Những ai có được hạnh phúc cũng sẽ làm cho người khác được hạnh phúc. (Whoever is happy will make others happy too.)Anne Frank
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Mục đích của đời sống là khám phá tài năng của bạn, công việc của một đời là phát triển tài năng, và ý nghĩa của cuộc đời là cống hiến tài năng ấy. (The purpose of life is to discover your gift. The work of life is to develop it. The meaning of life is to give your gift away.)David S. Viscott
Lo lắng không xua tan bất ổn của ngày mai nhưng hủy hoại bình an trong hiện tại. (Worrying doesn’t take away tomorrow’s trouble, it takes away today’s peace.)Unknown
Sự kiên trì là bí quyết của mọi chiến thắng. (Perseverance, secret of all triumphs.)Victor Hugo
Để có thể hành động tích cực, chúng ta cần phát triển một quan điểm tích cực. (In order to carry a positive action we must develop here a positive vision.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thành công không được quyết định bởi sự thông minh tài giỏi, mà chính là ở khả năng vượt qua chướng ngại.Sưu tầm
Người khôn ngoan chỉ nói khi có điều cần nói, kẻ ngu ngốc thì nói ra vì họ buộc phải nói. (Wise men speak because they have something to say; fools because they have to say something. )Plato
Chớ khinh tội nhỏ, cho rằng không hại; giọt nước tuy nhỏ, dần đầy hồ to! (Do not belittle any small evil and say that no ill comes about therefrom. Small is a drop of water, yet it fills a big vessel.)Kinh Đại Bát Niết-bàn
Khởi đầu của mọi thành tựu chính là khát vọng. (The starting point of all achievement is desire.)Napoleon Hill
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Lục Hòa »»

(正果): có hai nghĩa khác nhau:
(1) Chỉ cho sự chứng ngộ nhờ tu tập đúng chánh pháp; còn gọi chứng quả (證果). Sở dĩ gọi là chánh quả, vì đó là quả nhờ học Phật chứng đắc được; khác với ngoại đạo tu luyện mù lòa, sai lầm.
(2) Đặc biệt chỉ cho thân của hữu tình, là quả báo chánh thể cảm đắc nhờ nghiệp nhân quá khứ; còn gọi là chánh báo (正報). Như trong Lăng Nghiêm Kinh Yếu Giải (楞嚴經要解, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 11, No. 270) quyển 2 có câu: “Chúng sanh nghiệp chủng thành tụ, hành nhân bất thành chánh quả, giai do bất tri nhị bổn thác loạn tu tập (眾生業種成聚、行人不成正果、皆由不知二本錯亂修習, chúng sanh giống nghiệp tích tụ, người hành trì không thành chánh quả, đều vì chẳng biết hai gốc rễ tu tập thác loạn).” Hay như trong Sa Di Luật Nghi Yếu Lược Thuật Nghĩa (沙彌律儀要略述義, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1119) lại có câu: “Dĩ thành chánh quả viết Thánh, linh siêu vạn vật viết nhân, mô phạm hậu học viết sư, Lục Hòa thanh tịnh viết Tăng (已成正果曰聖、靈超萬物曰人、模範後學曰師、六和清淨曰僧, đã thành chánh quả gọi là Thánh, linh ứng vượt qua vạn vật gọi là người, làm mô phạm cho học đồ đi sau gọi là thầy, sống Lục Hòa thanh tịnh gọi là Tăng).”
(菊月): tên gọi khác của tháng Chín Âm Lịch. Tại Trung Quốc, vào tháng này đúng lúc hoa Cúc nở rộ, nên có tên gọi như vậy. Như trong Pháp Hoa Kinh Đại Thành Khoa (法華經大成科, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 32, No. 618) có câu: “Thời Khang Hy tuế tại Bính Tuất Cúc Nguyệt cửu nhật, Lí đệ Duy Huyễn bái soạn (時康熙歲在丙戌菊月九日、里弟惟鉉拜撰, lúc bấy giờ đời vua Khang Hy, ngày mồng 9 tháng 9 năm Bính Tuất [1706], Lí đệ Duy Huyễn lạy soạn).” Hay trong phần Tuy Lý Minh Tâm Phật Âm Ni (檇李明心佛音尼) của Kính Thạch Trích Nhũ Tập (徑石滴乳集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 67, No. 1308) quyển 5 cũng có câu: “Giáp Dần Cúc Nguyệt kí vọng, mộc dục đoan tọa, thuyết kệ nhi hóa (甲寅菊月旣望、沐浴端坐、說偈而化, vào ngày 16 tháng 9 năm Giáp Dần, cô tắm rửa, ngồi ngay ngắn, nói kệ rồi ra đi).”
(南泉普願, Nansen Fugan, 748-834): vị Thiền tăng xuất thân vùng Tân Trịnh (新鄭), Trịnh Châu (鄭州, thuộc Tỉnh Hà Nam), họ là Vương (王). Vào năm thứ 2 (757) niên hiệu Chí Đức (至德), ông xin cha mẹ đến xuất gia tu học với Đại Huệ (大慧) ở Đại Ôi Sơn (大隈山), Mật Huyện (密縣, thuộc Tỉnh Hà Nam). Vào năm thứ 12 (777) niên hiệu Đại Lịch (大曆), lúc 30 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới với Cảo Luật Sư (暠律師) ở Hội Thiện Tự (會善寺) vùng Tung Nhạc (嵩岳, Tỉnh Hà Nam). Ban đầu ông học về tánh tướng rồi đến Tam Luận, v.v., nhưng sau ông ngộ được yếu chỉ rằng huyền cơ vốn nằm ngoài kinh luận, nên ông đến tham vấn Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一) và kế thừa dòng pháp của vị này. Đến năm thứ 11 (795) niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), ông dừng tích trú tại Nam Tuyền Sơn (南泉山), vùng Trì Dương (池陽, thuộc Tỉnh An Huy), xây dựng Thiền viện, thường mang nón lá chăn trâu, vào trong núi đốn cây, cày ruộng, cổ xướng Thiền phong của mình, tự xưng là Vương Lão Sư và suốt trong vòng 30 năm không hề hạ sơn một lần. Vào đầu niên hiệu Thái Hòa (太和, 827-835), vị Thái Thú xưa kia của Trì Dương là Lục Hoàn (陸亘) đến tham bái Nam Tuyền, rồi tôn vị này làm thầy mình. Chính ông đã giáo hóa khá nhiều đồ chúng nổi danh như Triệu Châu Tùng Thẩm (趙州從諗), Trường Sa Cảnh Sầm (長沙景岑), Tử Hồ Lợi Túng (子湖利蹤), v.v. Vào ngày 21 tháng 10 năm thứ 8 niên hiệu Thái Hòa (太和), ông cáo bệnh và vào ngày 25 tháng 12 cùng năm trên, ông thị tịch, hưởng thọ 87 tuổi đời và 57 hạ lạp.
(元霄): lễ hội truyền thống rất quan trọng, vốn phát xuất từ Trung Quốc, được tiến hành vào ngày rằm tháng Giêng âm lịch, sau dịp tiết xuân; còn gọi là Tiểu Chánh Nguyệt (小正月), Nguyên Tịch (元夕), Đăng Tiết (燈節), Thượng Nguyên Tiết (上元節). Như trong bài Song Đầu Mẫu Đơn Đăng Ký (雙頭牡丹燈記) của Cù Hựu (瞿佑, 1341-1427) người vùng Tiền Đường (錢塘, nay thuộc Hàng Châu [杭州], Triết Giang [浙江]) có câu: “Mỗi tuế Nguyên Tịch, ư Minh Châu trương đăng ngũ dạ, khuynh thành sĩ nữ, giai đắc túng quan (每歲元夕、於明州張燈五夜、傾城士女、皆得縱觀, mỗi năm vào dịp Nguyên Tịch, tại Minh Châu giăng đèn năm đêm, nam nữ khuynh thành đều được xem thoải mái).” Chánh nguyệt (正月, tháng Giêng) là tháng đầu tiên trong một năm, người xưa gọi là tiêu (霄); vì vậy, ngày rằm tháng Giêng được gọi là Nguyên Tiêu Tiết (元霄節, Tết Nguyên Tiêu). Đây cũng là ngày lễ hội tình nhân của người Trung Quốc. Nguồn gốc truyền thuyết về lễ hội này vốn có từ xa xưa. Có thuyết cho rằng nó được thiết lập từ thời Hán Văn Đế (漢文帝, tại vị 180-157 tcn). Tương truyền sau khi Hán Cao Tổ Lưu Bang (漢高祖劉邦, tại vị 202-195 tcn) qua đời, Lữ Hậu (呂后, 241-180 tcn) soán quyền, cả dòng tộc nhà họ Lữ lên năm quyền bính; sau khi ba qua đời, nhóm người Châu Bột (周勃), Trần Bình (陳平), v.v., dẹp trừ thế lực của Lữ Hậu, lập Lưu Hằng (劉恆) lên làm Hán Văn Đế. Nhân ngày bình định thế lực nhà họ Lữ và thống nhất quốc gia vào ngày rằm tháng Giêng, từ đó hằng năm vào ngày này, nhà vua thường mặc áo mỏng, ra ngoài cung nội cùng với dân chúng vui chơi thái bình, và cũng lấy ngày này làm Tết Nguyên Tiêu. Dưới thời Hán Võ Đế, hoạt động tế tự Thái Nhất Thần (太一神, các vị thần chủ tể của vũ trụ) cũng được quy định đúng ngày rằm tháng Giêng; cho nên khi Tư Mã Thiên (司馬遷, 135-90 tcn) sáng kiến ra Thái Sơ Lịch (太初歷), xác định Tết Nguyên Tiêu là lễ hội vô cùng trọng đại đối với quốc gia và dân tộc. Về truyền thống thắp đèn vào dịp Nguyên Tiêu này, nguồn gốc của nó phát xuất từ thuyết Tam Nguyên (三元) của Đạo Giáo: rằm tháng Giêng là Thượng Nguyên Tiết, rằm tháng 7 là Trung Nguyên Tiết (中元節) và rằm tháng 10 là Hạ Nguyên Tiết (下元節). Người chủ quản ba lễ hội này là 3 vị quan tên Thiên, Địa, Thủy. Thiên Quan (天官), thường được gọi là Thiên Quan Tứ Phước (天官賜福, Quan Trời Ban Phước), là người thường vui vẻ, hoan hỷ, nên vào dịp Thượng Nguyên, kỷ niệm sinh nhật của ông thì cần phải đốt đèn chúc mừng. Lại có thuyết cho rằng tục lệ giăng đèn vào dịp này vốn phát xuất từ thời đại của Minh Đế (明帝, tại vị 57-75) nhà Đông Hán. Nhà vua rất tin sùng Phật pháp, nghe rằng vào ngày rằm tháng Giêng, chúng tăng thường chiêm ngưỡng xá lợi Phật, thắp đèn cúng dường chư Phật, bèn ra lịnh cho thắp đèn cúng dường chư Phật suốt một ngày đêm tại Hoàng Cung cũng như các chùa chiền, miếu vũ và cho mọi người rước đèn đi khắp nơi. Từ đó, trở đi, nghi thức Phật Giáo này đã trở thành lễ hội truyền thống trọng đại của dân gian, phá triển từ trong cung đình ra đến ngoài dân chúng. Có thuyết khác cho rằng Lễ Thượng Nguyên là để kỷ niệm Đông Phương Sóc (東方朔, 154-93 tcn) và Nguyên Tiêu Cô Nương (元宵姑娘). Tương truyền Hán Võ Đế có một vị thần rất sủng ái tên Đông Phương Sóc, nhân vật rất hiền lương và phong lưu. Có hôm nọ vào dịp tiết đông, sau mấy ngày tuyết rơi nhiều, Đông Phương Sóc bèn đến Ngự Hoa Viên để ngắm hoa mai cùng với nhà vua, khi vừa đến cổng vườn hoa, chợt phát hiện có một người cung nữ đang khóc thảm thiết, chuẩn bị gieo mình xuống giếng tự sát. Ông hoang mang vội vàng chạy đến cứu và hỏi rõ nguyên nhân vì sao tự sát. Nguyên lai cung nữ ấy tên là Nguyên Tiêu (元宵), gia đình có song thân và một người em gái. Từ ngày vào cung nội đến nay, chưa có cơ duyên gặp người thân; cho nên cứ mỗi năm vào tháp chạp cho đến đầu xuân, thường nhớ đến gia đình, song thân, muốn báo hiếu cũng không thực hiện được; vì vậy quyết định tự sát cho xong. Nghe vậy, Đông Phương Sóc rất thông cảm cho hiếu tình cao cả của nàng cung nữ, bèn hứa sẽ tìm cách giúp nàng đoàn tụ cùng gia đình. Có hôm nọ, ông ra ngoài thành, thấy trên đường Trường An có một gian bói toán, nhiều người tranh nhau xem bói. Ai cũng bốc trúng quẻ “chánh nguyệt thập lục hỏa phần thân (正月十六火焚身, mười sáu tháng Giêng lửa thiêu thân).” Nhất thời, kinh đô Trường An sinh hỗn loạn vì quẻ bói xấu kia; mọi người đều tìm biện pháp giải quyết khỏi ách nạn ấy. Thấy vậy, Đông Phương Sóc bảo rằng: “Vào đêm 13 tháng Giêng, Thần Lửa có phái một vị Thần Nữ Áo Đỏ hạ phàm thẩm tra, vị ấy là người phụng chỉ đốt cháy Trường An. Ta sẽ thảo đôi dòng này đưa các ngươi tâu lên Thiên Tử, có thể giúp người tìm ra biện pháp.” Nói xong, ông viết lên một phong thiếp hồng, giao mọi người rồi quay về nhà. Dân chúng cầm thiếp hồng đến Hoàng Cung, tâu lên Hoàng Thượng. Hán Võ Đế xem qua, thấy có dòng chữ: “Trường An tại kiếp, hỏa phần đế khuyết, thập ngũ thiên hỏa, diệm hồng tiêu dạ (長安在劫、火焚帝闕、十五天火、焰紅宵夜, Trường An kiếp nạn, lửa thiêu cung vua, ngày rằm lửa bốc, đỏ rực đêm rằm).” Nhà vua kinh sợ, cho triệu Đông Phương Sóc đa mưu túc kế đến để tìm biện pháp giải quyết. Ông giả bộ thưa rằng: “Thần thường nghe rằng Thần Lửa rất thích bánh nếp tròn, trong cung nội có Nguyên Tiêu chẳng phải là người làm bánh nếp tròn ngon lắm sao ? Vào đêm rằm, bảo cung nữ đó làm bánh, Hoàng Thượng đích thân dâng hương cúng dường, truyền lệnh cho mỗi nhà trong kinh đô đều phải làm bánh nếp tròn để cùng nhau dâng cúng cho Thần Lửa. Rồi ra lịnh cho khắp thần dân đều cầm đèn vào đêm rằm, đốt pháo, phóng lửa khói, như thể cả thành đang bị đốt cháy. Ngoài ra, còn thông báo cho bá tánh ngoài thành, vào đêm rằm được vào thành ngắm đèn hoa; nhờ vậy mới có thể tiêu trừ tai họa và giải nạn được.” Hoàng Đế nghe xong rất cao hứng, lập tức truyền lệnh cho thực hiện phương pháp của Đông Phương Sóc. Vào đêm rằm tháng Giêng, khắp thành Trường An náo nhiệt, vui nhộn hơn bao giờ. Cả song thân và em gái Nguyên Tiêu cũng được vào thành xem hoa đăng, nhờ vậy cả gia đình nàng được đoàn tụ. Từ đó, tương truyền Hán Võ Đế hạ lịnh dâng cúng bánh nếp tròn nhân ngày rằm tháng Giêng hằng năm. Tục lệ này vẫn được lưu truyền mãi cho đến ngày hôm nay. Từ “thang viên (湯圓, bánh nếp tròn, bánh trôi nước)” có nghĩa là “tròn nóng”, có âm đọc cùng với từ “đoàn viên (團圓, đoàn tụ, sum họp)”, tức chỉ cho sự đoàn tụ, hòa hợp, hạnh phúc của gia đình; cũng là hình thức thể hiện sự tưởng nhớ đến thân nhân ở xa, mong ngày hội ngộ, và nói lên nguyện vọng muốn có cuộc sống an bình, đoàn tụ trong tương lai. Ngoài ra, cũng có thuyết cho rằng nguồn gốc của Tết Nguyên Tiêu là Tết Trạng Nguyên. Nhân dịp này, nhà vua triệu tập các Trạng Nguyên đến để thết đãi và mời vào vườn Thượng Uyển ngắm hoa, làm thi phú. Hoạt động của lễ hội này phát triển theo thời gian và diễn biến của lịch sử. Như dưới thời nhà Hán, Tết Nguyên Tiêu được tiến hành trong 1 ngày, đến thời nhà Đường thì kéo dài 3 ngày, nhà Tống là 5 ngày; sang đến nhà Minh thì vào ngày mồng 8, người ta đã bắt đầu thắp đèn cho đến ngày 17. Trong ngày Tết Nguyên Tiêu, ngoài ngắm đèn, ăn bánh trôi, còn có rất nhiều hoạt động vui chơi giải trí, tỷ dụ như đi cà kheo, múa ương ca, múa sư tử, v.v. Đối với Việt Nam, rằm tháng Giêng cũng là một ngày rất quan trọng đối với người dân. Họ thường đến chùa lễ Phật, dâng hương tụng kinh, sám hối, cầu an để nguyện cầu cho một năm mới được an bình, hanh thông, hạnh phúc, vạn sự cát tường như ý. Bên cạnh đó, cũng nhân ngày này, tín đồ Phật tử Việt Nam thường hành lễ dâng sao giải nạn hạnh ách của một năm. Cho nên dân gian Việt Nam vẫn có câu rằng: “Lễ Phật quanh năm, không bằng rằm tháng Giêng.” Lễ hội này đã lưu lại khá nhiều dấu ấn trong các văn chương, thi phú như trong Cựu Đường Thư (舊唐書), phần Trung Tông Kỷ (中宗紀) có đoạn: “Cảnh Long tứ niên Thượng Nguyên dạ, đế dữ Hoàng Hậu vi hành quán đăng (景龍四年上元夜、帝與皇后微行觀燈, vào đêm Thượng Nguyên năm Cảnh Long thứ 4 [710], nhà vua [Đường Trung Tông] cùng với Hoàng Hậu thân hành đi xem hoa đăng).” Hay trong Thủy Hử Truyện (水滸傳), hồi thứ 66 có kể rằng: “Thứ nhật, chánh thị chánh nguyệt thập ngũ nhật, Thượng Nguyên giai tiết, hảo sanh tình minh, hoàng hôn nguyệt thướng, lục nhai tam thị, các xứ phường ngung hạng mạch, điểm phóng hoa đăng (次日、正是正月十五日、上元佳節、好生晴明、黃昏月上、六街三市、各處坊隅巷陌、點放花燈, hôm sau, đúng vào ngày rằm tháng Giêng, tiết đẹp Thượng Nguyên, trời đất trong sáng, hoàng hôn trăng lên, sáu phố ba chợ, các nơi phố phường, hẽm ngách, đều thắp sáng thả hoa đăng).” Đặc biệt thi ca đã ca ngợi nhiều về lễ hội linh thiêng này. Tùy Dương Đế (隋煬帝, tại vị 604-618) có để lại bài Nguyên Tịch Ư Thông Cù Kiến Đăng Dạ Thăng Nam Lâu (元夕於通衢建燈夜升南樓, Ngày Nguyên Tiêu Lập Hoa Đăng Nơi Đường Lộ, Đêm Lên Lầu Nam) như sau: “Pháp luân thiên thượng chuyển, Phạm thanh thiên thượng lai, đăng thọ thiên quang chiếu, hoa diệm thất chi khai, nguyệt ảnh nghi lưu thủy, xuan phong hàm dạ lai, phần động hoàng kim địa, chung phát Lưu Ly đài (法輪天上轉、梵聲天上來、燈樹千光照、花焰七枝開、月影疑流水、春風含夜梅、燔動黃金地、鐘發琉璃台, xe pháp trên trời chuyển, tiếng Phạm vẳng trời bay, đèn cây ngàn ánh chiếu, hoa rực bảy nhánh khai, ánh trăng như nước chảy, gió xuân ngậm đêm mai, xoay động vàng ròng đất, chuông vọng Lưu Ly đài).” Thi sĩ Thôi Dịch (崔液, ?-713) nhà Đường có làm bài Thượng Nguyên Dạ (上元夜): “Ngọc lậu đồng hồ thả mạc tồi, thiết quan kim tỏa triệt dạ khai, thùy gia kiến nguyệt năng nhàn tọa, hà xứ văn đăng bất khán lai (玉漏銅壺且莫催、鐵關金鎖徹夜開、誰家見月能閒坐、何處聞燈不看來, thời gian vàng ngọc chớ giục thôi, khóa vàng cửa thiết suốt đêm khai, nhà ai trăng ngắm ngồi nhàn hạ, nào chốn nghe đèn chẳng đến xem).” Trong khi đó, Trương Hỗ (張祜, khoảng 785-849?) nhà Đường cũng có làm bài Chánh Nguyệt Thập Ngũ Dạ Đăng (正月十五夜燈) như sau: “Thiên môn khai tỏa vạn đăng minh, chánh nguyệt trung tuần động địa kinh, tam bách nội nhân liên tụ vũ, nhất tấn thiên thượng trước từ thinh (千門開鎖萬燈明、正月中旬動地京、三百內人連袖舞、一進天上著詞聲, mở tung ngàn cửa đèn sáng trong, tuần giữa tháng giêng động thần kinh, ba trăm người cùng nối áo múa, vọng đến trời cao khúc thái bình).” Thi hào Lý Thương Ẩn (李商隱, khoảng 813-858) nhà Đường có bài thơ diễn tả về phong cảnh Tết Nguyên Tiêu rằng: “Nguyệt sắc đăng sơn mãn đế đô, xa hương bảo cái ải thông cù, thân nhàn bất đổ trung hưng thịnh, tu trục hương nhân tái Tử Cô (月色燈山滿帝都、香車寶蓋隘通衢、身閒不睹中興盛、羞逐鄉人賽紫姑, trăng tỏ đèn đêm khắp đế đô, xe hương lọng báu rợp đường xa, nhàn hạ chẳng màng đời suy thịnh, dân làng dâng cúng đáp Tử Cô [theo truyền thuyết dân gian trung quốc là một cô nương bần cùng nhưng hiền lương]).” Hay như thi hào Âu Dương Tu (歐陽修, 1007-1072) nhà Tống có để lại bài Sanh Tra Tử Nguyên Tịch (生查子元夕) rằng: “Khứ niên Nguyên Dạ thời, hoa thị đăng như trú, nguyệt đáo liễu tiêu đầu, nhân ước hoàng hôn hậu, kim niên Nguyên Dạ thời, nguyệt dữ đăng y cựu, bất kiến khứ niên nhân, lệ thấp xuân sam tụ (去年元夜時、花市燈如晝、月到柳梢頭、人約黃昏後、今年元夜時、月與燈依舊、不見去年人、淚濕春衫袖, năm ngoái đêm Nguyên Tiêu, hoa đèn như ngày sáng, trăng đến trên đầu liễu, người về sau hoàng hôn, năm nay đêm Nguyên Tiêu, nguyệt cùng trăng như cũ, chẳng thấy người cũ đâu, lệ ướt tay áo mỏng).” Thi nhân Nguyên Hảo Vấn (元好問, 1190-1257) nhà Nguyên cũng có bài Kinh Đô Nguyên Tịch (京都元夕) như sau: “Huyền phục hoa trang trước xử phùng, lục nhai đăng hỏa náo nhi đồng, trường sam ngã diệc hà vi giả, dã tại du nhân tiếu ngữ trung (袨服華妝著處逢、六街燈火鬧兒童、長衫我亦何爲者、也在遊人笑語中, áo thâm hoa kết mặc theo cùng, phố phường đèn sáng rộn nhi đồng, áo rộng ta cũng là ai nhỉ, vẫn với du nhân cười nói vang).” Sau này, Kheo Phùng Giáp (丘逢甲, 1864-1912) nhà Thanh có làm bài Nguyên Tịch Vô Nguyệt (元夕無月) rằng: “Tam niên thử tịch vô nguyệt quang, minh nguyệt đa ưng tại cố hương, dục hướng hải thiên tầm nguyệt khứ, ngũ canh phi mộng độ côn dương (三年此夕無月光、明月多應在故鄉、欲向海天尋月去、五更飛夢渡鯤洋, ba năm đêm ấy chẳng sáng trăng, trăng tỏ phần nhiều tại cố hương, muốn hướng chân trời tìm trăng lặn, năm canh cỡi mộng vượt ngàn trùng).” Ngoài ra, còn một số câu đối liễn được dùng để treo nhân dịp Tết Nguyên Tiêu, như: “phong thanh nguyệt lãng, đăng thái tinh huy (風清月朗、燈彩星輝, gió mát trăng thanh, đèn rực sao tỏ)”, “vô biên xuân sắc, hữu khánh niên đầu (無邊春色、有慶年頭, vô biên sắc xuân, tốt đẹp đầu năm)”, “nguyệt quang kiểu khiết, nhân chúc huy hoàng (月光皎潔、銀燭輝煌, ánh trăng sáng tỏ, đèn hoa huy hoàng)”, “vạn gia Nguyên Tịch yến, nhất lộ thái bình ca (萬家元夕宴、一路太平歌, vạn nhà đón Nguyên Tịch, một cõi thái bình ca)”, “minh nguyệt thiên môn tuyết, ngân đăng vạn thọ hoa (明月千門雪、銀燈萬樹花, trăng tỏ ngàn nhà tuyết, đèn trong vạn cây hoa)”, “phóng thủ kình minh nguyệt, khai tâm lạc Nguyên Tiêu (放手擎明月、開心樂元宵, buông tay nâng trăng sáng, mở lòng vui Nguyên Tiêu)”, “vạn hộ quản huyền ca thạnh thế, mãn thiên diệm hỏa diệu xuân quang (萬戶管弦歌盛世、滿天焰火耀春光, vạn nhà gãy đàn ca đời thịnh, khắp trời lửa rực tỏa ánh xuân)”, “thiên không minh nguyệt tam thiên giới, nhân túy xuân phong thập nhị lâu (天空明月三千界、人醉春風十二樓, trời cao trăng tỏ ba ngàn cõi, người say xuân gió mười hai lầu)”, “Ngũ dạ tinh kiều liên Nguyệt Điện, lục nhai đăng hỏa bộ Thiên Thai (五夜星橋連月殿、六街燈火步天台, năm đêm sao cầu nối Cung Nguyệt, sáu đường đèn rực bước Thiên Thai)”, “ngọc vũ vô trần thiên khoảnh bích, ngân hoa hữu diệm vạn gia xuân (玉宇無塵千頃碧、銀花有焰萬家春, nhà ngọc không bụi ngàn dặm sáng, hoa đồng tỏa rạng vạn chốn xuân)”, v.v.
(s, p: saṅgha, 僧): tiếng gọi tắt của Tăng Già (僧伽); ý dịch là hòa (和), chúng (眾), hòa hợp chúng (和合眾), hòa hợp tăng (和合僧), hải chúng (海眾, nghĩa là chúng tăng hòa hợp như một vị nước biển); hay kết hợp cả Phạn ngữ và Hán ngữ lại mà có tên gọi là tăng lữ (僧侶). Ngoài ra, còn có cách gọi khác như tăng gia (僧家), tăng ngũ (僧伍), v.v. Tăng là một trong ba ngôi báu (Tam Bảo [三寶], gồm Phật, Pháp và Tăng), là người tín thọ giáo pháp của đức Như Lai, vâng theo hành trì đạo của Ngài để nhập vào hàng Thánh và chứng quả. Tăng còn là hàng ngũ Thánh đệ tử cắt tóc, xuất gia, theo Phật học đạo, thọ giới Cụ Túc, có đủ Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát và Giải Thoát Tri Kiến, trú vào Tứ Hướng, Tứ Quả. Từ này còn được dùng để chỉ cho đoàn thể tín thọ Phật pháp, tu hành Phật đạo. Sau khi thành đạo, đức Thế Tôn độ cho nhóm 5 Tỳ Kheo A Nhã Kiều Trần Như (s: Ājñātakauṇḍinya, p: Aññā-Koṇḍañña, 阿若憍陳如), v.v., và đây được xem như là Tăng Đoàn đầu tiên của Phật Giáo. Luật Sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) nhà Đường cho rằng muốn cấu thành Tăng Già phải có 2 điều kiện:
(1) Lý hòa, tức tuân thủ giáo nghĩa Phật Giáo, lấy việc giải thoát Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃) làm mục đích tối thượng.
(2) Sự hòa, có 6 loại, tức Lục Hòa, gồm Giới Hòa Đồng Tu (戒和同修), Kiến Hòa Đồng Giải (見和同解), Thân Hòa Đồng Trụ (身和同住), Lợi Hòa Đồng Quân (利和同均), Khẩu Hòa Vô Tránh (口和無諍), Ý Hòa Đồng Duyệt (意和同悅).
Ngoài ra, nguyên lai Tăng là tên gọi thông thường của Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘), Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼). Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, v.v., gọi Tỳ Kheo là Tăng, Tỳ Kheo Ni là Ni. Sau này, ngoài hai chúng trên còn có Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌), Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerā, sāmaṇerī, 沙彌尼) cũng được gọi là Tăng hay Ni. Tăng Già Tỳ Kheo và Tăng Già Tỳ Kheo Ni được gọi là hai bộ chúng. Hết thảy các Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni trong bốn phương có tên gọi là Bốn Phương Tăng Già. Chư Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni hiện hữu trước mặt được gọi là Hiện Tiền Tăng Già. Hiện Tiền Tăng Già tất phải có từ 4 người trở lên, tập trung, hòa hợp, mới có thể thực hành pháp Yết Ma (羯磨), Bỉnh Pháp (秉法), v.v. Nếu dưới số lượng ấy, được gọi là quần, nhóm. Hơn nữa, do vì hình thức Yết Ma không giống nhau, nên số lượng chúng Tỳ Kheo cũng bất đồng. Theo Tứ Phần Luật (四分律) quyển 44, phần Chiêm Ba Kiền Độ (瞻波揵度) có nêu Tăng 4 người, Tăng 5 người, Tăng 10 người, Tăng 20 người. Đối với Tăng 4 người, trừ Tự Tứ (s: pravāraṇā, p: pavāraṇā, 自恣), thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 5 người, trừ thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 20 người thì có thể tác bất cứ pháp Yết Ma nào.
(s, p: saṃgha, 僧伽): gọi tắt là tăng; ý dịch là hòa (和), chúng (眾), hòa hợp (和合); cho nên còn được gọi là hòa hợp chúng (和合眾), hòa hợp tăng (和合僧), hải chúng (海眾, nghĩa là chúng tăng hòa hợp như một vị nước biển). Hoặc lấy Phạn ngữ cùng Hán ngữ hợp chung lại gọi là tăng lữ (僧侶). Ngoài ra, còn cách gọi khác như tăng gia (僧家), tăng ngũ (僧伍), v.v. Tăng là một trong ba ngôi báu, là người tín thọ giáo pháp của đức Như Lai, vâng theo đạo ấy, tinh cần tu tập, nhập vào dòng Thánh và chứng quả vị. Từ này cũng chỉ cho hàng Thánh đệ tử xuất gia, cạo bỏ râu tóc, theo học đạo của đức Phật, đầy đủ Giới, Định, Tuệ, Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến, an trú trong Tứ Hướng Tứ Quả; hoặc chỉ cho đoàn thể tín thọ Phật pháp, tu hành Phật đạo. Sau khi thành đạo, trước hết đức Phật đến vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), độ cho 5 anh em Kiều Trần Như (s: Ājñātakauṇḍinya, p: Aññā-Koṇḍañña, 憍陳如) và đây được xem như khởi đầu hình thành Tăng Già. Luật sư Đạo Tuyên (道宣, 596-667) nhà Đường cho rằng muốn cấu thành Tăng Già phải có 2 điều kiện: (1) Lý hòa, tức tuân thủ giáo nghĩa Phật Giáo, lấy việc giải thoát Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃) làm mục đích tối thượng. (2) Sự hòa, có 6 loại, tức Lục Hòa, gồm Giới Hòa Đồng Tu (戒和同修), Kiến Hòa Đồng Giải (見和同解), Thân Hòa Đồng Trụ (身和同住), Lợi Hòa Đồng Quân (利和同均), Khẩu Hòa Vô Tránh (口和無諍), Ý Hòa Đồng Duyệt (意和同悅). Ngoài ra, nguyên lai Tăng là tên gọi thông thường của Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘), Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼). Trung Quốc, Việt Nam, v.v., gọi Tỳ Kheo là Tăng, Tỳ Kheo Ni là Ni. Đặc biệt, Nhật Bản gọi tu sĩ nam là Tăng Lữ (僧侶, sōryo), tu sĩ nữ là Ni Tăng (尼僧, nisō). Sau này, ngoài hai chúng trên còn có Sa Di (s: śrāmaṇera, p: sāmaṇera, 沙彌), Sa Di Ni (s: śrāmaṇerikā, p: sāmaṇerī, 沙彌尼) cũng được gọi là Tăng hay Ni. Tăng Già Tỳ Kheo và Tăng Già Tỳ Kheo Ni được gọi là hai bộ chúng. Hết thảy các Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni trong bốn phương có tên gọi là Bốn Phương Tăng Già. Chư Tỳ Kheo và Tỳ Kheo Ni hiện hữu trước mặt được gọi là Hiện Tiền Tăng Già. Hiện Tiền Tăng Già tất phải có từ 4 người trở lên, tập trung, hòa hợp, mới có thể thực hành pháp Yết Ma (羯磨), Bỉnh Pháp (秉法), v.v. Nếu dưới số lượng ấy, được gọi là quần, nhóm. Hơn nữa, do vì hình thức Yết Ma không giống nhau, nên số lượng chúng Tỳ Kheo cũng bất đồng. Theo Tứ Phần Luật (四分律, Taishō Vol. 22, No. 1428) quyển 44, phần Chiêm Ba Kiền Độ (瞻波揵度) có nêu Tăng 4 người, Tăng 5 người, Tăng 10 người, Tăng 20 người. Đối với Tăng 4 người, trừ Tự Tứ (s: pravāraṇā, p: pavāraṇā, 自恣), thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 5 người, trừ thọ đại giới, xuất tội ra, có thể tác các pháp Yết Ma khác một cách như pháp. Trường hợp Tăng 20 người thì có thể tác bất cứ pháp Yết Ma nào. Theo Thập Tụng Luật (十誦律, Taishō Vol. 23, No. 1435) quyển 30, phần Chiêm Ba Pháp (瞻波法), có nêu ra 5 loại tăng: (1) Vô tàm quy tăng (無慚愧僧), tức chỉ các Tỳ Kheo phá giới mà không biết xấu hổ; (2) Nhu dương tăng (羺羊僧), chỉ cho hạng Tỳ Kheo phàm phu căn tánh chậm lụt, không có trí tuệ, giống như đàn dê tụ tập mà chẳng biết gì cả; các Tỳ Kheo này cũng không biết Bố Tát, Yết Ma, thuyết giới, pháp hội, v.v.; (3) Biệt chúng tăng (別眾僧), tức là các Tỳ Kheo ở trong một phạm vi, mỗi nơi tác pháp Yết Ma riêng biệt, không đồng nhất; (4) Thanh tịnh tăng (清淨僧), tức chỉ cho các vị chuyên trì giới pháp thanh tịnh; (5) Chân thật tăng (眞實僧), chỉ cho các bậc Hữu Học và Vô Học. Riêng Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh (大乘本生心地觀經, Taishō Vol. 3, No. 159) quyển 2 nêu ra 3 loại tăng của thế gian và xuất thế gian, gồm: (1) Bồ Tát Tăng (菩薩僧), như Văn Thù Sư Lợi (s: Mañjuśrī, 文殊師利), Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒), v.v.; (2) Thanh Văn Tăng (聲聞僧), như Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗), Mục Kiền Liên (s: Maudgalyāyana; p: Moggallāna, 目犍連), v.v.; (3) Phàm phu tăng (凡夫僧). Trong Tứ Phần Luật Danh Nghĩa Tiêu Thích (四分律名義標釋, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 44, No. 744) quyển 25, phần (襯體), có đoạn: “Phàm thị Tăng Già ngọa cụ, thọ dụng chi thời, bất đắc tùy nghi tương khinh tiểu Tọa Cụ, cập cấu nhị sơ bạc ố vật, nhi vi sấn thế, đắc ác tác tội (凡是僧伽臥具、受用之時、不得隨宜將輕小坐具、及垢膩疏薄惡物、而爲儭替、得惡作罪, phàm là vật trãi nằm của tăng, khi thọ dụng, không được tùy tiện lấy Tọa Cụ nhỏ nhẹ, và vật nhơ nhớp mỏng manh, mà đem cúng thay thế, [như vậy] mắc tội ác tác).” Hay trong bài tựa của Trùng Trị Tỳ Ni Sự Nghĩa Tập Yếu (重治毗尼事義集要, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 40, No. 719) lại có đoạn: “Tỳ Ni Tạng giả, Phật pháp chi cương kỷ, Tăng Già chi mạng mạch, khổ hải chi tân lương, Niết Bàn chi yếu đạo dã (毗尼藏者、佛法之紀綱、僧伽之命脈、苦海之津梁、涅槃之要道也, Tạng Tỳ Ni là, cương kỷ của Phật pháp, mạng mạch của Tăng Già, cầu bắc qua biển khổ, đường chính của Niết Bàn vậy).”
(s: khakkhara, khakharaka, 錫杖): âm dịch là Khích Khí La (隙棄羅), Khế Khí La (喫棄羅), Ngật Cát La (吃吉羅), Ngật Khí La (吃棄羅); còn gọi là Thanh Trượng (聲杖), Thiền Trượng (禪杖), Minh Trượng (鳴杖), Trí Trượng (智杖), Đức Trượng (德杖), Kim Tích (金錫); gọi tắt là Trượng (杖); là một trong 18 vật thường dùng của vị Tỳ Kheo, là vật dụng thường mang đi trên đường. Nguyên lai, Tích Trượng được dùng để xua đuổi rắn độc, côn trùng, v.v. Hoặc khi đi khất thực, vị Tỳ Kheo chấn rung cây Tích Trượng, làm cho ở xa cũng nghe biết; và đời sau nó trở thành một trong những pháp khí. Trong quyển Hạ của Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi (大比丘三千威儀, Taishō Vol. 24, No. 1470), có giải thích rõ nguyên do cầm Tích Trượng như thế nào: “Nhất giả vi địa trùng cố, nhị giả vi niên lão cố, tam giả vi phần vệ cố (一者爲地虫故、二者爲年老故、三者爲分衛故, thứ nhất vì côn trùng dưới đất, thứ hai vì tuổi già, thứ ba vì để bảo vệ).” Tích Trượng được sử dụng không những chỉ để xua đuổi côn trùng độc hại, mà còn để báo cho biết khi đi khất thực, hay làm vật chống đỡ cho người lớn tuổi, già yếu. Trong quyển Hạ của Đại Tỳ Kheo Tam Thiên Uy Nghi còn nêu rất rõ 25 điều cần phải biết đối vị Tỳ Kheo cầm Tích Trượng như “xuất nhập kiến Phật tượng, bất đắc sử đầu hữu thanh (出入見佛像、不得使頭有聲, khi ra vào thấy tượng Phật thì không được làm cho đầu trượng phát ra tiếng vang)”, “bất đắc trì trượng nhập chúng (不得持杖入眾, không được mang trượng vào trong chúng)”, “tam sư dĩ trì trượng xuất, bất đắc phục trì trượng tùy xuất (三師已持杖出、不得復持杖隨出, khi ba thầy đã mang trượng đi ra rồi, không được lại cầm trượng đi theo ra)”, v.v. Cho nên, việc sử dụng Tích Trượng được chế định rất nghiêm cẩn, chứ không được lạm dụng. Trên đầu Tích Trượng có những vòng tròn lớn nhỏ bằng thiếc, khi lắc phát ra tiếng kêu leng keng, nên có tên gọi là Thanh Trượng (聲杖, gậy phát ra âm thanh). Nó được dùng đi khắp các nơi, nên được gọi là Phi Tích (飛錫), Tuần Tích (巡錫); nếu dừng một nơi mà trụ thì gọi là Lưu Tích (留錫). Trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, Taishō Vol. 51, No. 2076) quyển 8, có ghi lại câu chuyện của Thiền Sư Ẩn Phong (隱峰) ở Ngũ Đài Sơn (五臺山). Trong khoảng niên hiệu Nguyên Hòa (元和, 806-820) nhà Đường, trên đường lên Ngũ Đài Sơn, lúc đi ngang qua Hoài Tây (淮西), Thiền Sư gặp quan quân triều đình và giặc cướp đang giao tranh lẫn nhau, bất phân thắng bại; để hóa giải họa hoạn này, Thiền Sư bèn ném cây trượng lên không trung, phi thân bay qua. Khi ấy tướng sĩ của hai bên ngước lên nhìn mà khiếp hãi tưởng như trong giấc mơ, không còn tâm trí đánh nhau nữa. Câu chuyện này trở thành nổi tiếng trong Thiền lâm với thuật ngữ phi tích cao tăng (飛錫高僧, vị tăng đức độ cỡi trên Tích Trượng mà bay đi, hay vị tăng đi du hành đó đây). Trong Thiên Thai Tông và Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, khi có pháp hội, người ta thường dùng loại Tích Trượng ngắn, vừa chấn rung vừa tụng thần chú. Về nguồn gốc của Tích Trượng, Căn Bổn Nhất Thuyết Thiết Hữu Bộ Tỳ Nại Da Tạp Sự (根本說一切有部毘奈耶雜事, Taishō Vol. 24, No. 1451) quyển 34 có giải thích rằng nhân sự việc vị Tỳ Kheo đến nhà người khất thực, gặp vài trở ngại như lên tiếng báo cho biết, hay gõ cửa, v.v., đều bị quở trách; nên Phật chế dùng Tích Trượng như “trượng đầu an hoàn, viên như trản khẩu, an tiểu hoàn tử, dao động tác thanh nhi vi cảnh giác (杖頭安鐶、圓如盞口、安小鐶子、搖動作聲而爲警覺, gắn vòng tròn trên đầu trượng, tròn như miệng chén, gắn vòng nhỏ, rung động tạo thành tiếng để báo cho biết).” Trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 5, phần Tích Trượng cho biết rằng: “Phật cáo Tỳ Kheo, ưng thọ trì Tích Trượng, quá khứ vị lai hiện tại chư Phật giai chấp cố; hựu danh Trí Trượng, hựu danh Đức Trượng; chương hiển trí hành công đức bổn cố. Tích giả, khinh dã; y ỷ thị trượng trừ phiền não xuất Tam Giới cố. Tích minh dã, đắc trí minh cố. Tích tỉnh dã, tỉnh ngộ khổ không Tam Giới kết cứu cố. Nhị dịch lục hoàn thị Ca Diếp Phật chế, tứ dịch thập nhị hoàn thị Thích Ca Phật chế (佛告比丘、應受持錫杖、過去未來現在諸佛皆執故、又名智杖、又名德杖、彰顯智行功德本故、錫者、輕也、依倚是杖除煩惱出三界故、錫明也、得智明故、錫醒也、醒悟苦空三界結究故、二股六環是迦葉佛製、四股十二環是釋迦佛製, Phật dạy Tỳ Kheo nên thọ trì Tích Trượng, vì chư Phật trong quá khứ vị lai và hiện tại đều dùng đến; lại có tên là Trí Trượng, lại có tên là Đức Trượng; làm sáng tỏ gốc công đức của Trí và Hành. Tích nghĩa là nhẹ, vì nương tựa vào cây trượng này mà đoạn trừ phiền não, ra khỏi Ba Cõi. Tích nghĩa là sáng, vì đạt được trí tuệ sáng suốt. Tích nghĩa là tỉnh, vì tỉnh ngộ khổ không của Ba Cõi cứu cánh. Trượng có hai đầu sáu vòng là do Phật Ca Diếp chế ra; có bốn đầu 12 vòng là do Phật Thích Ca chế ra).” Trong Phật Thuyết Mục Liên Ngũ Bách Vấn Kinh Lược Giải (佛說目連五百問經略解, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 44, No. 750) quyển Hạ giải thích rằng: “Y bát nãi nhẫn nhục chi pháp khí, Tích Trượng biểu Như Lai chi Pháp Thân (衣缽乃忍辱之法器、錫杖表如來之法身, y bát là pháp khí của nhẫn nhục, Tích Trượng là Pháp Thân của Như Lai).” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) cho biết rằng: “Quải tam sự Như Lai y, hướng nhân gian ứng cúng phước điền, thủ trì Tích Trượng hàng long hổ (掛三事如來衣、向人間應供作福田、手持錫杖降龍虎, mang áo Như Lai ba việc, hướng cuộc đời ruộng phước cúng dường, tay cầm Tích Trượng hàng rồng hổ).” Trong Tỳ Ni Nhật Dụng Thiết Yếu (毗尼日用切要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1115) do Luật Sư Độc Thể (讀體, 1601-1679), vị cao tăng của Phái Thiên Hoa (千華派) thuộc Luật Tông Trung Quốc soạn, có bài kệ Xuất Tích Trượng (出錫杖, Lấy Tích Trượng) như sau: “Chấp trì Tích Trượng, đương nguyện chúng sanh, thiết đại thí hội, thị như thật đạo. Án na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế, na dạ bát nanh, hồng phấn tra (執持錫杖、當願眾生、設大施會、示如實道、唵、那㗚噆、那㗚噆、那栗吒缽底、那㗚帝、娜夜缽儜、吽癸吒, cầm giữ Tích Trượng, nguyện cho chúng sanh, thiết hội đại thí, chỉ đường như thật. Án na lật thế, na lật thế, na lật tra bát để, na lật đế, na dạ bát nanh, hồng phấn tra).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập