Người ngu nghĩ mình ngu, nhờ vậy thành có trí. Người ngu tưởng có trí, thật xứng gọi chí ngu.Kinh Pháp cú (Kệ số 63)
Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
Sự thành công thật đơn giản. Hãy thực hiện những điều đúng đắn theo phương cách đúng đắn và vào đúng thời điểm thích hợp. (Success is simple. Do what's right, the right way, at the right time.)Arnold H. Glasow
Tôi phản đối bạo lực vì ngay cả khi nó có vẻ như điều tốt đẹp thì đó cũng chỉ là tạm thời, nhưng tội ác nó tạo ra thì tồn tại mãi mãi. (I object to violence because when it appears to do good, the good is only temporary; the evil it does is permanent.)Mahatma Gandhi
Hành động thiếu tri thức là nguy hiểm, tri thức mà không hành động là vô ích. (Action without knowledge is dangerous, knowledge without action is useless. )Walter Evert Myer
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Điểm yếu nhất của chúng ta nằm ở sự bỏ cuộc. Phương cách chắc chắn nhất để đạt đến thành công là luôn cố gắng thêm một lần nữa [trước khi bỏ cuộc]. (Our greatest weakness lies in giving up. The most certain way to succeed is always to try just one more time. )Thomas A. Edison
Hạnh phúc đích thực không quá đắt, nhưng chúng ta phải trả giá quá nhiều cho những thứ ta lầm tưởng là hạnh phúc. (Real happiness is cheap enough, yet how dearly we pay for its counterfeit.)Hosea Ballou
Hạnh phúc không tạo thành bởi số lượng những gì ta có, mà từ mức độ vui hưởng cuộc sống của chúng ta. (It is not how much we have, but how much we enjoy, that makes happiness.)Charles Spurgeon
Ngủ dậy muộn là hoang phí một ngày;tuổi trẻ không nỗ lực học tập là hoang phí một đời.Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Vĩnh Giác Nguyên Hiền »»
(芹曝): từ khiêm tốn, chỉ cho lễ vật dâng hiến nhỏ nhặt, ít ỏi, đạm bạc, không đầy đủ nhưng với cả tấm lòng chí thành. Từ này thường được dùng đồng nghĩa với cần hiến (芹獻), hiến bộc (獻曝). Trong bài Cư Hậu Đệ Hòa Thất Thập Tứ Ngâm Tái Phú (居厚弟和七十四吟再賦) của Lưu Khắc Trang (劉克莊, 1187-1269) nhà Tống có câu: “Phê đồ tằng cử từ thần chức, cần bộc chung hoài dã lão tâm (批塗曾舉詞臣職、芹曝終懷野老心, phê chuẩn từng cử chức quan lớn, lễ bạc còn lo lão quê lòng).” Hay như trong bài thơ Chân Châu Tiêu Nương Chế Cao Bính Tối Hữu Danh (真州蕭娘制糕餅最有名) của Triệu Dực (趙翼, 1727-1814) nhà Thanh cũng có câu: “Quỹ tiết liêu đồng hiến bộc tình, cạnh yêu chuyên bút tứ bao vinh (饋節聊同獻曝情、競邀椽筆賜褒榮, quà biếu cũng như lễ mọn tình, tranh mời bút lực tặng hiển vinh).” Trong Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, 卍 tục tạng kinh Vol. 63, No. 1252) quyển 2, phần Anh Bệnh Dũ Hoàn Nguyện (嬰病愈還愿), lại có câu: “Tư tuần báo ân chi điển, nãi cần hiến bộc chi nghi (茲循報恩之典、乃勤獻曝之儀, nay nương báo ân kinh điển, mà bày lễ bạc khoa nghi).” Lại trong Vĩnh Giác Nguyên Hiền Thiền Sư Quảng Lục (永覺元賢禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1437) quyển 17, phần Phúng Kinh Hộ Quốc Sớ (諷經護國疏), cũng có đoạn: “Chuy y ký nhược, đồ hoài hiến bộc chi thành; Phật đức khả bằng, cung tuyên hộ quốc chi điển (緇衣旣弱、徒懷獻曝之誠、佛德可憑、恭宣護國之典, tăng thân đã yếu, chỉ lo lễ bạc lòng thành; đức Phật thể nương, kính tuyên hộ quốc kinh điển).”
(緇流): từ gọi khác của tăng đồ, tu sĩ. Nguyên lai, tăng ni thường mặc y phục màu đen, nên có tên gọi như vậy. Như trong Vĩnh Giác Nguyên Hiền Thiền Sư Quảng Lục (永覺元賢禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1437) quyển 16, bài Tế Chơn Tịch Văn Cốc Đại Sư (祭眞寂聞谷大師), có đoạn: “Tảo mộ chơn đế, thâm yếm tục trần, ký nhập chuy lưu, toại bồi huệ chủng (早慕眞諦、深厭俗塵、旣入緇流、遂培慧種, sớm thích giải thoát, chán ghét tục trần, gia nhập tăng thân, bồi hạt giống tuệ).”
(妙道): đạo mầu nhiệm, đạo tối thượng, đạo vô thượng; là từ thay thế cho giáo pháp của đức Phật. Như trong Vĩnh Giác Nguyên Hiền Thiền Sư Quảng Lục (永覺元賢禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1437) quyển 17, phần Độc Nghệ Sư Tạo Tĩnh Thất Sớ (獨詣師造靜室疏), có đoạn: “Nguyên phù, vô động vô tĩnh giả, diệu đạo chi thể; hữu động hữu tĩnh giả, diệu đạo chi dụng (原夫、無動無靜者、妙道之體、有動有靜者、妙道之用, nguyên lai cái không động không tĩnh là thể của đạo mầu; cái có động có tĩnh là dụng của đạo mầu).” Hay trong Tục Truyền Đăng Lục (續傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2077) quyển 3, phần Tùy Châu Đại Hồng Pháp Vi Thiền Sư (隨州大洪法爲禪師), lại có đoạn: “Pháp Thân vô tướng, bất khả dĩ âm thanh cầu; diệu đạo vong ngôn, khởi khả dĩ văn tự hội (法身無相、不可以音聲求、妙道亡言、豈可以文字會, Pháp Thân không tướng, chẳng thể lấy âm thanh mà tìm; đạo mầu quên lời, liệu có thể lấy chữ nghĩa hiểu được chăng ?).” Hoặc trong Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1252) quyển 3, phần Tiến Điệu Môn (薦悼門), có câu: “Lễ Thập Hiệu chi từ tôn, ngộ Nhất Thừa chi diệu đạo (禮十號之慈尊、悟一乘之妙道, lạy Mười Hiệu đấng từ tôn, ngộ Một Thừa ấy đạo mầu).”
(洞上古轍, Dōjōkotetsu): 2 quyển, trước tác của Vĩnh Giác Nguyên Hiền (永覺元賢) nhà Minh, do Vi Lâm Đạo Bái (爲林道霈) biên tập, san hành trong khoảng thời gian niên hiệu Khang Hy (康熙, 1662-1722). Đây là tác phẩm do Vĩnh Giác Nguyên Hiền―pháp từ của Vô Minh Huệ Kinh (無明慧經)―viết vào năm thứ 17 (1644) niên hiệu Sùng Trinh (崇貞) để đính chính những sai lầm của chư vị cổ đức và truyền đạt cốt tủy tông chỉ của Tào Động Tông. Quyển thượng có Tham Đồng Khế Chú (參同契註), Bảo Kính Tam Muội Chú (寳鏡三昧註), Ngũ Vị Thuyết Chú (五位說註), Thập Huyền Đàm Chú (十玄談註), v.v.; quyển hạ có tựa đề là Tiên Đức Vi Ngôn (先德微言), nêu lên cương lĩnh tông môn của Vạn Tùng Hành Tú (萬松行秀) và thêm vào lời bình xướng.
(湧[涌]泉寺, Yūsen-ji): ngôi danh lam cổ sát hiện tọa lại dưới chân núi Bạch Vân Phong (白雲峰) thuộc Cổ Sơn (鼓山), phía Đông Huyện Mân (閩縣), Phủ Phúc Châu (福州府, Tỉnh Phúc Kiến). Xưa kia, trên Bạch Vân Phong có một hồ nước, có con độc long sống trong đó và thường xuyên nhiễu hại dân lành. Vào năm thứ 4 (783) niên hiệu Kiến Trung (建中) nhà Đường, vị quan Tùng Sự Bùi Trụ (裴冑) cung thỉnh tu sĩ Linh Kiệu (靈嶠) đến tụng Kinh Hoa Nghiêm (華嚴經) bên hồ, con rồng kia nhân nghe pháp mà bỏ đi nơi khác. Do đó, nơi đây một ngôi chùa được dựng lên với tên gọi ban đầu là Hoa Nghiêm Tự (華嚴寺). Về sau, nhân gặp phải nạn phá Phật Hội Xương (會昌), chúng tăng bỏ chạy tứ tán nên chùa trở thành hoang phế. Trải qua 70 năm, đến năm thứ 2 (908) niên hiệu Khai Bình (開平) nhà Lương, vua nhà Mân là Thẩm Tri (審知) trùng hưng lại chùa này, cung thỉnh Thần Yến (神晏, tức Hưng Thánh Quốc Sư [興聖國師])―pháp từ của Tuyết Phong Nghĩa Tồn (雪峰義存)―đến làm trú trì đời thứ nhất. Tại đây, Thần Yến bắt đầu cử xướng tông phong của thầy mình, tương truyền chúng hội thường có đến vạn người. Sau đó, các pháp từ của Thần Yến như Trí Nghiêm (智嚴, tức Liễu Giác Đại Sư [了覺大師]), Trí Nhạc (智岳, tức Liễu Tông Đại Sư [了宗大師]), Thanh Ngạc (清諤, tức Tông Hiểu Thiền Sư [宗曉禪師]), v.v., kế tiếp sự nghiệp tôn sư duy trì Thiền môn. Đến năm thứ 5 (915) niên hiệu Càn Hóa (乾化), chùa được ban sắc ngạch là Cổ Sơn Bạch Vân Phong Dũng Tuyền Viện (鼓山白雲峰湧泉院). Dưới thời nhà Tống, chùa lại được đổi thành Hoa Nghiêm Tự. Vào đầu niên hiệu Thuận Trị (順治, khoảng 1644) nhà Minh, Vĩnh Giác Nguyên Hiền (永覺元賢) đến trú nơi đây và tiến hành trùng tu toàn bộ; sau đó Vi Lâm Đạo Bái (爲霖道霈) cũng có trú trì nơi đây.
(憨璞性聰, Kampaku Shōsō, 1610-1666): vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu Minh Giác (明覺), tự Hám Phác (憨璞), xuất thân Diên Bình Thuận Xương (延平順昌), thuộc Huyện Mân (閩, tỉnh Phúc Kiến), họ là Liên (連). Năm 15 tuổi, ông đến nhập môn ở Thiên Vương Tự (天王寺) và 3 năm sau xuống tóc xuất gia. Từ 25 tuổi, ông đã đi ngao du đó đây, theo học kinh luận với Bổn Huy (本輝) ở Chi Đề Sơn (支提山) và thọ cụ túc với Đại Vân (大雲) ở Phổ Đà Nham (普陀巖), Nam Hải (南海, Tỉnh Triết Giang). Sau đó, ông đến tham Thiền với Mặc Uyên (默淵) ở Võ Lâm Sơn (武林山, Tỉnh Triết Giang), Vĩnh Giác Nguyên Hiền (永覺元賢), v.v. Cuối cùng ông đại ngộ dưới trướng của Nhĩ Mật Minh Phục (爾密明澓) ở Đông Sơn (東山) thuộc Phủ Thiệu Hưng (紹興府, Tỉnh Triết Giang), rồi được Ngư Đàm (魚潭) ở Ôn Châu (溫州, Tỉnh Triết Giang) ấn chứng cho và sau đó đắc pháp với Bách Si Hành Nguyên (百癡行元) ở Thái Bình Tự (太平寺), Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang). Từ đó về sau, ông sống qua một số chùa như Quan Âm Tự (觀音寺) ở Cẩm Sơn (錦山), Hàng Châu, Pháp Hỷ Tự (法喜寺) ở Dư Hàng (餘杭, Tỉnh Triết Giang), Quảng Phước Viện (廣福院) ở Tiền Đường (錢唐, Tỉnh Triết Giang), Hải Hội Tự (海會寺) cũng như Diên Thọ Tự (延壽寺) ở Thuận Thiên (順天, Tỉnh Hà Bắc), An Quốc Tự (安國寺) ở Thiệu Võ (邵武, Tỉnh Phúc Kiến), v.v. Đến ngày 13 tháng 12 năm thứ 5 (1666) niên hiệu Khang Hy (康熙), ông thị tịch, hưởng thọ 57 tuổi đời và 39 hạ lạp. Pháp từ của ông có hơn 20 người. Ông có để lại tác phẩm Minh Giác Thông Thiền Sư Ngữ Lục (明覺聰禪師語錄) 16 quyển. Phùng Phổ (馮溥) soạn bài tháp minh cho ông.
(s: āyuṣmat, p: āyasmant, 慧命): ý dịch là cụ thọ mạng (具壽命), cụ thọ (具壽); cũng là từ tôn xưng đối với vị Tỳ Kheo cao đức, còn gọi là huệ thọ (慧壽). Giống như sắc thân thì nương tựa vào ăn uống để nuôi dưỡng, Pháp Thân lấy trí tuệ làm thọ mạng nuôi dưỡng; nên mạng của trí tuệ bị thương tổn thì thể của Pháp Thân mất đi. Vì tuệ là thọ mạng của Pháp Thân, nên được gọi là tuệ [huệ] mạng. Như trong Tăng Già Tra Kinh (僧伽吒經, Taishō Vol. 13, No. 423) quyển 1 có đoạn: “Nhất thời Bà Già Bà, tại Vương Xá Thành Linh Thứu Sơn trung, cọng Ma Ha Tỳ Kheo tăng nhị vạn nhị thiên nhân câu, kỳ danh viết, huệ mạng A Nhã Kiều Trần Như, huệ mạng Ma Ha Mô Già Lược, huệ mạng Xá Lợi Tử, huệ mạng Ma Ha Ca Diếp, huệ mạng La Hầu La, huệ mạng Bà Câu La, huệ mạng Bạt Đà Tư Na, huệ mạng Hiền Đức, huệ mạng Hoan Hỷ Đức, huệ mạng Võng Chỉ, huệ mạng Tu Phù Đế, huệ mạng Nan Đà Tư Na (一時婆伽婆、在王舍城靈鷲山中、共摩訶比丘僧二萬二千人俱、其名曰慧命阿若憍陳如、慧命摩訶謨伽略、慧命舍利子、慧命摩訶迦葉、慧命羅睺羅、慧命婆俱羅、慧命跋陀斯那、慧命賢德、慧命歡喜德、慧命網指、慧命須浮帝、慧命難陀斯那, một thưở nọ đức Bà Già Bà, ở trong núi Linh Thứu Thành Vương Xá, cùng với đại Tỳ Kheo tăng hai vạn hai ngàn người tập trung, tên các vị đó là A Nhã Kiều Trần Như tôn kính, Ma Ha Mô Già Lược tôn kính, Xá Lợi Tử tôn kính, Ma Ha Ca Diếp tôn kính, La Hầu La tôn kính, Bà Câu La tôn kính, Bạt Đà Tư Na tôn kính, Hiền Đức tôn kính, Hoan Hỷ Đức tôn kính, Võng Chỉ tôn kính, Tu Phù Đế tôn kính, Nan Đà Tư Na tôn kính).” Hay trong Vĩnh Giác Nguyên Hiền Thiền Sư Quảng Lục (永覺元賢禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1437) quyển 15, phần Thỉnh Phương Sách Tạng Kinh Ký (請方册藏經記), lại có đoạn: “Chư Phật huệ mạng, phi văn tự dã; nhiên thác chi văn tự dĩ truyền; cố thiện độc giả, hóa văn tự vi huệ mạng; bất thiện độc giả, hóa huệ mạng vi văn tự (諸佛慧命、非文字也、然托之文字以傳、故善讀者、化文字爲慧命、不善讀者、化慧命爲文字, huệ mạng của chư Phật, chẳng phải là chữ nghĩa; nhưng nhờ vào chữ nghĩa mà lưu truyền; cho nên người khéo đọc thì chuyển chữ nghĩa thành huệ mạng; người không khéo đọc thì chuyển huệ mạng thành chữ nghĩa).”
(繼燈錄, Keitōroku): 6 quyển, do Vĩnh Giác Nguyên Hiền (永覺元賢) nhà Minh trước tác, san hành vào năm thứ 8 (1651) niên hiệu Thuận Trị (順治). Nguyên Hiền biên thuật bộ này vào năm thứ 2 (1648), thứ 4 (1650) niên hiệu Vĩnh Lịch (永曆), và đặt tên là Kế Đăng Lục với ý nghĩa là tập thâu lục các Truyền Đăng Lục tiếp theo Ngũ Đăng Hội Nguyên (五燈會元). Chủ yếu tập trung vào hai tông Tào Động và Lâm Tế, thư tịch này thâu lục Tào Động Tông 41 người tính từ đời thứ 16 trở xuống thuộc môn hạ Thanh Nguyên (青原), Lâm Tế Tông 216 người kể từ đời thứ 18 trở xuống thuộc môn hạ Nam Nhạc (南岳), ngoài ra còn có 7 người khác, tổng cọng là 264 người. Vào năm thứ 5 (1692) niên hiệu Nguyên Lộc (元祿), bộ này được tái san hành.
(金經): kinh điển vàng ngọc. Kinh (s: sūtra, p: sutta, 經), âm dịch là Tu Đa La (修多羅), ý dịch là Khế Kinh (契經), Chánh Kinh (正經), Quán Kinh (貫經); là từ gọi chung cho tất cả Phật pháp, hay chỉ cho một loại trong 9 hoặc 12 phần giáo. Từ này còn dùng để chỉ cho các kinh điển của Đạo Giáo. Như trong bài thơ Thù Điền Dật Nhân Du Nham Kiến Tầm Bất Ngộ (酬田逸人遊岩見尋不遇) của thi nhân Trần Tử Ngang (陳子昂, 661-702) nhà Đường có câu: “Thạch tủy không doanh ác, kim kinh bí bất văn (石髓空盈握、金經祕不聞, nhũ đá rỗng nắm trọn, kinh vàng linh chẳng nghe).” Hay trong Vĩnh Giác Nguyên Hiền Thiền Sư Quảng Lục (永覺元賢禪師廣錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1437) quyển 26, bài thơ Đề Sư Tử Am (題獅子菴), có đoạn: “Sát can cao thụ thạch khê đông, bán yểm tùng vân thúy sắc nồng, nhật ngọ kim kinh phương bãi độc, nhất thanh sư hống bạch vân trung (剎竿高豎石溪東、半掩松雲翠色濃、日午金經方讀罷、一聲獅吼白雲中, đầu sào cao vút khe đá đông, xanh biếc sắc màu che mây tùng, quá trưa kinh vàng vừa đọc hết, tiếng gầm sư tử mây trắng trong).” Hoặc trong Liên Tu Khởi Tín Lục (蓮修起信錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 62, No. 1204) lại có câu: “Quá khứ hiện tại cập vị lai, nhất thiết hữu tình Tam Giới biến, ngã kim thích huyết tả kim kinh, cúng phụng từ vương khất thùy giám, phù đồ thất cấp tánh trung quang, Di Đà nhất cú tâm đầu niệm, đồng sanh Cực Lạc ly khổ luân (過去現在及未來、一切有情三界遍、我今刺血寫金經、供奉慈王乞垂鑒、浮圖七級性中光、彌陀一句心頭念、同生極樂離苦輪, quá khứ hiện tại và tương lai, hết thảy hữu tình Ba Cõi khắp, con nay chích máu viết kinh vàng, dâng cúng đức từ xin chứng giám, bảy tầng tháp báu hiện hào quang, Di Đà mọtt câu trong tâm niệm, cùng sanh Cực Lạc thoát luân hồi).”
(禪海十珍, Zenkaijicchin): 1 quyển, do Vi Lâm Đạo Bái (爲霖道霈) nhà Minh biên tập, san hành năm thứ 26 (1687) niên hiệu Khang Hy (康熙) nhà Thanh. Vi Lâm Đạo Bái—pháp từ của Vĩnh Giác Nguyên Hiền (永覺元賢)—đặc biệt soạn ra 10 thiên từ trong Thiền Hải Pháp Bảo (禪海法寶), ghi lời niêm vào trong cương tông và luận bình về yếu chỉ của chúng với mục đích làm sách gối đầu cho những người sơ tâm tham học. Mười thiên gồm: Thất Phật Truyền Pháp Kệ (七佛傳法偈), Nhập Đạo Tứ Hành (入道四行) của Bồ Đề Đạt Ma (菩提達磨), Tín Tâm Minh (信心銘) của Tam Tổ Tăng Xán (僧璨), Nhị Chủng Tam Muội (二種三昧) của Lục Tổ Huệ Năng (慧能), Chứng Đạo Ca (證道歌) của Vĩnh Gia (永嘉), Tham Đồng Khế (參同契) của Thạch Đầu (石頭), pháp ngữ của Lâm Tế (臨濟), Bảo Kính Tam Muội (寶鏡三昧) của Động Sơn (洞山), Thập Huyền Đàm (十玄談) của Đồng An (同安), và Cửu Đới (九帯) của Phù Sơn (浮山). Tác phẩm này được san hành tại Thánh Tiễn Đường (聖箭堂) ở Cổ Sơn (鼓山) và tại Nhật có bản san hành vào năm thứ 8 (1695) niên hiệu Nguyên Lộc (元祿).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập