Việc đánh giá một con người qua những câu hỏi của người ấy dễ dàng hơn là qua những câu trả lời người ấy đưa ra. (It is easier to judge the mind of a man by his questions rather than his answers.)Pierre-Marc-Gaston de Lévis
Thước đo giá trị con người chúng ta là những gì ta làm được bằng vào chính những gì ta sẵn có. (The measure of who we are is what we do with what we have.)Vince Lombardi
Nếu bạn không thích một sự việc, hãy thay đổi nó; nếu không thể thay đổi sự việc, hãy thay đổi cách nghĩ của bạn về nó. (If you don’t like something change it; if you can’t change it, change the way you think about it. )Mary Engelbreit
Tôi chưa bao giờ học hỏi được gì từ một người luôn đồng ý với tôi. (I never learned from a man who agreed with me. )Dudley Field Malone
Trời sinh voi sinh cỏ, nhưng cỏ không mọc trước miệng voi. (God gives every bird a worm, but he does not throw it into the nest. )Ngạn ngữ Thụy Điển
Những ai có được hạnh phúc cũng sẽ làm cho người khác được hạnh phúc. (Whoever is happy will make others happy too.)Anne Frank
Thêm một chút kiên trì và một chút nỗ lực thì sự thất bại vô vọng cũng có thể trở thành thành công rực rỡ. (A little more persistence, a little more effort, and what seemed hopeless failure may turn to glorious success. )Elbert Hubbard
Khi tự tin vào chính mình, chúng ta có được bí quyết đầu tiên của sự thành công. (When we believe in ourselves we have the first secret of success. )Norman Vincent Peale
Đừng làm một tù nhân của quá khứ, hãy trở thành người kiến tạo tương lai. (Stop being a prisoner of your past. Become the architect of your future. )Robin Sharma
Cỏ làm hại ruộng vườn, tham làm hại người đời. Bố thí người ly tham, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 356)
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Vô Xạ »»

(黃鐘, 黃鍾): âm thanh đầu tiên thuộc về Dương trong 12 Luật của âm nhạc được quy định từ thời xưa của Trung Quốc, và cũng là tên gọi khác của tháng 11 Âm Lịch. Âm này tương đương với âm Nhất Việt (壱越, ichikotsu) trong 12 âm luật của Nhật Bản. Trong A Di Đà Kinh Sớ Sao Sự Nghĩa (阿彌陀經疏鈔事義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 22, No. 425) có giải thích rõ rằng 6 âm thanh thuộc về Dương gồm Hoàng Chung (黃鍾), Thái Thốc (太簇), Cô Tẩy (姑洗), Nhuy Tân (蕤賓), Di Tắc (夷則) và Vô Xạ (無射); 6 âm thanh thuộc về Âm là Đại Lữ (大呂), Giáp Chung (夾鍾), Trọng Lữ (仲呂), Lâm Chung (林鐘), Nam Lữ (南呂) và Ưng Chung (應鍾). Từ đó có cụm từ Hoàng Chung hủy khí (黃鐘毀棄) ám chỉ người hiền bị bài xích, ruồng bỏ. Như trong bài Bốc Cư (卜居) của Khuất Nguyên (屈原, 340-278 ttl.) của nhà Sở thời Chiến Quốc có đoạn: “Hoàng Chung hủy khí, ngõa phữu lôi minh, sàm nhân cao trương, hiền sĩ vô danh (黃鐘毀棄、瓦缶雷鳴、讒人高張、賢士無名, Hoàng Chung đem bỏ, bụng rỗng kêu to, kẻ hèn lên mặt, người hiền không tên).” Hay trong Chuẩn Đề Tịnh Nghiệp (準提淨業, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1077) quyển 3 có câu: “Hoàng Chung thập nhất nguyệt luật, đắc Đông khí cố, ngưng âm băng đống (黃鐘十一月律、得冬氣故、凝陰冰凍, Hoàng Chung tháng Mười Một luật, vì có khí Đông, đất trời băng đóng).” Trong Nhạc Điển (樂典) quyển 143 có giải thích về Hoàng Chung rằng: “Hoàng Chung giả, thị âm dương chi trung, nhược thiên hữu Lục Khí, giáng vi Ngũ Vị, thiên hữu Lục Giáp, địa hữu Ngũ Tý, tổng thập nhất, nhi thiên địa chi số tất hỉ, cố dĩ lục vi trung. Hoàng Chung giả, thị Lục Luật chi thủ, cố dĩ Hoàng Chung vi danh. Hoàng giả, thổ chi sắc, dương khí tại địa trung, cố dĩ Hoàng vi xưng. Chung giả, động dã, tụ dã; dương khí tiềm động ư huỳnh tuyền, tụ dưỡng vạn vật, manh nha tương xuất, cố danh Hoàng Chung dã (黃鍾者、是陰陽之中、若天有六氣、降爲五味、天有六甲、地有五子、總十一、而天地之數畢矣、故以六爲中、黃鍾者、是六律之首、故以黃鍾爲名、黃者、土之色、陽氣在地中、故以黃爲稱、鍾者、動也、聚也、陽氣潛動於黃泉、聚養萬物、萌芽將出、故名黃鍾也, Hoàng Chung là ở trong âm dương, nếu trời có Sáu Khí, giáng xuống thành Năm Vị, trời có Sáu Giáp, đất có Năm Tý, tổng cọng là mười một, là đủ hết số của trời đất vậy, nên lấy số sáu làm chính. Hoàng Chung là đứng đầu trong Sáu Luật, nên lấy Hoàng Chung làm tên. Hoàng [màu vàng] là sắc màu của đất, khí dương ở trong đất, cho nên lấy màu vàng mà gọi tên. Chung nghĩa là động, là tích tụ; khí dương ngầm chuyển động dưới Suối Vàng, tích tụ và nuôi dưỡng vạn vật, mầm non sẽ nhú ra, nên có tên là Hoàng Chung vậy).”
có tên gọi khác như Cúc Nguyệt (菊月), Thọ Y Nguyệt (授衣月), Thanh Nữ Nguyệt (青女月), Tiểu Điền Nguyệt (小田月), Bác Nguyệt (剝月), Quán Nguyệt (貫月), Sương Nguyệt (霜月), Trưởng Nguyệt (長月), Tuất Nguyệt (戌月), Hủ Nguyệt (朽月), Vịnh Nguyệt (詠月), Huyền Nguyệt (玄月), Nỉ Giác Nguyệt (禰覺月), Cúc Khai Nguyệt (菊開月), Hồng Diệp Nguyệt (紅葉月), Quý Thu (季秋), Mộ Thu (暮秋), Vãn Thu (晚秋), Cúc Thu (菊秋), Thu Mạt (秋末), Tàn Thu (殘秋), Lương Thu (涼秋), Tố Thu (素秋), Ngũ Âm Nguyệt (五陰月), Cùng Thu (窮秋), Diểu Thu (杪秋), Thu Thương (秋商), Mộ Thương (暮商), Quý Bạch (季白), Vô Xạ (無射), Sương Tự (霜序), Lương Nguyệt (涼月), Tam Thu (三秋), Quý Thương (季商), Cúc Tự (菊序). Một số câu hay cho tháng Chín như hà bàn lạc thúy (荷盤落翠, gương sen không còn sắc xanh biếc), phong cảnh phiêu hồng (楓景飄紅, cảnh cây phong phất phơ màu hồng), giang phong huyến cẩm (江風絢錦, gió sông rực rỡ gấm), ly cúc thư kim (籬菊舒金, cúc bờ rào phô màu vàng óng). Một số từ dùng cho tiết Trùng Dương (重陽) như Tam Thu hầu túc (三秋候足, khí tiết Ba Thu vừa đủ), vạn bảo cáo thành (萬寶告成, muôn điều quý báu đã thành), hoàng hoa mãn kính (黃花滿徑, hoa vàng khắp lối), hồng diệp doanh câu (紅葉盈溝, lá đỏ đầy rãnh nước), thư truyền tặng cúc (書傳贈菊, thư truyền đi tặng hoa cúc), Mạnh Gia lạc mạo (孟嘉落帽, Mạnh Gia rơi mũ), Hoàn Cảnh đăng cao (桓景登高, Hoàn Cảnh lên núi cao), sương lăng cúc nhị (霜淩菊蕊, sương thấm nhụy hoa cúc), tửu túy Thù Du (酒醉茱萸, rượu say Thù Du). Một số từ dùng cho truy điệu vào tháng này như cùng thanh bi thiết (蛩聲悲切, tiếng dế buồn da diết), nhạn trận hoành không (雁陣橫空, nhạn dàn trận trên không).
(窣堵波): âm dịch của chữ stūpa (s.) và thūpa (p.). Chữ này còn có các âm dịch khác như Tốt Đổ Bà (窣覩婆), Suất Đô Bà (率都婆), Tô Thâu Bà (蘇偸婆), Tư Thâu Ba (私鍮簸), Đẩu Đẩu Ba (藪斗波), Đâu Bà (兜婆), Thâu Bà (偸婆), v.v. Bên cạnh đó, còn có một số ý dịch của nó như cao hiển xứ (高顯處), công đức tụ (功德聚), phương phún (方墳), viên trũng (圓塚), phún lăng (墳陵), miếu (廟), trũng (塚), Phật đồ (佛圖), phù đồ (浮圖), v.v. Đây là kiến tạo vật được xây lên cao để an trí xá lợi của Phật, v.v., tức là tháp. Cũng có trường hợp tháp được xem giống như Chi Đề (s: caitya, p: cetiya, Chi Đề [支提、枝提], Chế Đa [制多]). Trong Ma Ha Tăng Kỳ Luật (s: Mahāsaṅghavinaya,摩訶僧祇律) 33 có ghi rằng: “Hữu xá lợi giả danh tháp, vô xá lợi giả danh Chi Đề (有舍利者名塔、無舍利者名枝提, cái có xá lợi gọi là tháp, cái không có xá lợi gọi là Chi Đề)”, nhưng sự phân biệt này không mang tính tuyệt đối.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập