Chưa từng có ai trở nên nghèo khó vì cho đi những gì mình có. (No-one has ever become poor by giving.)Anne Frank
Chúng ta có thể sống không có tôn giáo hoặc thiền định, nhưng không thể tồn tại nếu không có tình người.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Một người chưa từng mắc lỗi là chưa từng thử qua bất cứ điều gì mới mẻ. (A person who never made a mistake never tried anything new.)Albert Einstein
Việc người khác ca ngợi bạn quá hơn sự thật tự nó không gây hại, nhưng thường sẽ khiến cho bạn tự nghĩ về mình quá hơn sự thật, và đó là khi tai họa bắt đầu.Rộng Mở Tâm Hồn
Kẻ ngốc nghếch truy tìm hạnh phúc ở xa xôi, người khôn ngoan gieo trồng hạnh phúc ngay dưới chân mình. (The foolish man seeks happiness in the distance, the wise grows it under his feet. )James Oppenheim
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Để chế ngự bản thân, ta sử dụng khối óc; để chế ngự người khác, hãy sử dụng trái tim. (To handle yourself, use your head; to handle others, use your heart. )Donald A. Laird
Bạn đã từng cố gắng và đã từng thất bại. Điều đó không quan trọng. Hãy tiếp tục cố gắng, tiếp tục thất bại, nhưng hãy thất bại theo cách tốt hơn. (Ever tried. Ever failed. No matter. Try Again. Fail again. Fail better.)Samuel Beckett
Kẻ thù hại kẻ thù, oan gia hại oan gia, không bằng tâm hướng tà, gây ác cho tự thân.Kinh Pháp Cú (Kệ số 42)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Viên Trân »»
(印融, Inyū, 1435-1519): vị học tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống dưới thời đại Thất Đinh và Chiến Quốc, húy là Ấn Dung (印融), tự là Lại Thừa (賴乘), xuất thân vùng Cửu Bảo (久保, Kubo), Võ Tàng (武藏, Musashi). Lúc còn trẻ, ông đi du học khắp các vùng kinh đô Kyoto, Nại Lương (奈良, Nara); đến năm 1460, ông thọ pháp với Hiền Kế (賢繼) ở Tam Hội Tự (三會寺) vùng Ô Sơn (烏山, Karasuyama), Võ Tàng; rồi học áo nghĩa của Dòng Tây Viện qua Trường Viên (長圓), Viên Trấn (圓鎭). Sau đó, ông đến trú tại Vô Lượng Thọ Viện (無量壽院) của Cao Dã Sơn, chuyên tu về Mật Giáo. Đến khoảng năm 1488, ông trở về lại Võ Tàng, sống qua một số nơi như Quang Đức Tự (光德寺) ở Kim Trạch (金澤, Kanazawa), Tích Trượng Tự (錫杖寺), Tam Hội Tự ở Hà Khẩu (河口, Kawaguchi), v.v.; từ đó ông tận lực truyền bá Mật Giáo để phục hưng lại tình trạng suy thối ở vùng Quan Đông (關東, Kantō). Đệ tử phú pháp của ông có Thị Dung (是融), Giác Dung (覺融). Trước tác của ông có San Bảo Ẩn Độn Sao (杣本隱遁鈔) 20 quyển, Thích Luận Chỉ Nam Sao (釋論指南鈔) 10 quyển, Đại Nhật Kinh Sớ Chỉ Nam Sao Điếu Vật (大日經疏指南鈔釣物) 9 quyển, Thích Luận Ngu Án Sao (釋論愚案鈔) 7 quyển, Cổ Bút Sao (古筆鈔) 6 quyển, v.v.
(安然, Annen, 841-915?): học tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, húy là An Nhiên (安然), thông xưng là Ngũ Đại Viện A Xà Lê (五大院阿闍梨), Bí Mật Đại Sư (秘密大師); hiệu là Phước Tập Kim Cang (福集金剛), Chơn Như Kim Cang (眞如金剛); thụy hiệu là A Giác Đại Sư (阿覺大師); xuất thân vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Hồi còn nhỏ, ông theo hầu Viên Nhân (圓仁, Ennin), rồi đến năm 859 thì thọ Bồ Tát giới với vị này. Sau khi Viên Nhân qua đời, ông theo hầu Biến Chiếu (遍照, Henjō) và chuyên tâm nghiên cứu về Mật Giáo cũng như Hiển Giáo. Năm 877, ông nhận được điệp phù cho sang nhà Đường cầu pháp, nhưng việc ông có lên thuyền đi hay không thì có nhiều thuyết khác nhau. Cùng năm đó, ông được trao truyền cho các sở học về Tất Đàm, Kim Cang Giới của Viên Nhân từ Đạo Hải (道海, Dōkai) và Trường Ý (長意, Chōi). Vào năm 984, ông lại được Biến Chiếu trao truyền cho Thai Tạng (胎藏) cũng như Kim Cang Giới Thọ Vị Quán Đảnh (金剛界授位灌頂), và trở thành Tam Bộ Đô Pháp Truyền Pháp Đại A Xà Lê (三部都法傳法大阿闍梨). Ông dựng nên Ngũ Đại Viện (五大院) ở trên Tỷ Duệ Sơn và sống ở đây chuyên tâm nghiên cứu cũng như trước tác, nên ông được gọi là bậc tiên đức của Ngũ Đại Viện. Trước tác của ông có Bắc Lãnh Giáo Thời Vấn Đáp Sao (北嶺敎時問答抄), Bồ Đề Tâm Nghĩa Lược Vấn Đáp Sao (菩提心義略問答抄), Phổ Thông Thọ Bồ Tát Giới Nghi Quảng Thích (普通授菩薩戒儀廣釋), Bát Gia Bí Lục (八家秘錄), Thai Kim Tô Đối Thọ Ký (胎金蘇對受記), Giáo Thời Tránh Luận (敎時諍論), v.v., tổng cọng hơn 100 bộ. Trong khi đó, theo truyền thuyết về An Nhiên thì đương thời cũng có một nhân vật cùng tên với ông, nhưng người đó đến giữa đời bần cùng đói mà chết. An Nhiên kế thừa Viên Nhân và Viên Trân (圓珍, Enchin), tuyên dương giáo chỉ Viên Mật Nhất Trí của Thiên Thai Tông Nhật Bản, lập nên Giáo Tướng Phán Thích (敎相判釋) của Ngũ Thời Ngũ Giáo (五時五敎) và làm cho Mật Giáo hưng long tột đỉnh.
(慶祚, Keiso, 955-1019): học tăng của Thiên Thai Tự Tông Môn Nhật Bản, sống vào khoảng giữa thời Bình An, húy Khánh Tộ (慶祚), thông xưng là Long Vân Phường Tiên Đức (龍雲坊先德), hiệu là Long Vân Phường (龍雲坊), xuất thân kinh đô Kyōto, con của Đại Ngoại Ký Trung Nguyên Sư Nguyên (大外記中原師元). Ông theo Dư Khánh (余慶, Yokei) ở Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji) vùng Cận Giang (近江, Ōmi) học giáo nghĩa của các tông Hiển Mật; đến năm 991 thì được thọ pháp Quán Đảnh. Vào năm 993, khi hai chúng môn đồ của Viên Nhân (圓仁, Ennin) và Viên Trân (圓珍, Enchin) đối lập nhau, ông chuyển đến Đại Vân Tự (大雲寺, Daiun-ji) ở vùng Nham Thương (岩岡), Sơn Thành (山城, Yamashiro) và sau đó trở về Viên Thành Tự. Từ đó, học chúng vân tập đến rất đông, vì vậy giáo học của Phái Tự Môn (寺門派) trở nên hưng thạnh. Đến năm 997, khi 5 bộ sách mới được gởi từ bên nhà Bắc Tống Trung Quốc sang, vâng mệnh triều đình, ông bình luận về nghĩa Long Nữ Thành Phật (龍女成佛). Vào năm 1017, mở hội Pháp Hoa Thập Giảng (法華十講) nhân ngày húy kỵ của Viên Trân. Trước tác của ông có Tây Phương Yếu Quán (西方要觀) 1 quyển, Pháp Hoa Long Nữ Thành Phật Quyền Thật Nghi Nạn (法華龍女成佛權實疑難) 1 quyển.
(門跡, monzeki): nguyên lai đây là từ dùng để chỉ những di tích được đặc biệt quy định như Môn Tích của Hoằng Pháp Đại Sư (弘法大師, Kōbō Daishi, tức Không Hải [空海, Kūkai]), Môn Tích của Từ Giác Đại Sư (慈覺大師, Jikaku Daishi, tức Viên Nhân [圓仁, Ennin]), hay Môn Tích của Trí Chứng Đại Sư (智証大師, Chishō Daishi, tức Viên Trân [圓珍, Enchin]), v.v. Nhưng sau này tầng lớp Hoàng tộc xuất gia, chùa họ ở cũng được gọi là Môn Tích, đặc biệt còn dùng từ kính xưng như Ngự Môn Tích (御門跡). Vào năm 899, đầu tiên Vũ Đa Thiên Hoàng (宇多天皇, Uda Tennō) xuất gia và sống ở Nhân Hòa Tự (仁和寺, Ninna-ji), và từ xưng hô Môn Tích có thể tìm thấy qua bộ Nguyên Bình Thạnh Suy Ký (源平盛衰記) hay Bình Gia Vật Ngữ (平家物語), được phát xuất từ đầu thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura, 1185-1333). Còn Tự Viện Môn Tích là nơi Hoàng tộc cũng như con quan Nhiếp Chính đến xuất gia và cư trú, nơi có tư cách chùa tối cao và được mọi người tôn sùng tối đa. Đến thời đại Thất Đinh (室町, Muromachi, 1292-1573), Môn Tích trở thành ngôn từ thể hiện cách thức của tự viện; đến thời Mạc Phủ thì có đặt ra chức quan Môn Tích Phụng Hành (門跡奉行, Monzekibugyō) để quản lý việc chính trị liên quan đến các Tự Viện Môn Tích. Những Tự Viện Môn Tích dưới thời đại Thất Đinh gồm Nhân Hòa Tự (仁和寺), Đại Giác Tự (大覺寺), Tùy Tâm Tự (隨心寺), Khuyến Tu Tự (勸修寺), Tam Bảo Viện (三寶院), Liên Hoa Quang Viện (蓮華光院), An Tường Tự (安祥寺), Thiền Lâm Tự (禪林寺), Thắng Bảo Viện (勝寶院), Kim Cang Vương Viện (金剛王院), Bồ Đề Viện (菩提院), v.v., của Chơn Ngôn Tông; Viên Dung Viện (圓融院), Thanh Liên Viện (青蓮院), Diệu Pháp Viện (妙法院) của Thiên Thai Tông; về phía Phái Tự Môn thì có Thánh Hộ Viện (聖護院), Thật Tướng Viện (實相院), Viên Mãn Viện (圓滿院); Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) có Nhất Thừa Viện (一乘院) và Đại Thừa Viện (大乘院); Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji) có Đông Nam Viện (東南院), v.v. Ngoài ra, còn có Chiếu Cao Viện (照高院), Bình Đẳng Viện (平等院), Pháp Trú Tự (法住寺), Bản Giác Tự (本覺寺), v.v., cũng được xếp vào hạng Môn Tích. Trường hợp Bổn Nguyện Tự (本願寺, Hongan-ji) cũng đã bao lần xin được xếp vào hạng chùa Chuẩn Môn Tích, và mãi đến năm 1559 mới được công nhận; sau đó, Chuyên Tu Tự (專修寺) ở vùng Cao Điền (高田) cũng được liệt vào hạng Chuẩn Môn Tích. Đến thời đại Giang Hộ (江戸, Edo, 1600-1867), vào năm 1607, Tri Ân Viện (知恩院, Chion-in) được xếp vào hàng Tự Viện Môn Tích. Đến năm 1655, Luân Vương Tự (輪王院), Tư Hạ Viện (滋賀院) được liệt vào hạng Chùa Môn Tích. Dưới thời đại Giang Hộ, các Tự Viện Môn Tích được chế độ hóa rõ ràng, phân chia thành nhiều loại khác nhau như Cung Môn Tích (宮門跡), Thanh Hoa Môn Tích (清華門跡), Nhiếp Gia Môn Tích (攝家門跡), Chuẩn Môn Tích (准門跡, tức Hiếp Môn Tích [脇門跡, wakimonzeki]), v.v. Cung Môn Tích là những ngôi tự viện do các vị Thân Vương sống ở đó, gồm có Thánh Hộ Viện (聖護院), Luân Vương Tự (輪王院), Nhân Hòa Tự (仁和寺), Diệu Pháp Viện (妙法院), Chiếu Cao Viện (照高院), Thanh Liên Viện (青蓮院), Tri Ân Viện (知恩院), Khuyến Tu Tự (勸修寺), Nhất Thừa Viện (一乘院), Viên Dung Viện (圓融院), Mạn Thù Viện (曼殊院), Tỳ Sa Môn Đường (毘沙門堂), Viên Mãn Viện (圓滿院), v.v. Còn Nhiếp Gia Môn Tích là nơi do con của những vị công khanh đến xuất gia và trú ngụ, gồm Tùy Tâm Viện (隨心院), Tam Bảo Viện (三寶院), Đại Thừa Viện (大乘院), Đại Giác Tự (大覺寺), Liên Hoa Quang Viện (蓮華光院), v.v. Còn như trường hợp Viên Mãn Viện, Thật Tướng Viện, Nhất Thừa Viện, v.v., được gọi là Công Phương Môn Tích (公方門跡). Các ngôi chùa Thanh Hoa Môn Tích có Khuyến Tu Tự, Tỳ Sa Môn Đường, v.v. Những ngôi chùa được xếp hạng Chuẩn Môn Tích có Đông Tây Bổn Nguyện Tự (東西本願寺), Chuyên Tu Tự (專修寺), Phật Quang Tự (佛光寺), Cẩm Chức Tự (錦織寺), v.v. Đến năm 1871, dưới thời Minh Trị (明治, Meiji), hiệu Môn Tích bị phế bỏ, nhưng sau đó thì được sử dụng lại cho đến ngày nay. Trong số các ngôi chùa Môn Tích này có chư tăng xuất gia, cũng có nhiều hạng người để phục dịch như Tăng quan; họ cũng xuống tóc xuất gia, mặc y phục tu sĩ nhưng mang đao kiếm, ăn thịt, có vợ con; lại có đại đồng tử, tiểu đồng tử, v.v. Chính vì tên gọi Môn Tích thể hiện toàn bộ tính cách ngôi chùa như thế nào, nên sau này mỗi khi dùng đến từ này (hay Môn Chủ), người ta còn ám chỉ đến vị Trú Trì chùa ấy nữa. Thêm vào đó, ngôi chùa nào có các vị Nội Thân Vương xuất gia và cư trú, cũng được xếp vào hạng Chuẩn Môn Tích. Về nguồn gốc phát sinh từ Môn Tích, có tác phẩm Môn Tích Truyện (門跡傳), 1 quyển, thuật lại rất chi tiết, đầy đủ. Thư tịch này ghi rõ lịch đại chư vị trú trì cũng như ngày tháng năm qua đời của họ ở các chùa Môn Tích. Không rõ ai là người biên tập nên tác phẩm này.
(關聖): tên gọi một vị danh tướng của nhà Thục thời Tam Quốc, tên là Quan Vũ (關羽), tự là Trường Sanh (長生), Vân Trường (雲長), thường gọi là Quan Công (關公). Ông đã từng phục vụ cho Lưu Bị (劉僃) nhà Thục, rất liêm chính, cương trực, sau bị Tôn Quyền (孫權) nhà Ngô giết chết. Ông được sùng kính như là vị anh hùng của quốc dân, được xem như là bậc thánh và được thờ tại Quan Đế Miếu (關帝廟), cho nên có tên gọi là Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君). Ông còn được gọi là Quan Đế Da (關帝爺), Tây Sơn Phu Tử (西山夫子), Cái Thiên Cổ Phật (蓋天古佛), Hiệp Thiên Đại Đế (協天大帝), Phục Ma Đại Đế (伏魔大帝), v.v. Dưới thời nhà Tống, vua Huy Tông (徽宗) phong ông lên ba cấp từ Trung Huệ Công (忠惠公), Sùng Ninh Chơn Quân (崇寧眞君) cho đến Chiêu Liệt Võ An Vương (昭烈武安王). Vua Văn Tông (文宗) nhà Nguyên lại phong cho ông là Hiển Linh Nghĩa Dũng Võ An Anh Tế Vương (顯靈義勇武安英濟王). Vua Thần Tông (神宗) nhà Minh phong cho ông tước hiệu Tam Giới Phục Ma Đại Đế Thần Uy Viễn Trấn Thiên Tôn Quan Thánh Đế Quân (三界伏魔大帝神威遠鎭天尊關聖帝君). Đến thời nhà Thanh, vua Đức Tông (德宗) phong cho ông tước hiệu dài nhất là Trung Nghĩa Thần Võ Linh Hựu Nhân Dũng Hiển Uy Hộ Quốc Bảo Dân Tinh Thành Tuy Tĩnh Dực Tán Tuyên Đức Quan Thánh Đại Đế (忠義神武靈佑仁勇顯威護國保民精誠綏靖翊讚宣德關聖大帝). Tín ngưỡng về Quan Thánh rất phổ biến kể từ thời nhà Đường, nhưng đến thời nhà Thanh thì ông được sùng kính như là vị thần hộ vệ cho hoàng tộc. Vì lẽ đó, trong suốt giai đoạn này bất cứ nơi đâu người ta đều thấy xuất hiện Quan Đế Miếu (關帝廟). Ngoài ra, ông còn được xem như là Thần Tài, vị thần phù hộ làm ra nhiều tiền và thịnh vượng. Đặc biệt, trong Phật Giáo, ông được tôn kính như là vị đại hộ pháp. Trong một vài thư tịch của Thiền Tông, có đề cập đến câu chuyện sau khi ông bị chém đứt đầu chết thì biến thành con quỷ không đầu, hồn phách thường lảng vảng trong rừng trải qua đến ba bốn trăm năm. Cuối cùng con quỷ không đầu ấy gặp Trí Khải Đại Sư (智顗大師, 538-397)—người sáng lập ra Thiên Thai Tông Trung Quốc, được Đại Sư dùng pháp Phật làm cho siêu độ và thoát khỏi thân quỷ. Sau khi được siêu độ, có chánh tín vào Phật pháp, Quan Công phát nguyện lớn đời đời kiếp kiếp sẽ hộ trì chánh pháp, hàng phục yêu ma, bảo hộ già lam thánh chúng. Cho nên ông trở thành vị Bồ Tát hộ pháp cho chốn già lam, được liệt vào hàng ngũ hai vị thần hộ pháp cùng với Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát (韋駄尊天菩薩). Hằng năm, người dân vẫn tưởng niệm ngày khánh đản của ông vào ngày 24 tháng 6 âm lịch. Đạo Giáo Trung Quốc vẫn lưu hành Quan Thánh Đế Quân Giác Thế Chơn Kinh (關聖帝君覺世眞經), trong đó có dạy rằng: “Nhân sanh tại thế, quý tận trung hiếu tiết nghĩa đẳng sự, phương ư nhân đạo vô quý, khả lập ư thiên địa chi gian (人生在世、貴盡忠孝節義等事、方於人道無愧、可立於天地之間, con người ở đời, quý nhất các việc tận trung, hiếu, tiết nghĩa, mới không xấu hổ với mọi người, có thể đứng vững giữa trời đất).”
(關聖帝君): tên gọi một vị danh tướng của nhà Thục thời Tam Quốc, tên là Quan Vũ (關羽, ?-219), tự là Trường Sanh (長生), Vân Trường (雲長), thường gọi là Quan Công (關公). Ông đã từng phục vụ cho Lưu Bị (劉僃) nhà Thục, rất liêm chính, cương trực, sau bị Tôn Quyền (孫權) nhà Ngô giết chết. Ông được sùng kính như là vị anh hùng của quốc dân, được xem như là bậc thánh và được thờ tại Quan Đế Miếu (關帝廟), cho nên có tên gọi là Quan Thánh Đế Quân (關聖帝君). Ông còn được gọi là Quan Đế Da (關帝爺), Tây Sơn Phu Tử (西山夫子), Cái Thiên Cổ Phật (蓋天古佛), Hiệp Thiên Đại Đế (協天大帝), Phục Ma Đại Đế (伏魔大帝), v.v. Dưới thời nhà Tống, vua Huy Tông (徽宗) phong ông lên ba cấp từ Trung Huệ Công (忠惠公), Sùng Ninh Chơn Quân (崇寧眞君) cho đến Chiêu Liệt Võ An Vương (昭烈武安王). Vua Văn Tông (文宗) nhà Nguyên lại phong cho ông là Hiển Linh Nghĩa Dũng Võ An Anh Tế Vương (顯靈義勇武安英濟王). Vua Thần Tông (神宗) nhà Minh phong cho ông tước hiệu Tam Giới Phục Ma Đại Đế Thần Uy Viễn Trấn Thiên Tôn Quan Thánh Đế Quân (三界伏魔大帝神威遠鎭天尊關聖帝君). Đến thời nhà Thanh, vua Đức Tông (德宗) phong cho ông tước hiệu dài nhất là Trung Nghĩa Thần Võ Linh Hựu Nhân Dũng Hiển Uy Hộ Quốc Bảo Dân Tinh Thành Tuy Tĩnh Dực Tán Tuyên Đức Quan Thánh Đại Đế (忠義神武靈佑仁勇顯威護國保民精誠綏靖翊讚宣德關聖大帝), v.v. Tín ngưỡng về Quan Thánh rất phổ biến kể từ thời nhà Đường, nhưng đến thời nhà Thanh thì ông được sùng kính như là vị thần hộ vệ cho hoàng tộc. Vì lẽ đó, trong suốt giai đoạn này bất cứ nơi đâu người ta đều thấy xuất hiện Quan Đế Miếu (關帝廟). Ngoài ra, ông còn được xem như là Thần Tài, vị thần phù hộ làm ra nhiều tiền và thịnh vượng. Đặc biệt, trong Phật Giáo, ông được tôn kính như là vị đại hộ pháp. Trong thư tịch của Thiền Tông như Phật Tổ Thống Kỷ (佛祖統紀), có đề cập đến câu chuyện sau khi ông bị chém đứt đầu chết thì biến thành con quỷ không đầu, hồn phách thường lảng vảng trong rừng trải qua đến ba bốn trăm năm. Cuối cùng con quỷ không đầu ấy gặp Trí Khải Đại Sư (智顗大師, 538-397)—người sáng lập ra Thiên Thai Tông Trung Quốc, được Đại Sư dùng pháp Phật làm cho siêu độ và thoát khỏi thân quỷ. Sau khi được siêu độ, có chánh tín vào Phật pháp, Quan Công phát nguyện lớn đời đời kiếp kiếp sẽ hộ trì chánh pháp, hàng phục yêu ma, bảo hộ già lam thánh chúng. Cho nên ông trở thành vị Bồ Tát hộ pháp cho chốn già lam, được liệt vào hàng ngũ hai vị thần hộ pháp cùng với Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát (韋駄尊天菩薩).
(冩經目錄, Shakyōmokuroku): 1 quyển, do Viên Trân (圓珍, Enchin, 814-891) soạn vào năm 750 (niên hiệu Thiên Bình Thắng Bảo [天平勝寳] thứ 2).
(三經義疏, Sangyōgisho): thư tịch chú thích kinh điển do Thánh Đức Thái Tử (聖德太子, Shōtoku Taishi) truyền lại, tên gọi chung của Pháp Hoa Kinh Nghĩa Sớ (法華經義疏) 4 quyển, Thắng Man Kinh Nghĩa Sớ (勝鬘經義疏) 1 quyển và Duy Ma Kinh Nghĩa Sớ (維摩經義疏) 2 quyển. Theo ký lục của thời đại Nại Lương về bộ sách này thì trong Pháp Long Tự Già Lam Duyên Khởi Tinh Lưu Ký Tư Tài Trương (法隆寺伽藍緣起并流記資材帳) có ghi là Thượng Cung Thánh Đức Thái Tử Vương Ngự Chế Giả (上宮聖德太子王御制者); còn trong Thượng Cung Thánh Đức Pháp Vương Đế Thuyết (上宮聖德法王帝說) cũng có ghi là ngự chế sớ kinh 7 quyển của Pháp Hoa, v.v.; và trong Tịnh Danh Huyền Luận Lược Thuật (淨名玄論略述) của Trí Quang (智光, Chikō) cũng như trong Hoa Nghiêm Ngũ Giáo Chương Chỉ Sự Ký (華嚴五敎章指事記) của Thọ Linh (壽靈, Jurei), v.v., cũng có dẫn dụng những ngôn từ trong bộ Tam Kinh Nghĩa Sớ này. Vào thời Bình An và Liêm Thương thì rất nhiều các học tăng của các tông phái như Tối Trừng (最澄, Saichō), Không Hải (空海, Kūkai), Viên Trân (圓珍, Enchin), Huyền Duệ (元叡, Genei), Trọng Toán (仲算, Chūsan), Trinh Khánh (貞慶, Jōkei), Trừng Thiền (澄禪, Chōzen), Tông Tánh (宗性, Sōshō), v.v., cũng đã có dẫn dụng về bộ luận này. Đặc biệt Ngưng Nhiên (凝然, Gyōnen) đã tiến hành chú thích toàn bộ thư tịch này. Vào năm 1274 thì cả ba bộ sớ này được khắc gỗ và xuất bản. Từ đó trở đi có rất nhiều bản in khắc khác ra đời.
(三井寺, Mii-dera) hay Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji): ngôi chùa trung tâm của Thiên Thai Tự Môn Tông (天台寺門宗), hiện tọa lạc tại số 246 Onjōji-chō (園城寺町), Ōtsu-shi (大津市), Shiga-ken (滋賀縣), nói cho đúng là Trường Đẳng Sơn Viên Thành Tự (長等山園城寺), nhưng thường được gọi là Tam Tỉnh Tự, hay Ngự Tỉnh Tự (御井寺), và rất nổi tiếng là ngôi chùa linh thiêng thứ 14 trong số 33 ngôi danh lam ở vùng Tây Quốc (西國) được mọi người thường đến tham bái. Tượng thờ chính là Di Lặc Bồ Tát. Suốt trong thời gian từ thời Bình An cho đến Liêm Thương, chùa đã từng đối kháng với Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), rồi cùng với Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji) ở vùng Nam Đô, chùa còn nuôi dưỡng lớp Tăng Binh để tranh đấu với hàng võ môn, là một trong những ngôi tự viện có quyền lực mạnh nhất đương thời. Sau khi Thiên Trí Thiên Hoàng (天智天皇, Tenchi Tennō) băng hà, chùa bắt đầu được dựng lên bởi vị Hoàng Tử của Hoằng Văn Thiên Hoàng (弘文, Kōbun Tennō) là Đại Hữu Dữ Đa Vương (大友與多王) cúng dường khu đất của ông. Đến năm 859 (Trinh Quán [貞觀] nguyên niên), Trí Chứng Đại Sư Viên Trân (圓珍, Enchin) tái kiến lại chùa. Có thuyết cho rằng tên gọi Tam Tỉnh Tự vốn phát xuất từ sự việc phía sau Kim Đường của chùa có một cái giếng, người ta thường dùng nước giếng này để hành lễ Tam Bộ Quán Đảnh (三部灌頂), cho nên chùa có tên như vậy. Cũng có thuyết cho rằng chính nước giếng này được dùng để tắm rửa cho ba vị Thiên Hoàng Thiên Trí (天智, Tenchi), Thiên Võ (天武, Temmu) và Trí Thống (持統, Jitō) khi vừa mới sinh ra. Chùa này ngày xưa là ngôi Biệt Viện của Diên Lịch Tự (延曆寺, Enryaku-ji), môn đồ của chùa đã từng tranh đấu với môn đồ của Viên Nhân (圓仁, Ennin) trên Tỷ Duệ Sơn; cuối cùng vào năm 993 (Chánh Lịch [正曆] 4), chùa tách riêng ra trở thành ngôi chùa tổ trung tâm. Đến cuối thời Bình An, chùa có khoảng 80 ngôi đường tháp, 600 tăng phòng; song chùa cũng đã gặp mấy lần hỏa hoạn, bị cháy tan tành. Ngôi già lam hiện tại có thể nói là kiến trúc tái kiến của mấy vị Tướng Quân nổi tiếng đời đầu của dòng họ Đức Xuyên (德川, Tokugawa) là Gia Khang (家康, Ieyasu), Tú Trung (秀忠, Hidetada), v.v. Hiện tại chùa được liệt vào một trong 4 ngôi tự viện lớn nhất Nhật Bản. Một phần rất rộng lớn của chùa nằm trên núi, lấy Quan Âm Đường làm trung tâm; một phần thì nằm dưới chân núi, chủ yếu là phối trí các ngôi đường tháp. Nơi Quan Âm Đường có tôn thờ tượng Như Ý Luân Quan Âm bằng gỗ Chiên Đàn, là một trong 33 chốn linh trường của vùng Tây Quốc. Tương truyền tượng này là tác phẩm của vị Tổ khai sơn Trí Chứng Đại Sư (智証大師). Ngôi đường hiện tại là kiến trúc được xây dựng vào năm 1689. Trong núi có Kim Đường, là kiến trúc được xây dựng vào năm 1252 (Kiến Trường [建長] 4), được xếp vào hạng quốc bảo. Các ngôi Khách Đường ở Khuyến Học Viện cũng như ở Quang Tịnh Viện cũng đều là quốc bảo. Cách đó khoảng 3 cây số về phía Bắc có Tân La Thiên Thần Đường (新羅天神堂), trong đó Tu Di Đàn cũng được xếp hạng quốc bảo. ngoài ra trong khuôn viên chùa còn có Nhân Vương Môn, Tam Trùng Tháp, Lầu Chuông, Đường Viện, Kinh Đường, Nhà Ăn, Tỳ Sa Môn Đường, v.v., đều là những kiến trúc được xếp hạng tài sản văn hóa trong yếu của quốc gia, và quanh đó cũng có rất nhiều ngôi đường tháp lớn nhỏ. Nơi Kinh Tàng có lưu trữ những bản kinh tạng Cao Lệ (Triều Tiên). Bên cạnh đó, chùa còn lưu giữ vô số các bảo vật khác.
(增命, Zōmyō, 843-927): vị tăng của Thiên Thai Tông Nhật Bản, sống vào giữa thời Bình An, Thiên Thai Tọa Chủ đời thứ 10, trú trì đời thứ 5 của Viên Thành Tự (園城寺, Onjō-ji), húy là Tăng Mạng (增命), thụy hiệu Tĩnh Quán (靜觀), sanh ở Kyōto, xuất thân là con của quan Tả Đại Sử Tang Nội An Phong (桑內安峰). Năm 13 tuổi, ông lên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), theo hầu Diên Tối (延最) ở Tây Tháp Viện. Đến năm 867, ông thọ Bồ Tát Giới, sau đó theo học giáo lý Thiên Thai với Viên Nhân (圓仁, Ennin) và thọ phép Quán Đảnh với Viên Trân (圓珍, Enchin). Năm 899, ông làm Trưởng Lại (長吏) của Viên Thành Tự, rồi đến năm 906 thì được cử làm Thiên Thai Tọa Chủ. Thỉnh thoảng ông có vào trong cung nội để làm lễ cầu nguyện cho ngọc thể của Thiên Hoàng được bình an. Vào năm 925, ông làm chức Tăng Chánh. Vũ Đa Pháp Hoàng (宇多法皇, Uda Hōō) đã theo Tăng Mạng xuất gia, thọ giới, đăng đàn thọ phép Quán Đảnh và Bồ Tát giới. Thụy hiệu Trí Chứng Đại Sư (智証大師) của Viên Trân được sắc phong là nhờ sự tấu thỉnh của Tăng Mạng. Trước tác của ông có Tông Luận Ngự Giảng (宗論御講) 1 quyển, Thai Tạng Giới Khẩu Truyền (胎藏界口傳) 1 quyển.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập