Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Dầu nói ra ngàn câu nhưng không lợi ích gì, tốt hơn nói một câu có nghĩa, nghe xong tâm ý được an tịnh vui thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 101)
Cách tốt nhất để tiêu diệt một kẻ thù là làm cho kẻ ấy trở thành một người bạn. (The best way to destroy an enemy is to make him a friend.)Abraham Lincoln
Như bông hoa tươi đẹp, có sắc lại thêm hương; cũng vậy, lời khéo nói, có làm, có kết quả.Kinh Pháp cú (Kệ số 52)
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Việc người khác ca ngợi bạn quá hơn sự thật tự nó không gây hại, nhưng thường sẽ khiến cho bạn tự nghĩ về mình quá hơn sự thật, và đó là khi tai họa bắt đầu.Rộng Mở Tâm Hồn
Người biết xấu hổ thì mới làm được điều lành. Kẻ không biết xấu hổ chẳng khác chi loài cầm thú.Kinh Lời dạy cuối cùng
Ví như người mù sờ voi, tuy họ mô tả đúng thật như chỗ sờ biết, nhưng ta thật không thể nhờ đó mà biết rõ hình thể con voi.Kinh Đại Bát Niết-bàn
Của cải và sắc dục đến mà người chẳng chịu buông bỏ, cũng tỷ như lưỡi dao có dính chút mật, chẳng đủ thành bữa ăn ngon, trẻ con liếm vào phải chịu cái họa đứt lưỡi.Kinh Bốn mươi hai chương
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Yết Ma »»
(寶杵): chày báu, tên gọi khác của Kim Cang Chử (s: varja, 金剛杵), Hàng Ma Chử (降魔杵); âm dịch là Phược Nhật Ra (縛日囉), Phạt Chiết Ra (伐折囉), Bạt Chiết Ra (跋折囉), Phạt Xà Ra (伐闍囉). Loại pháp khí này nguyên xưa kia là vũ khí của cổ đại Ấn Độ, do vì nó cứng rắn, có thể đột phá các thứ vật chất khác, nên gọi là Kim Cang Chữ. Trong Mật Giáo, Kim Cang Chử tượng trưng cho Bồ Đề Tâm có thể phá tan phiền não, được dùng như là đạo cụ hay vật dụng đặc biệt để tu pháp. Các đấng chủ tôn trong Hải Hội Mạn Trà La (曼荼羅海會) đều có cầm cây Bảo Chử này. Hành giả của Chơn Ngôn Tông cũng thường mang theo đạo cụ này bên mình. Nó còn tượng trưng cho trí tuệ đại dụng của Như Lai Kim Cang (如來金剛), có thể phá trừ nội ma của ngu si, vọng tưởng cũng như ma chướng của ngoại đạo. Ban đầu, Kim Cang Chữ có mũi nhọn, rất bén; về sau khi nó được dùng làm pháp khí thì hình thức có thay đổi khá nhiều. Có rất nhiều loại Kim Cang Chử với các chất liệu khác nhau như vàng, bạc, đồng, sắt, đá, thủy tinh, gỗ đàn, xương người, v.v. Chiều dài của Kim Cang Chữ cũng khác nhau như loại dài 8 ngón tay, 10 ngón, 12 ngón, 16 ngón, 20 ngón, v.v. Với tư cách là một loại pháp khí của Phật Giáo, Kim Cang Chử có nhiều hình dáng khác nhau: Độc Cổ (獨股, một đầu), Nhị Cổ (二股, hai đầu), Tam Cổ (三股, ba đầu), Tứ Cổ (四股, bốn đầu), Ngũ Cổ (五股, năm đầu), Cửu Cổ (九股, chín đầu), Tháp Chử (塔杵, chày hình tháp), Bảo Chữ (寶杵), v.v. Trong số đó, loại Độc Cổ, Tam Cổ và Ngũ Cổ là thường gặp nhất; tượng trưng cho pháp giới độc nhất, Tam Mật Tam Thân (三密三身) và Ngũ Trí Ngũ Phật (五智五佛). Độc Cổ, Tam Cổ, Ngũ Cổ, Bảo Chử và Tháp Chử được gọi là Ngũ Chủng Chử (五種杵, năm loại chày). Trong đó, Độc Cổ là loại có hình thức tối cổ, mũi nhọn dài, là vật cầm tay của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ (密迹金剛力士). Trong đó, loại Độc Cổ Chử có hình thức cổ nhất, là vật thường cầm trên tay của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ (密跡金剛力士). Ngoài ra, Kim Cang Thủ (金剛手) trong 40 tay của Thiên Thủ Quan Âm (千手觀音), một trong 108 bàn tay của Kim Cang Vương Bồ Tát (金剛王菩薩) đều cầm loại Độc Cổ này. Trong 5 loại này, Độc Cổ Chử tương ứng với Liên Hoa Bộ (蓮華部), đặt ở phương Tây của đại đàn. Tam Cổ Chử tương ứng với Yết Ma Bộ (羯磨部), đặt ở phương Bắc của đại đàn. Về cách dùng của Kim Cang Chử, khi cầu thành tựu sự vật, tu pháp của Kim Cang Bộ thì dùng loại Ngũ Cổ Chữ; khi gia trì thì dùng Tam Cổ Chử; khi hành đạo niệm tụng, tu pháp của Phật Bộ, Liên Hoa Bộ thì dùng Độc Cổ Chử; khi tu pháp Đại Uy Đức Minh Vương (大威德明王) thì dùng loại Cửu Cổ Chử. Ngũ Cổ Chử còn gọi là Ngũ Trí Kim Cang Chử (五智金剛杵), Ngũ Phong Kim Cang Chử (五峰金剛杵), Ngũ Phong Quang Minh (五峰光明), Ngũ Cổ Kim Cang (五股金剛); 5 thân hay 5 đỉnh nhọn của loại này tượng trưng cho Ngũ Trí Ngũ Phật (五智五佛). Hình tượng của Bồ Tát Vi Đà (s: Skanda, p: Khanda, 韋馱) thường có cầm trên tay cây Kim Cang Chử hay Bảo Chử để hàng phục ma quân, dẹp yên tà ma, bảo vệ chánh pháp. Cho nên, trong Thiền môn vẫn thường tụng bài xưng tán Bồ Tát Vi Đà rằng: “Vi Đà Thiên Tướng, Bồ Tát hóa thân, ủng hộ Phật pháp thệ hoằng thâm, Bảo Chử trấn ma quân, công đức nan luân, kỳ đảo phó quần tâm (韋馱天將、菩薩化身、擁護佛法誓弘深、寶杵鎮魔軍、功德難倫、祈禱副群心, Vi Đà Thiên Tướng, Bồ Tát hóa thân, ủng hộ Phật pháp thệ nguyện thâm, Chày Báu nhiếp ma quân, công đức khó lường, cầu nguyện khắp nhân tâm).” Trong Trùng Biên Chư Tôn Truyện (重編諸天傳, CBETA No. 1658) có câu: “Đế Thích Kim Cang Bảo Chữ, năng diệt A Tu La (帝釋金剛寶杵、能滅阿修羅, Chày Báu Kim Cang của Đế Thích có thể diệt trừ A Tu La).” Hay như trong Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du Tập (憨山老人夢遊集, CBETA No. 1456) quyển 34 của Hám Sơn Đức Thanh (憨山德清, 1546-1623) có bài tán về Tứ Tý Quan Âm Đại Sĩ (四臂觀音大士) rằng: “Thông thân thủ nhãn, hà chỉ hữu tứ, ư vô tận trung, liêu nhĩ như thị, Bảo Chữ không ma, chơn kinh vô tự, tổng thị thần thông, bất tư nghì sự (通身手眼、何只有四、於無盡中、聊爾如是、寶杵空魔、眞經無字、總是神通、不思議事, khắp mình tay mắt, sao chỉ có bốn, trong vô tận ấy, vẫn cứ như vậy, Chày Báu dẹp ma, chơn kinh không chữ, thảy là thần thông, chuyện chẳng nghĩ bàn).”
(s: Amogha-siddhi, t: Don-yod-grub-pa, 不空成就佛): hay Bất Không Thành Tựu Như Lai (不空成就如來), gọi tắt là Bất Không Phật (不空佛); còn có các danh hiệu khác như Thiên Cổ Lôi Âm Phật (天鼓雷音佛), Thiên Cổ Âm Phật (天鼓音佛), Lôi Âm Vương Phật (雷音王佛); là tên gọi của một trong 5 vị Phật thuộc Kim Cang Giới (金剛界) của Mật Giáo, ngự ngay trung tâm của vòng Nguyệt Luân ở hướng chánh Bắc. Ngài tượng trưng cho Thành Sở Tác Trí (成所作智) của Ngũ Trí, là Bộ chủ của Nghiệp Bộ (業部). Trong Hội Thành Thân, thân của Ngài thể hiện sắc màu vàng; tay trái bắt ấn, để trên gót chân, tay phải đưa ngang ngực, ngồi xếp bằng trên tòa sen. Tuy nhiên, trong Phật Mẫu Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Thức (佛母孔雀尊經科式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1479) lại giải thích thân Ngài màu đen: “Phụng thỉnh Bắc phương Thành Tựu Phật, kỳ thân hắc sắc phóng quang minh, thủ ấn chấp trì Diệu Hàng Ma, chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ (奉請北方成就佛、其身黑色放光明、手印執持妙降魔、眾等志心歸命禮, cung thỉnh Bắc phương Thành Tựu Phật, thân Ngài sắc đen phóng hào quang, tay ấn cầm giữ Diệu Hàng Ma, chúng con chí tâm cung kính lễ).” Mật hiệu của Ngài là Bất Động Kim Cang (不動金剛), chủng tử là aḥ, hình Tam Muội Da là Chày Yết Ma Chữ Thập. Trong Thai Tạng Giới gọi Ngài là Thiên Cổ Lôi Âm Phật. Tác phẩm Phật Danh Thích Điển Truyện Lược (佛名釋典傳略) cho biết rằng Bất Không Thành Tựu Phật đại biểu cho Thành Sở Tác Trí của Tỳ Lô Giá Na Phật (s: Vairocana, 毘盧遮那佛, tức Đại Nhật Như Lai [大日如來]); phần lớn hóa hiện sắc màu xanh lục, vàng kim; thường hiện hình tượng ngự giá trên Đại Bàng Kim Xí Điểu (大鵬金翅鳥) có thể hàng phục ác long, rắn độc. Ngài còn tượng trưng có thể lấy trí tuệ lớn để thành tựu sự nghiệp của tất cả chư Như Lai cũng như của chúng sanh. Hành giả Phật Giáo nếu gặp phải phiền não, lo âu, nên chí thành cầu xin sự gia trì Phật lực của đức Bất Không Thành Tựu, thì có thể được tự lợi và lợi tha, khiến cho hết thảy chúng sanh xa lìa khổ não. Trong Mật Giáo, Uế Tích Kim Cang Vương (穢跡金剛明王), đấng có đức chuyển hóa từ “bất tịnh” thành “thanh tịnh”, chính là hóa thân của Bất Không Thành Tựu Phật. Về ấn quyết của Ngài, trong Phật Thuyết Du Già Đại Giáo Vương Kinh (佛說瑜伽大敎王經, Taishō Vol. 18, No. 890) có đề cập rằng: “Dĩ hữu thủ tác Vô Úy tướng, thử thị Bất Không Thành Tựu Phật căn bản ấn (以右手作無畏相、此是不空成就佛根本印, dùng tay phải làm hình tướng Vô Úy, đây là ấn căn bản của Bất Không Thành Tựu Phật).” Về chư vị Bồ Tát quyến thuộc của Ngài, Tu Thiết Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修設瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1081) cho biết rằng: “Thành Tựu Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Nghiệp Bồ Tát, nhị Kim Cang Ngữ Bồ Tát, tam Kim Cang Dược Xoa Bồ Tát, tứ Kim Cang Quyền Bồ Tát (成就佛四菩薩者、一金剛業菩薩、二金剛語菩薩、三金剛藥叉菩薩、四金剛拳菩薩, bốn vị Bồ Tát của Thành Tựu Phật là, một Kim Cang Nghiệp Bồ Tát, hai Kim Cang Ngữ Bồ Tát, ba Kim Cang Dược Xoa Bồ Tát, bốn Kim Cang Quyền Bồ Tát).” Trong Kim Cang Đảnh Du Già Trung Phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Tâm Luận (金剛頂瑜伽中發阿耨多羅三藐三菩提心論, Taishō Vol. 32, No. 1665) có giải thích rằng: “Bắc phương Bất Không Thành Tựu Phật, do thành Thành Sở Tác Trí, diệc danh Yết Ma Trí dã (北方不空成就佛、由成成所作智、亦名羯磨智也, Bất Không Thành Tựu Phật ở phương Bắc do thành tựu Thành Sở Tác Trí, nên cũng được gọi là Yết Ma Trí).” Phật Thuyết Du Già Đại Giáo Vương Kinh (佛說瑜伽大敎王經, Taishō Vol. 18, No. 890) quyển 5 lại giải thích thêm rằng: “Phục thứ hàng phục pháp, trì tụng giả tiên tưởng Hồng tự, hóa thành Bất Không Thành Tựu Phật, thân tướng lục sắc quảng đại viên mãn (復次降伏法、持誦者先想吽字、化成不空成就佛、身相綠色廣大圓滿, lại nữa về pháp hàng phục, người trì tụng nên trước tưởng tượng chữ Hồng, hóa thành Bất Không Thành Tựu Phật, thân tướng màu xanh lục, to lớn tròn đầy).” Trong Kim Cang Đảnh Du Già Tam Thập Thất Tôn Lễ (金剛頂瑜伽三十七尊禮, Taishō Vol. 18, No. 879) có đảnh lễ danh hiệu của Ngài: “Nam Mộ Tác Biến Hóa Thân Bất Không Thành Tựu Phật (南慕作變化身不空成就佛, Kính Lễ Phật Bất Không Thành Tựu Có Thân Biến Hóa).”
(s: poṣadha, upavasatha, upoṣadha, upavāsa, p: uposatha, posatha, 布薩): âm dịch là Ưu Ba Bà Tố Đà (優波婆素陀), Ưu Bà Ta (優婆娑), Bố Tát Đà Bà (布薩陀婆), Bố Sái Tha (布灑他), Bố Sa Tha (布沙他), Ổ Ba Bà Sa (鄔波婆沙), Bô Sa Đà (逋沙陀), Bao Sái Đà (褒灑陀), Ổ Bô Sa Tha (鄔逋沙他); ý dịch là Trưởng Tịnh (長淨), Trưởng Dưỡng (長養), Tăng Trưởng (增長), Thiện Túc (善宿), Tịnh Trú (淨住), Trường Trú (長住), Cận Trú (近住), Cọng Trú (共住), Đoạn (斷), Xả (捨), Trai (齋), Đoạn Tăng Trưởng (斷增長), hay Thuyết Giới (說戒). Nghĩa là vào mỗi nữa tháng, chư vị Tỳ Kheo cùng sống chung tập trung tại một trú xứ nhất định, hoặc tại Bố Tát Đường (s: uposathāgāra, 布薩堂, còn gọi là Nhà Thuyết Giới), cung thỉnh vị Tỳ Kheo hành trì giới luật tinh chuyên thuyết giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa (s: prātimokṣa, p: pātimokkha, 波羅提木叉), để phản tỉnh, xem xét lại trong nữa tháng vừa qua bản thân có tuân thủ đúng với giới bổn hay không. Nếu có người phạm giới, thì sẽ sám hối ngay trước đại chúng, giúp cho chúng tăng có thể an trụ lâu trong tịnh giới, làm tăng trưởng thiện pháp và công đức. Nếu như hàng Phật tử tại gia, vào trong 6 ngày trai mà thọ trì Bát Quan Trai Giới (s: aṣṭāṅga-samanvāgatopavāsa, p: aṭṭhaṅga-samannāgata uposatha, aṭṭhaṅgika uposatha, 八關齋戒), cũng được gọi là Bố Tát, nghĩa là có thể làm cho tăng trưởng thiện pháp. Hình thức Bố Tát vốn phát xuất từ nguồn gốc tế lễ từ thời Phệ Đà (s: Veda, 吠陀) của Ấn Độ; tức là ngày trước lễ Tế Đầu Tháng (s: darśā-māsa, 新月祭) và Tế Giữa Tháng (s: paurṇa-māsa, 滿月祭), người ta cử hành một lễ cúng tế dự bị, được gọi là Bố Tát. Chủ yếu vào ngày cúng tế này, mọi người không ăn, an trú trong giới pháp thanh tịnh, khiến cho cả thân lẫn tâm đều được trong sạch. Về sau, truyền thống này được truyền thừa đến thời đức Phật, nhóm ngoại đạo Ni Kiền Tử (s: Nirgrantha-putra, Nirgrantha-jñātaputra, p: Nigaṇtha-putta, 尼乾子) cũng thường tập trung tại một trú xứ nào đó, tác pháp hành trì 4 giới như không ăn, v.v. Đức Thế Tôn cũng cho phép Tăng chúng tiến hành pháp sự này; cho nên hình thức Bố Tát của Phật Giáo vốn căn cứ vào tập quán nói trên. Theo như sự chế định của Phật, vào dịp này chúng tăng nên tụng toàn bộ giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa; và nếu gặp các duyên nạn thì có thể tụng một phần của giới bổn cũng được. Tứ Phần Luật (四分律) quyển 58 phân Bố Tát thành 4 loại là: (1) Tam Ngữ Bố Tát (三語布薩); (2) Thanh Tịnh Bố Tát (清淨布薩), (3) Thuyết Ba La Đề Mộc Xoa Bố Tát (說波羅提木叉布薩) và (4) Tự Tứ Bố Tát (自恣布薩). Trong khi đó, Ngũ Phần Luật (五分律) quyển 18 lại phân làm 5 loại khác là: (1) Tâm Niệm Khẩu Ngôn Bố Tát (心念口言布薩), (2) Hướng Tha Thuyết Tịnh Bố Tát (向他說淨布薩), (3) Quảng Lược Thuyết Giới Bố Tát (廣略說戒布薩), (4) Tự Tứ Bố Tát (自恣布薩) và (5) Hòa Hợp Bố Tát (和合布薩). Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙) quyển 16 thì liệt kê 9 loại là: (1) Thập Tứ Nhật Bố Tát (十四日布薩), (2) Thập Ngũ Nhật Bố Tát (十五日布薩), (3) Hòa Hợp Bố Tát (和合布薩), (4) Tăng Bố Tát (僧布薩), (5) Chúng Bố Tát (眾布薩), (6) Nhất Nhân Bố Tát (一人布薩), (7) Thuyết Ba La Đề Mộc Xoa Bố Tát (說波羅提木叉布薩), (8) Tịnh Bố Tát (淨布薩) và (9) Sắc Bố Tát (敕布薩). Ngay như ngày Bố Tát, các kinh điển cũng nêu lên khác nhau. Như Đại Thiên Nại Lâm Kinh (大天捺林經) của Trung A Hàm (中阿含經) quyển 14, Tăng Nhất A Hàm Kinh (增一阿含經) quyển 16, v.v., cho rằng mỗi tháng vào 6 ngày trai giới là mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30 thì tiến hành Bố Tát. Tứ Phần Luật quyển 58 thì cho rằng mồng 1, 14, 15 là những ngày Bố Tát. Đại Trí Độ Luận (大智度論) quyển 13 thì giải thích ngày mồng 1, mồng 8, 14, 16, 23, 29. Nhìn chung, mỗi tháng 3 lần Bố Tát, dần dần sinh ra quy định mỗi nữa tháng một lần. Hơn nữa, từ xưa phong trào Bố Tát và ăn chay vốn đã rất thịnh hành tại Trung Quốc, Nhật Bản cũng như Việt Nam. Trong Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi (大比丘三千威儀, Taishō No. 1470) quyển Thượng có đoạn rằng: “Bố Tát giả, Tần ngôn tịnh trú, nghĩa ngôn trưởng dưỡng Tỳ Kheo hòa hợp; nhược tác bách nhất Yết Ma, nhi bất tri hòa hợp, thị danh bất tri Bố Tát (布薩者、秦言淨住、義言長養比丘和合、若作百一羯磨、而不知和合、是名不知布薩, Bố Tát, Tàu dịch là tịnh trú [an trú trong thanh tịnh], nghĩa là nuôi lớn sự hòa hợp của chúng Tỳ Kheo; nếu thực hành trăm lẽ một pháp Yết Ma mà không biết hòa hợp, có nghĩa là không biết Bố Tát).” Hay như trong Thọ Thập Thiện Giới Kinh (受十善戒經, Taishō No. 1486 ) giải thích rằng: “Kim ư tam thế chư Phật, A La Hán tiền, Hòa Thượng tăng tiền, chí thành phát lộ, Ngũ Thể đầu địa, sám hối chư tội, thị danh hành Bố Tát pháp (今於三世諸佛、阿羅漢前、和上僧前,至誠發露,五體投地,懺悔諸罪,是名行布薩法, nay đối trước ba đời chư Phật, trước A La Hán, trước Hòa Thượng tăng, chí thành bộc bạch, năm vóc gieo đất, sám hối các tội, ấy gọi là hành pháp Bố Tát).” Trong Nhập Bố Tát Đường Thuyết Kệ Văn Đẳng (入布薩堂說偈文等, Taishō No. 2852) có bài Thanh Tịnh Diệu Kệ Văn (清淨妙偈文) rằng: “Thanh tịnh như mãn nguyệt, thanh tịnh ưng Bố Tát, thân khẩu nghiệp thanh tịnh, nhĩ nãi đồng Bố Tát (清淨如滿月、清淨應布薩、身口業清淨、爾乃同布薩, trong sạch như trăng rằm, trong sạch nên Bố Tát, nghiệp thân miệng trong sạch, ngươi hãy cùng Bố Tát).”
(大眉性善, Daibi Shōzen, 1616-1673): vị tăng của Hoàng Bá Tông Trung Quốc, hiệu là Đại Mi (大眉), tự Lương Giả (良者), họ Hứa (許), xuất thân Huyện Tấn Giang (晉江縣), Tuyền Châu (泉州, Tỉnh Phúc Kiến), sanh ngày 14 tháng 2 năm thứ 44 (1616) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆). Năm 17 tuổi, ông đến đầu sư với Ẩn Nguyên Long Kỷ (隱元隆琦) ở Sư Tử Nham (獅子巖), Phúc Thanh (福清), cùng thầy sắp xếp kế hoạch sang du hóa Nhật Bản. Đến năm thứ 3 (1654) niên hiệu Thừa Ứng (承應), ông cùng với Ẩn Nguyên sang Nhật và đã từng làm chức Duy Na cho Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) ở Trường Khi (長崎, Nagasaki), Phổ Môn Tự (普門寺, Fumon-ji) ở Phú Điền (富田), Nhiếp Tân (攝津, Settsu, thuộc Ōsaka-fu [大阪府]). Vào năm đầu (1661) niên hiệu Khoan Văn (寛文), ông làm Đô Tự (都寺) cho Vạn Phước Tự (萬福寺, Manfuku-ji) ở Hoàng Bá Sơn (黃檗山), Vũ Trị (宇治, Uji, thuộc Kyōto-fu [京都府]), đến năm sau ông xây dựng Đông Lâm Am (東林庵) trong núi và lui về ẩn cư. Đến năm thứ 5 (1665) cùng niên hiệu trên, ông kế thừa dòng pháp của Ẩn Nguyên. Vào tháng 2 năm thứ 10 (1670), ông làm Yết Ma A Xà Lê (羯摩阿闍梨) cho ba Giới Đàn trên Hoàng Bá Sơn. Đến mùa Thu năm đầu (1673) niên hiệu Diên Bảo (延寶), ông nhường Đông Lâm Am lại cho Thiết Nhãn Đạo Quang (鐵眼道光), xây dựng Pháp Tàng Viện (法藏院) để tàng trữ các bản khắc gỗ của kinh tạng. Vào ngày 18 tháng 10 cùng năm này, ông thị tịch, hưởng thọ 58 tuổi đời và 42 hạ lạp. Trước tác của ông có Đông Lâm Đại Mi Hòa Thượng Ngữ Lục (東林大眉和尚語錄) 1 quyển. Đệ tử nối dòng pháp của ông có Mai Lãnh Đạo Tuyết (梅嶺道雪).
(大雲寺, Daiun-ji): hiện tọa lạc trong Thành Bạch Mã (白馬城, Hoạt Đài), Huyện Hoạt (滑縣), Phủ Đại Danh (大名府, Tỉnh Hà Nam). Vào ngày 15 tháng giêng năm thứ 20 (732) niên hiệu Khai Nguyên (開元), Hà Trạch Thần Hội (荷澤神會) thiết lập Đại Hội Vô Già (無遮大會) tại chùa này, tuyên bố rõ rằng Lục Tổ Huệ Năng (慧能) là chánh thống của Nam Tông Đạt Ma, còn Bắc Tông chỉ là phương tiện thuyết mà thôi và tiến hành nêu cao vai trò của Lục Tổ, bài xích Bắc Tông.
(道宣, Dōsen, 596-667): vị tăng Luật Tông dưới thời nhà Đường, còn được gọi là Nam Sơn Luật Sư (南山律師), Nam Sơn Đại Sư (南山大師), tổ sáng lập ra Nam Sơn Luật Tông, người Ngô Hưng (呉興), Triết Giang (浙江), có thuyết cho là vùng Đơn Đồ (丹徒), Nhuận Châu (潤州), Giang Tô (江蘇), họ Tiền (錢), tự là Pháp Biến (法遍). Năm 16 tuổi, ông xuất gia, theo Huệ Quân (慧頵) ở Nhật Nghiêm Tự (日嚴寺) và Trí Thủ (智首) ở Đại Thiền Tự (大禪寺) học Luật; sau ông đến trú tại Phỏng Chưởng Cốc (倣掌谷, phía Nam Trường An), tạo dựng Bạch Tuyền Tự (白泉寺) và chuyên tâm nghiên cứu, hoằng truyền Tứ Phần Luật, cho nên tôn phái của ông được gọi là Nam Sơn Luật Tông. Ông đã từng đi khắp nơi thuyết giảng Luật học và cùng tham gia phiên dịch với Huyền Trang (玄奘). Ông đã từng sống qua vài nơi như Sùng Nghĩa Tự (崇義寺), Phong Đức Tự (豐德寺) và Tịnh Nghiệp Tự (淨業寺). Vào năm thứ 3 (658) niên hiệu Hiển Khánh (顯慶), ông vâng sắc chỉ đến trú trì Tây Minh Tự (西明寺) ở Trường An. Không bao lâu sau, ông soạn ra Thích Môn Chương Phục Nghi (釋門章服儀), Thích Môn Quy Kính Nghi (釋門歸敬儀), v.v. Vào năm thứ 2 (662) niên hiệu Long Sóc (龍朔), vua Cao Tông ra sắc lệnh các tăng ni phải lễ bái nhà vua, ông cùng với Huyền Trang dâng thư kháng tranh, nên việc này được đình chỉ. Đến tháng 2 năm thứ 2 (667) niên hiệu Càn Phong (乾封), ông sáng lập giới đàn tại Tịnh Nghiệp Tự, các nơi đến cầu giới hơn 20 người. Cũng vào tháng 10 năm này ông thị tịch, hưởng thọ 72 tuổi đời và 52 hạ lạp. Ông được ban cho thụy hiệu Trừng Chiếu (澄照). Trước tác của ông có Tứ Phần Luật San Phồn Bổ Khuyết Hành Sự Sao (四分律刪繁補闕行事鈔) 12 quyển, Yết Ma Sớ (羯磨疏) 3 quyển, Giới Bổn Sớ (戒本疏) 6 quyển, Thập Tỳ Ni Nghĩa Sao (拾毘尼義鈔) 6 quyển, Tỳ Kheo Ni Nghĩa Sao (比丘尼義鈔) 6 quyển, được gọi là 5 bộ trọng yếu của Luật học. Trong đó, Hành Sự Sao là bộ sách không thể thiếu khi nghiên cứu về Tứ Phần Luật. Ngoài ra ông còn soạn ra bộ Đại Đường Nội Điển Lục (大唐內典錄) 10 quyển, là sách mục lục chỉnh lý toàn bộ kinh điển đang hiện hành. Ngoài ra, ông còn biên tập Cổ Kim Phật Đạo Luận Hành (古今佛道論行) 4 quyển, Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集) 30 quyển, v.v., để tuyên dương Phật Giáo. Hơn nữa, ông còn trước tác Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳) 10 quyển, Thích Thị Lược Phổ (釋氏略譜), Thích Ca Phương Chí (釋迦方志), Tam Bảo Cảm Thông Lục (三寳感通錄), v.v.
(維那, Ino): còn gọi là Kỷ Cương (紀綱). Trong tòng lâm, vị này đốc thúc, giám thị sự tu hành của chúng tăng và xem xét toàn bộ công việc trong tự viện. Khi đại chúng tụng kinh, vị này có trách nhiệm hướng dẫn và thủ xướng cho mọi người, cho nên được gọi là Duyệt Chúng (悅眾). Duy (維) nghĩa là bao trùm như mạng lưới, cho nên nó có nghĩa là quản lý tăng chúng; Na (那) là từ được lấy từ âm đọc Yết Ma Đà Na (s: karmadāna, 羯磨陀那); cho nên từ Duy Na bao hàm chung nghĩa của tiếng Hán và Phạn. Nguồn gốc của nó vốn là tên gọi chức vị được đặt ra trong nội bộ tăng đoàn ở Ấn Độ. Trong phần Bát Pháp Trung Ngọa Cụ Pháp (八法中臥具法) 7 của Thập Tụng Luật (十頌律) 23 có đoạn rằng: “Phật tại Xá Vệ Quốc, nhĩ thời Kỳ Đà lâm trung tăng phường trung, vô Tỳ Kheo tri thời hạn xướng thời, vô nhân đả kiền trĩ, vô nhân tảo sái đồ trị giảng đường thực xứ, vô nhân thứ đệ tương tục phu sàng tháp, vô nhân giáo tịnh quả thái, vô nhân khán khổ tửu trung trùng, ẩm thực thời vô nhân hành thủy, chúng tán loạn ngữ thời, vô nhân đàn chỉ, thị sự bạch Phật, Phật ngôn, ưng lập Duy Na (佛在舍衛國、爾時祇陀林中僧坊中、無比丘知時限唱時、無人打揵稚、無人掃灑塗治講堂食處、無人次第相續敷床榻、無人敎淨果菜、無人看苦酒中蟲、飲食時無人行水、眾散亂語時、無人彈指、是事白佛、佛言、應立維那, Khi đức Phật tại nước Xá Vệ, lúc bấy giờ trong chúng tăng tại rừng Kỳ Đà không có vị Tỳ Kheo báo cho biết thời khắc, không có người đánh kiền chùy, không người quét dọn, lau chùi giảng đuờng và nơi ăn uống, không người lần lượt thay nhau sắp dọn giường nằm, không người chỉ bảo rửa sạch rau quả, không người nhìn thấy con trùng trong rượu đắng, khi ăn uống không có người đem nước đến, khi chúng tăng nói chuyện tán loạn lại không có người khảy móng tay giữ im lặng; cho nên việc này được trình lên đức Phật. Phật dạy rằng nên lập ra chức Duy Na).” Vì vậy, đức Phật đã chế ra chức vụ này để chỉnh lý và quản chưởng những công việc lặt vặt của chúng tăng. Tại Trung Quốc, chức này được thiết lập như chức Tăng Quan và trong chế độ Tăng Quan trung ương dưới thời Diêu Tần (姚秦), có chức Duyệt Chúng. Tăng Thiên (僧遷) là người đầu tiên được bổ nhiệm chức vụ này. Vào thời Bắc Ngụy, tên trung ương có đặt Chiêu Huyền Tào (昭玄曹) làm chức Sa Môn Thống (沙門統) với tư cách là Trưởng Quan để thống lãnh Phật Giáo toàn quốc. Còn vị Phó Quan quản lý sự việc của các ban liên quan đến Phật Giáo chính là [Đô] Duy Na ([都]維那) của trung ương và Duy Na ở các địa phương. Trong Thiền Tông, đây là chức vụ vô cùng quan trọng chịu trách nhiệm quản chưởng hết thảy hành động, oai nghi tế hạnh, lui tới của chúng tăng. Nó được liệt vào một trong Lục Tri Sự (六知事, sáu vị Tri Sự). Đối với các tông phái khác, chức Duy Na có bổn phận dẫn dắt đại chúng khi hành lễ pháp sự, xướng hô hồi hướng, v.v. Phòng ở của vị Duy Na được gọi là Duy Na Liêu (維那寮) hay Kỷ Cương Liêu (紀綱寮).
(敎授): tức Giáo Thọ A Xà Lê (敎授阿闍梨), là tên gọi của một trong Tam Sư (三師), gồm Giới Sư (戒師, tức Đàn Đầu Hòa Thượng [壇頭和尚]), Yết Ma A Xà Lê (羯摩阿闍梨) và Giáo Thọ A Xà Lê. Hay là một trong 5 loại A Xà Lê, như trong Tứ Phần Luật (四分律, Taishō Vol. 22, No. 1428) quyển 39 có nêu rõ là: “Hữu ngũ chủng A Xà Lê, hữu Xuất Gia A Xà Lê, Thọ Giới A Xà Lê, Giáo Thọ A Xà Lê, Thọ Kinh A Xà Lê, Y Chỉ A Xà Lê (有五種阿闍梨、有出家阿闍梨、受戒阿闍梨、敎授阿闍梨、受經阿闍梨、依止阿闍梨, có năm loại A Xà Lê, có Xuất Gia A Xà Lê, Thọ Giới A Xà Lê, Giáo Thọ A Xà Lê, Thọ Kinh A Xà Lê, Y Chỉ A Xà Lê).” Giáo Thọ A Xà Lê còn gọi là Giáo Thọ Sư (敎授師), là vị A Xà Lê (s: ācārya, p: ācariya, 阿闍梨) dạy dỗ, truyền trao cho Giới Tử oai nghi tác pháp, v.v., trong Giới Đàn. Tiểu Thừa Giới thì lấy vị thầy hiện tiền làm Giáo Thọ A Xà Lê; cùng với vị Yết Ma A Xà Lê có giới lạp phải từ 5 tuổi trở lên. Đối với Đại Thừa Viên Đốn Giới (大乘圓頓戒) thì cung thỉnh đức Bồ Tát Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒) làm vị Giáo Thọ A Xà Lê. Trong Mật Giáo, tại đàn tràng Quán Đảnh, vị hướng dẫn người thọ lễ Quán Đảnh vào trong đàn tràng, chỉ cho các nghi thức tấn thối, v.v., được gọi là Giáo Thọ A Xà Lê. Trong Thọ Bồ Tát Giới Nghi (受菩薩戒儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1085) có chỉ rõ cách cung thỉnh chư tôn như sau: “Phụng thỉnh Thích Ca Mâu Ni Phật tác Hòa Thượng, phụng thỉnh Văn Thù Sư Lợi Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật tác Yết Ma A Xà Lê, phụng thỉnh Đương Lai Di Lặc Tôn Phật tác Giáo Thọ A Xà Lê, phụng thỉnh Thập Phương Hiện Tại Chư Phật tác Chứng Giới Sư (奉請釋迦牟尼佛作和尚、奉請文殊師利龍種上尊王佛作羯磨阿闍梨、奉請當來彌勒尊佛作敎授阿闍梨、奉請十方現在諸佛作證戒師, cung thỉnh Thích Ca Mâu Ni Phật làm Hòa Thượng, cung thỉnh Văn Thù Sư Lợi Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật làm Yết Ma A Xà Lê, cung thỉnh Đương Lai Di Lặc Tôn Phật làm Giáo Thọ A Xà Lê, cung thỉnh Mười Phương Hiện Tại Chư Phật làm Chứng Giới Sư).” Trong phần Thỉnh Giáo Thọ Sư Pháp (請敎授師法) của Tăng Yết Ma (僧羯磨, Taishō Vol. 40, No. 1809) quyển Thượng có đoạn rằng: “Đại Đức nhất tâm niệm, ngã mỗ giáp, kim thỉnh Đại Đức vi Giáo Thọ A Xà Lê, nguyện Đại Đức vị ngã tác Giáo Thọ A Xà Lê, ngã y Đại Đức cố, đắc thọ Cụ Túc Giới (大德一心念、我某甲、今請大德爲敎授阿闍梨、願大德爲我作敎授阿闍梨、我依大德故、得受具足戒, Đại Đức một lòng ghi nhớ, con tên là …, nay cung thỉnh Đại Đức làm Giáo Thọ A Xà Lê, cúi mong Đại Đức vì con làm Giáo Thọ A Xà Lê, vì con nương vào Đại Đức, được thọ Cụ Túc Giới).”
(s: sīmā-bandha, bandhaya-sīman, 結界): âm dịch là Bạn Đà Dã Tử Mạn (畔陀也死曼), tức nương vào tác pháp mà quy hoạch một khu vực nhất định nào đó; hay y cứ vào pháp gọi là Bạch Nhị Yết Ma (白二羯磨), tùy nơi chỗ mà hoạch định giới vức để giúp cho tăng chúng không vi phạm lỗi biệt chúng (別眾, tách khỏi chúng), ly túc (離宿, lìa xa 3 y và nghĩ lại qua đêm ở một nơi nào đó), túc chử (宿煮, ở lại qua đêm và nấu ăn), v.v. Về phạm vi kết giới, các bộ Luật đều thuyết khác nhau; nay theo Tứ Phần Luật (四分律) thì đại thể có 3 loại: Nhiếp Tăng Giới (攝僧界), Nhiếp Y Giới (攝衣界) và Nhiếp Thực Giới (攝食界). (1) Nhiếp Tăng Giới nghĩa là chư Tỳ Kheo tập trung tại một nơi để tiến hành Bố Tát (s: poṣadha, upavasatha, upoṣadha, upavāsa; p: uposatha, posatha, 布薩), v.v.; được phân thành Tự Nhiên Giới (自然界) và Tác Pháp Giới (作法界). Tự Nhiên Giới, còn gọi là Bất Tác Pháp Giới (不作法界), là khu vực không cần phải quy định đặc biệt nào, mà chỉ căn cứ vào địa hình để hoạch định. Trong Tự Nhiên Giới lại được chia thành 4 loại là: (a) Tụ Lạc Giới (聚落界, khu vực làng xóm, tụ lạc), tụ lạc (làng xóm) ở đây có hai loại là tụ lạc có thể phân biệt và tụ lạc không thể phân biệt. Theo thuyết của Thập Tụng Luật (十誦律), trường hợp tụ lạc có thể phân biệt thì lấy một tụ lạc làm giới vức. Trong khi đó, theo thuyết của Ma Ha Tăng Kỳ Luật (摩訶僧祇律), trường hợp tụ lạc không thể phân biệt thì lấy 63 bộ (một bộ là 6 thước) làm giới vức. (b) Lan Nhã Giới (蘭若界). Nếu không có người mắng pháp phản đối, thì đây là giới vức của nơi nhàn tĩnh, yên lắng; cách cự ly với tụ lạc là một Câu Lô Xá (s: krośa, p: kosa, 拘盧舍, có thuyết cho là tương đương với 600 bộ; Tạp Bảo Tạng Kinh [雜寶藏經] cho là 5 dặm). Trường hợp nếu có người mắng pháp phản đối, thì giới hạn trong vòng 58 bộ (Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa [善見律毘婆沙] cho là tương đương với 7 Bàn Đà [槃陀, đơn vị đo lường của Ấn Độ, một Bàn Đà tương đương 28 khuỷu tay]). Những người phản đối thì tự tác pháp Yết Ma ngoài phạm vi này. (c) Đạo Hành Giới (道行界), khi vị tỳ kheo đi du hành, có thể tùy theo nơi mình ở mà lấy ngang dọc một Câu Lô Xá làm giới vức. Trong phạm vi này thì không được ăn riêng, Bố Tát riêng. (d) Thủy Giới (水界), tức là kết giới trên tàu thuyền khi rời khỏi đất liền. Tác Pháp Giới thì được phân thành 3 loại: (a) Đại Giới (大界), có các trường hợp người và pháp cùng nhau, pháp và thức ăn cùng nhau, pháp giống mà thức ăn khác. Trong đó, trường hợp người và pháp cùng nhau làm chủ, còn hai loại kia tùy duyên mà khai mở riêng. Người cùng nhau nghĩa là cùng chung một trú xứ, cùng chung một khu vực thuyết giới. Pháp cùng nhau nghĩa là mỗi nữa tháng cùng nhau tập trung tại một trú xứ để tiến hành pháp Bố Tát, thuyết giới. Phạm vi của Đại Giới lấy ngoại giới của một ngôi già lam nào đó làm giới hạn nhỏ nhất, rộng đến 10 dặm cho đến 100 dặm. Kết Đại Giới này với mục đích vào lúc chư tăng thuyết giới, v.v., khiến cho tăng chúng trong một khu vực rộng lớn tập trung lại, không ai trái phạm. Phàm Đại Giới nên lấy những sự vật có thể thấy rõ ở địa phương đó như núi, sông, cây cối, v.v., làm ranh giới; đó gọi là giới tướng (界相). Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙, Taishō Vol. 24, No. 1462) quyển 17 có nêu ra 8 loại giới tướng là sơn tướng (山相, hình dạng núi), thạch tướng (石相, hình dạng tảng đá), lâm tướng (林相, hình dạng khu rừng), thọ tướng (樹相, hình dạng cây), lộ tướng (路相, hình dạng con đường), giang tướng (江相, hình dạng dòng sông), nghị phong tướng (蟻封相, hình dạng ranh giới đàn kiến), thủy tướng (水相, hình dạng dòng nước). Về hình trạng của Đại Giới, các bộ Luật thuyết bất đồng. Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa quyển 17 lấy 5 loại hình vuông, hình tròn, hình trống, hình bán nguyệt và hình tam giác làm 5 tướng kết giới. Ngoài ra, khi kết Đại Giới, sau khi chúng tăng tập trung trong phạm vi giới tướng, vị tăng sống lâu tại đó nên tuyên xướng giới tướng của bốn phương mà tuyên bố rằng: “Đồng nhất trú xứ, đồng nhất thuyết giới để làm kết giới.” Nghi thức này được gọi là xướng giới tướng. (b) Giới Trường (戒塲), trường hợp trong tăng chúng có người phạm giới, tiến hành pháp sám hối, hay thọ giới, v.v., cần phải hợp đủ chúng 4 người cho đến 20 người; để tránh làm cho tăng mệt mỏi, đặc biệt kết Giới Trường hình 4 phương, gọi là tứ phương giới tướng (四方界相, giới tướng bốn phương). Giới Trường này có thể chứa tối thiểu 20 người. Theo Giới Trường của Ấn Độ, nguyên là nơi vùng đất trống; trong phạm vi ấy không được lập phòng tăng, nhưng có thể dựng điện Phật cũng như cây Bồ Đề. Hơn nữa, vì Giới Trường là nơi truyền trao giới pháp, nên chủ yếu cần phải thô sơ, đơn giản. Ban đầu, Giới Trường được kết ở ngoài Đại Giới, về sau, do vì nạn cướp bóc, nên được phép kết trong phạm vi Đại Giới. Về thứ tự kết giới, trước kết Giới Trường, sau kết Đại Giới. Nếu như đã kết Đại Giới rồi, thì phải giải bỏ Đại Giới, kết lại Giới Trường, rồi mới kết Đại Giới. Nếu Đại Giới và Giới Trường cùng kết, khi giải giới thì phải trước giải Đại Giới rồi kế đến Giới Trường; không được đảo lộn thứ tự. (c) Tiểu Giới (小界), sợ các Tỳ Kheo ác ở trong gây trở ngại mà rút lui, phế bỏ pháp sự, nên đặc biệt giới hạn trong thời gian nào đó, kết một giới vức tạm thời. Loại này được chia thành 3 tùy theo trường hợp thọ giới, thuyết giới, Tự Tứ. Bên cạnh đó, Tiểu Giới còn được kết tạm thời khi gặp già nạn, không có giới hạn về phạm vi, hình trạng, v.v. Cho nên, không giống như tác pháp lâu dài của Đại Giới và Giới Trường, mà khi việc hoàn thành thì tiến hành giải giới ngay. Nói chung, trong phần Tự Nhiên Giới của Nhiếp Tăng Giới, tùy theo xứ sở mà nói, có 4 loại bất đồng; tùy theo phạm vi lớn nhỏ mà nói, có 6 loại khác nhau. Đại Giới, Tiểu Giới trong Tác Pháp Giới đều có 3 loại, lại cọng thêm Giới Trường, thành 7 giới. (2) Nhiếp Y Giới, còn gọi là Bất Thất Y Giới (不失衣界), Bất Ly Y Túc Giới (不離衣宿界); tức là hoạch định một phạm vi nào đó để tránh cho các Tỳ Kheo vi phạm sai lầm về việc ly túc (離宿). Ly túc ở đây có nghĩa là chỉ việc Tỳ Kheo xa lìa 3 y của mình mà trú qua đêm ở nơi khác. Nếu đã hoạch định một phạm vi nào đó, trong phạm vi ấy vị Tỳ Kheo có thể khôn cần phải mang theo 3 y thường xuyên. Điều thứ 2 trong 30 pháp Xả Đọa (s: naiḥsargika-prāyaścittika,p: nissaggiya pācittiya, 捨墮, âm dịch là Ni Tát Kì Ba Dạ Đề [尼薩耆波夜提]) của Ba La Đề Mộc Xoa (s: prātimokṣa, pratimokṣa,p: pātimokkha, pāṭimokkha, 波羅提木叉, ý dịch là Tùy Thuận Giải Thoát [隨順解脫], Xứ Xứ Giải Thoát [處處解脫], v.v.) có quy định về việc ly túc này. Loại Nhiếp Y Giới này cũng được phần thành 2 loại là Tự Nhiên Giới và Tác Pháp Giới. (3) Nhiếp Thực Giới, tức quy định kết giới nơi cất chứa thức ăn, là giới vức có thể nấu nướng thức ăn, giúp cho vị Tỳ Kheo không phạm phải lỗi gọi là túc chử. Vùng đất được quy định được gọi là tịnh địa (淨地), hay tịnh trù (淨廚). Nếu trong phạm vi này mà nấu nướng thì không phạm tội này. Thực tế tác pháp của Nhiếp Thực Giới được chia thành hai loại là Thông Kết (通結, kết giới chung) và Biệt Kết (別結, kết giới riêng). Như muốn giải trừ kết giới nói trên, thì khi kết giới, cũng phải nên trãi qua tác pháp gọi là Bạch Nhị Yết Ma (s: jñaptidvitiyā-karmavacanā, 白二羯磨, tức một lần thưa bạch và một lần Yết Ma) rồi mới có thể giải trừ. Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Tư Trì Ký (四分律行事鈔資持記, Taishō Vol. 40, No. 1805) quyển Thượng giải thích rằng: “Y Giới giả, nhiếp y dĩ thuộc nhân, linh vô ly túc tội; Thực Giới giả, nhiếp thực dĩ chướng tăng, linh vô túc chử tội; Tăng Giới giả, nhiếp nhân dĩ đồng xứ, linh vô biệt chúng tội (衣界者、攝衣以屬人、令無離宿罪、食界者、攝食以障僧、令無宿煮罪、僧界者、攝人以同處、令無別眾罪, Nhiếp Y Giới là giữ gìn y luôn đi theo bên người, khiến cho không phạm tội ly túc; Nhiếp Thực Giới là giữ gìn thức ăn để ngăn chận chư tăng [khỏi sai phạm], khiến cho không phạm tội túc chử; Nhiếp Tăng Giới là giữ gìn mọi người cùng một trú xứ, khiến cho không phạm tội biệt chúng).” Trong Luật Học Phát Nhận (律學發軔, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1125) quyển Trung, phần Kết Giới (結界), có đoạn: “Tỳ Kheo trú xứ, tiên đương kết giới, cái Yết Ma, thuyết giới, thọ giới, trị tội đẳng sự, tất y giới lập; nhược vô giới, tắc chư pháp giai bất năng thành tựu dã (比丘住處、先當結界、蓋羯磨、說戒、授戒、治罪等事、悉依界立、若無界、則諸法皆不能成就也, trú xứ của Tỳ Kheo, trước phải kết giới, phàm các việc như Yết Ma, thuyết giới, truyền trao giới, trị tội, v.v., đều nương vào giới vức mà lập; nếu không giới vức, thì các pháp đều không thể thành tựu vậy).” Bên cạnh đó, kết giới còn có nghĩa là nữ nhân kết giới (女人結界), tức cấm chỉ người nữ ra vào khu vực quy định. Kết giới cũng chỉ cho phạm vi nội trận (內陣, bộ phận chính giữa an trí tượng Phật) và ngoại trận (外陣, chỉ chu vi của nội trận, hay phần bên ngoài khu vực tham bái) trong Chánh Điện thờ Phật. Ngoài ra, đây cũng chỉ cho pháp kết giới của Mật Giáo. Đối với Mật Giáo, khi tu pháp, để phòng ngừa ma chướng xâm nhập, một địa khu được hoạch định để bảo vệ cho đạo tràng và hành giả; đó gọi là kết giới hay kết hộ (結護, ý là kết giới hộ thân). Pháp kết giới của Mật Giáo có nhiều loại khác nhau. Theo Bất Không Quyên Sách Thần Biến Chơn Ngôn Kinh (不空罥索神變眞言經, Taishō Vol. 20, No. 1092) quyển 2, Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō Vol. 18, No. 901) quyển 1, v.v., có thể lấy hạt cải trắng, rãi bốn phương trên dưới để kết giới. Tô Tất Địa Yết La Kinh (蘇悉地羯羅經, Taishō Vol. 18, No. 893b) quyển Hạ, Phẩm Cúng Dường (供養品), thì lấy giới vức địa phương, hư không, tường Kim Cang, thành Kim Cang, v.v., mà kết giới chơn ngôn. Thông thường, kết giới thường dùng của pháp tu Mật Giáo phần lớn y cứ chuẩn vào thuyết của Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō Vol. 18, No. 901) quyển 3, Cam Lộ Quân Trà Lợi Bồ Tát Cúng Dường Niệm Tụng Thành Tựu Nghi Quỹ (甘露軍荼利菩薩供養念誦成就儀軌, Taishō Vol. 21, No. 1211), v.v., được phân thành 5 loại như sau: (1) Địa Kết (地結), còn gọi là Kim Cang Quyết (金剛橛), tức là dựng một cây cọc nơi đại địa, gốc cọc đó hoặc bảo là đến tận cùng Kim Luân (s: kāñcana-maṇḍala, 金輪), hay đến tận cùng Thủy Luân (s: jala-maṇḍala, 水輪), v.v., là pháp thứ 6 trong 18 đạo Khế Ấn (契印). (2) Tứ Phương Kết (四方結), còn gọi là Kim Cang Tường (金剛牆), tức lấy bốn phương làm giới vức để kết giới, là pháp thứ 7 trong 18 đạo Khế Ấn. (3) Hư Thất Võng (虛室網), còn gọi là Kim Cang Võng (金剛網); tức lấy lưới Kim Cang giăng ra giữa hư không, mép lưới rũ lên đàn Kim Cang, là pháp thứ 14 trong 18 đạo Khế Ấn. (4) Hỏa Viện (火院), còn gọi là Kim Cang Viêm (金剛炎), lấy lửa cháy rực xoay nhiễu quanh bốn góc hư không, có thể giúp đuổi lui chướng nạn của ma Ba Tuần (s: Māra-pāpman, 波旬), là pháp thứ 15 trong 18 đạo Khế Ấn. (5) Đại Tam Muội Da (大三昧耶), là tổng kết giới ngoại trừ Hỏa Viện vừa nêu trên.
(金色界): hay kim sắc thế giới (金色世界), thế giới có sắc màu hoàng kim. Nó còn là tên gọi thế giới thanh tịnh của Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi (s: Mañjuśrī, 文殊師利). Bộ Triều Dã Quần Tải (朝野羣載) 16 có đoạn rằng: “Phụng thỉnh kim sắc thế giới Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát vi Yết Ma A Xà Lê (奉請金色世界文殊師利菩薩爲羯磨阿闍梨, phụng thỉnh Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi của thế giới có sắc màu hoàng kim làm Yết Ma A Xà Lê)”.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập