương Duy (王維, 701-761) cũng có bài Cửu Nguyệt Cửu Nhật Ức Sơn Đông Huynh Đệ (九月九日憶山東兄弟) rất nổi tiếng: “Độc tại dị hương vi dị khách, mỗi phùng giai tiết bội tư thân, diêu tri huynh đệ đăng cao xứ, biến tháp Thù Du thiểu nhất nhân (獨在異鄉爲異客、每逢佳節倍思親、遙知兄弟登高處、遍插茱萸少一人, mình chốn tha phương làm lữ khách, mỗi khi tiết đẹp nhớ người thân, xa biết anh em lên cao chốn, ngắt cánh Thù Du chỉ riêng ta)”, v.v.
(著語, Jakugo): còn gọi là Hạ Ngữ (下語, Agyo) hay Giản Ngữ (揀語, Kengo), là lời bình ngắn gọn thêm vào phía dưới câu các tắc công án hay bài tụng của những Ngữ Lục Thiền. Nó là phần bình xướng rất đơn giản, lấy cái nhìn tông môn của mình mà giải thích hành động cũng như lời nói của người xưa, rồi xướng hòa theo, và xưng tán lời dạy của họ. Hay tự mình sáng lập ra tông chỉ riêng cho mình rồi đùa giỡn cơ duyên ấy một cách tự do. Đây là một thành phần chủ yếu mà các Ngữ Lục Thiền đặc biệt thường dùng đến như Bích Nham Lục (碧巖錄), Tùng Dung Lục (從容錄), v.v.
(卽身成佛, Sokushinjōbutsu): theo lý tưởng tôn giáo của Mật Giáo, trong khi đang còn sống, người ta lấy ngay thân đang còn sống này mà đạt đến cảnh địa thành Phật, hoặc có khả năng thành Phật. Trong lập trường căn bản của đức Phật, lý tưởng tôn giáo của Phật Giáo là xuất gia, nhờ kiên trì phạm hạnh suốt đời mà thoát khỏi thế giới luân hồi và quy nguyên về cõi Niết Bàn. Tuy nhiên, chủ nghĩa xuất gia cấm dục nghiêm minh này không phải là chủ nghĩa cho hầu hết mọi người ai cũng có thể kham nhẫn được, nên từ đó với ý nghĩa nào đó sự vận động của Phật Giáo Đại Thừa nhằm khẳng định cuộc sống hiện thế của con người bắt đầu hưng khởi. Các tín đồ Đại Thừa đã giải thích rằng cuộc đời luân hồi mãi mãi trong quá khứ của chính bản thân đức Phật là điều tất yếu để thành Phật, lấy cảnh địa thành Phật giống như đức Phật làm lý tưởng tôn giáo. Nếu như hướng đến lý tưởng xa xăm ấy mà tu chỉnh cuộc sống hiện tại, thì có thể đạt đến cảnh địa thành Phật kia; và từ đó hình thành nên lý niệm Đại Thừa gọi là mài luyện trí tuệ, thực hành hạnh lợi tha của từ bi và tích lũy hạnh Bồ Tát trải qua trong ba kiếp. Tuy nhiên, đến thời kỳ Phật Giáo thối triều, những người mà không thể kham nhẫn được quan niệm thời gian lâu dài ba kiếp ấy, đã bị lôi cuốn theo bởi quan niệm thời gian gọi là trong khoảng còn sống hiện tại, rồi quên bẵng đi điểm chính yếu mà mình đang hướng đến Niết Bàn và tạo dựng nên phương hướng đạt đến thành Phật trong khoảng thời gian ấy. Rồi trong Kim Cang Đảnh Kinh (金剛頂經), hành vi tượng trưng gọi là tụng chơn ngôn phát bồ đề tâm thay cho quá trình tịnh hóa bồ đề tâm trong ba kiếp được đưa ra, và từ đó Mật Giáo được thành lập. Sau đó, Phật Giáo Tantra triển khai và quy kết về hành pháp gọi là tuần lễ các Thánh địa làm mục tiêu cho cả một đời. Ở đây các tín đồ Mật Giáo, với hình thức vượt qua ý thức của chính bản thân mình từ việc trở về lại nguyên tắc ban sơ của đức Phật, đã thể hiện sự bất thành lập việc cấu tưởng Tức Thân Thành Phật này. Đối với Nhật Bản, người ta dựa trên cơ sở Tức Thân Thành Phật này mà thực hành pháp môn đoạn thực, không ăn cho đến chết, rồi để cho thân thể trở thành như xác ướp. Như vậy được gọi là Phật sống mà được sùng bái từ thời kỳ Bình An trở đi. Các hành giả của Chơn Ngôn Tông đã tiến hành không ăn với tất cả ý chí của mình trong khoảng thời gian còn sanh tiền và sùng bái việc biến thành xác ướp như là Tức Thân Phật. Việc sùng bái này đã được truyền từ Trung Quốc sang Đài Loan.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập