Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Thành công có nghĩa là đóng góp nhiều hơn cho cuộc đời so với những gì cuộc đời mang đến cho bạn. (To do more for the world than the world does for you, that is success. )Henry Ford
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Kinh nghiệm quá khứ và hy vọng tương lai là những phương tiện giúp ta sống tốt hơn, nhưng bản thân cuộc sống lại chính là hiện tại.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Kẻ không biết đủ, tuy giàu mà nghèo. Người biết đủ, tuy nghèo mà giàu. Kinh Lời dạy cuối cùng
Mục đích chính của chúng ta trong cuộc đời này là giúp đỡ người khác. Và nếu bạn không thể giúp đỡ người khác thì ít nhất cũng đừng làm họ tổn thương. (Our prime purpose in this life is to help others. And if you can't help them, at least don't hurt them.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Người ta có hai cách để học hỏi. Một là đọc sách và hai là gần gũi với những người khôn ngoan hơn mình. (A man only learns in two ways, one by reading, and the other by association with smarter people.)Will Rogers
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Hào phóng đúng nghĩa với tương lai chính là cống hiến tất cả cho hiện tại. (Real generosity toward the future lies in giving all to the present.)Albert Camus
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Lục Cúng »»
(碧巖錄, Hekiganroku): 10 quyển, trước tác do Viên Ngộ Khắc Cần (圜悟克勤) biên tập lại bản Tụng Cổ Bách Tắc (頌古百則) mà Tuyết Đậu Trùng Hiển (雪竇重顯) đã từng thuyết giảng khắp nơi, được san hành vào năm thứ 4 (1300) niên hiệu Đại Đức (大德), gọi đủ là Phật Quả Viên Ngộ Thiền Sư Bích Nham Lục (佛果圜悟禪師碧巖錄, Bukkaengozenjihekiganroku) hay còn gọi là Bích Nham Tập (碧巖集, Hekiganshū). Tên bộ này phát xuất từ bức ngạch nơi Giáp Sơn Linh Tuyền Thiền Viện (夾山靈泉禪院) mà Khắc Cần đã từng trú trì. Mỗi tắc công án được hình thành bởi các phần như Thùy Thị (垂示, lời tựa), Bổn Tắc (本則, công án); Bình Xướng (評唱) đối với Bổn Tắc, Tụng Cổ (頌古) và Bình Xướng đối với Tụng Cổ. Bổn Tắc và Tụng Cổ thì thuộc về phần của Tuyết Đậu Trùng Hiển, vốn là người được xem như là vị tổ thứ 3 của Vân Môn Tông, các Tụng Cổ của ông rất phong phú về tính chất văn học có truyền thống, cho nên được rất nhiều người ưa chuộng. Việc Khắc Cần tiến hành giảng nghĩa bộ này cũng là nhằm đáp ứng trào lưu đương thời. Bản Tụng Cổ Bách Tắc của Tuyết Đậu Trùng Hiển vừa hàm chứa sự châm biếm, mà cũng thể hiện tràn đầy niềm yêu thương đối với các bậc Thiền sư ngày xưa. Viên Ngộ đã thêm vào đó những lời giáo giới cho hàng đệ tử mình cũng như những giai thoại trong lịch sử Thiền Tông mà người tu hành cần phải khắc cốt ghi tâm bằng các câu Thùy Thị và Bình Xướng. Đối ứng với Bổn Tắc và Tụng Cổ, Viên Ngộ đã thêm vào lời phê bình cay chua dưới hình thức gọi là Trước Ngữ, cho nên ba nhân vật là Thiền giả xuất hiện trong công án, cùng Tuyết Đậu và Viên Ngộ, vốn có các tánh khác nhau, đã được nối kết lại với nhau, và đây là tác phẩm rất hy hữu mang âm hưởng về mối quan hệ căng thẳng chồng chất lên nhau. Chính vì lẽ đó, khi tác phẩm này xuất hiện, đã được người đời tuyên truyền ngay lập tức, nhưng tương truyền đệ tử của Viên Ngộ là Đại Huệ Tông Cảo (大慧宗杲) lại cho rằng nó có hại cho người tu hành nên ông cho tập trung tất cả ấn bản rồi đem đốt hết. Tuy nhiên, ảnh hưởng của tác phẩm này quá to lớn, một số tập công án khác có hình thức tương tợ như vậy lại thay nhau ra đời như Tùng Dung Lục (從容錄, năm 1224, Tụng Cổ của Hoằng Trí Chánh Giác [宏智正覺], bình xướng của Vạn Tùng Hành Tú [萬松行秀]), Không Cốc Tập (空谷集, năm 1285, Tụng Cổ của Đầu Tử Nghĩa Thanh [投子義清], trước ngữ của Đơn Hà Tử Thuần [丹霞子淳], và bình xướng của Lâm Tuyền Tùng Luân [林泉從倫]), Hư Đường Tập (虛堂集, Tụng Cổ của Đơn Hà Tử Thuần, bình xướng của Lâm Tuyền Tùng Luân), v.v. Thiền của Nhật Bản là sự di nhập của Thiền nhà Tống, cho nên Bích Nham Lục cũng được xem như là "thư tịch số một của tông môn", được đem ra nghiên cứu, giảng nghĩa, và từ thời Nam Bắc Triều trở đi thỉnh thoảng có khai bản ấn hành. Ngoài ra, Viên Ngộ Khắc Cần còn có trước tác Phật Quả Viên Ngộ Kích Tiết Lục (佛果圜悟擊節錄, Niêm Cổ của Tuyết Đậu Trùng Hiển, trước ngữ và bình xướng của Viên Ngộ Khắc Cần) và nó cũng được lưu hành rộng rãi. Còn Thỉnh Ích Lục (請益錄, năm 1230, Niêm Cổ của Hoàng Trí Chánh Giác, trước ngữ và bình xướng của Vạn Tùng Hành Tú) là bản mô phỏng theo tác phẩm Phật Quả Viên Ngộ Kích Tiết Lục này. Bản Bích Nham Lục hiện tồn là bản do Trương Minh Viễn (張明遠) nhà Thục san hành vào năm thứ 4 niên hiệu Đại Đức (大德), có khác với Tụng Cổ Bách Tắc về thứ tự của các tắc công án. Tại Nhật Bản, Bản Ngũ Sơn cũng là bản khắc lại nguyên hình bản của Trương Minh Viễn. Tuy nhiên, trong bản này có lời hậu tựa của Quan Vô Đảng (關無黨) ghi năm thứ 7 (1125) niên hiệu Tuyên Hòa (宣和), và lời tựa của Phổ Chiếu (普照) ghi năm thứ 2 (1128) niên hiệu Kiến Viêm (建炎), chúng ta biết được rằng trước đó đã có san hành rồi. Như trong lời hậu tựa của Hư Cốc Hy Lăng (虛谷希陵) có đoạn: “Ngu trung Trương Minh Viễn, ngẫu hoạch tả bản hậu sách, hựu hoạch Tuyết Đường san bản cập Thục bản, hiệu đính ngoa suyễn, san thành thử thư (嵎中張明遠、偶獲寫本後册、又獲雪堂刊本及蜀本、校訂訛舛、刊成此書, Trương Minh Viễn tình cờ có được quyển sau của tả bản trong hẽm núi, lại có thêm san bản của Tuyết Đường và bản nhà Thục, bèn hiệu đính những chỗ sai lầm, in thành sách này)” và san bản của Tuyết Đường Đạo Hạnh (雪堂道行) cũng nói lên vấn đề trên.
(乾元): có mấy nghĩa. (1) Hình dung đức lớn của Thiên tử. Như trong Dịch Kinh (易經), quẻ thứ nhất Càn Vi Thiên (乾爲天) có lời Thoán (彖) rằng: “Đại tai Càn Nguyên, vạn vật tư thỉ, nãi thống thiên (大哉乾元、萬物資始、乃統天, lớn thay Càn Nguyên, muôn vật nhờ nó mà bắt đầu nảy nở, nên cai quản cả trời).” Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達, 574-648) nhà Đường giải thích rằng: “Càn thị quái danh, Nguyên thị Càn đức chi thủ (乾是卦名、元是乾德之首, Càn là tên quẻ, Nguyên là đứng đầu trong các đức của Càn).” Chu Hy (朱熹, 1130-1200) nhà Nam Tống cho biết thêm rằng: “Càn Nguyên, thiên đức chi đại thỉ (乾元、天德之大始, Càn Nguyên là khởi đầu cho đức lớn của trời).” Từ đó trở về sau, Càn Nguyên được dùng để hình dung cho đức độ to lớn của Thiên tử. (2) Chỉ cho Trời. Như trong Trần Thư (陳書), chương Cao Tổ Kỷ Thượng (高祖紀上) có câu: “Đại tai Càn Nguyên, tư nhật nguyệt dĩ trinh quán; chí tai khôn nguyên, bằng sơn xuyên dĩ tải vật (大哉乾元、資日月以貞觀、至哉坤元、憑山川以載物, lớn thay Càn Nguyên, lấy trinh quán [đạo lý chánh đại] để giúp đỡ trời trăng; lấy việc nâng đỡ muôn vật để nương tựa núi sông).” Hay trong bài Thái Giai Lục Phù Phú (泰階六符賦) của thi nhân Tiền Khởi (錢起, 710-782) nhà Đường cũng có câu: “Ký xuất một dĩ hậu quân đức, hựu huỳnh hoàng dĩ lệ Càn Nguyên (旣出沒以候君德、又熒煌以麗乾元, từng ẩn hiện để trông đợi đức của vua, lại tỏa sáng để làm đẹp Càn Nguyên [Trời]).” (3) Chỉ cho đế vương. Như trong Tấn Thư (晉書), phần Hiếu Võ Định Hoàng Hậu (孝武定皇后) của Hậu Kỷ Truyện Hạ (后妃傳下) có câu: “Đức phối Càn Nguyên, cung thừa tông miếu, huy âm lục cung, mẫu nghi thiên hạ (德配乾元、恭承宗廟、徽音六宮、母儀天下, đức hợp đế vương, nối dõi tông miếu, tiếng tốt sáu cung, mẫu nghi thiên hạ).” Hay trong bài thơ Môn Nhân Trần Thiên Thu Đẳng Sơ Lai Thảo Đường Vấn Học Thị Chư Tử (門人陳千秋等初來草堂問學示諸子) của Khang Hữu Vi (康有爲, 1858-1927) cũng có câu: “Quần long vô thủ thùy tri cát, tự hữu càn nguyên đại thống trường (群龍無首誰知吉、自有乾元大統長, nhóm rồng đầu chẳng ai biết tốt, tự có đế vương thống lãnh lâu).” (4) Chỉ cho nguyên khí, đại khí, hơi thở. Như trong bài thơ Cô Trúc Quân Chi Nhị Tử (孤竹君之二子) của Quách Mạt Nhược (郭沫若, 1892-1978) có câu: “Ngã phủ ngưỡng tại thiên địa chi gian hô hấp càn nguyên, tạo hóa đích tinh thần tại hung trung phún dũng (我俯仰在天地之間呼吸乾元,造化的精神在我胸中噴湧, ta cúi xuống ngẩng lên giữa trời đất hô hấp nguyên khí, tinh thần của tạo hóa ở trong lồng ngực tuôn trào ra).”
(內宮): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ chung cho Lục Cung của thiên tử. Như trong Chu Lễ (周禮), chương Thiên Quan (天官), Nội Tể (內宰) có câu: “Hội nội cung chi tài dụng (會內宮之財用, tập trung lại tài dụng của sáu cung).” Trịnh Huyền (鄭玄, 127-200) nhà Hán giải thích rằng: “Kế phu nhân dĩ hạ sở dụng tài (計夫人以下所用財, tính từ phu nhân trở xuống đã dùng tài vật).” (2) Chỉ cho hậu cung. Như trong Pháp Hoa Kinh Chỉ Chưởng Sớ Sự Nghĩa (法華經指掌疏事義, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 33, No. 632), phần Tăng Hựu Luật Sư (僧祐律師), có đoạn: “Niên suy cước tật, sắc thừa dư nhập nội cung, vi Lục Cung thọ giới, Lương Lâm Xuyên Vương, Nam Bình Vương đẳng, tinh sùng kỳ giới phạm (年衰腳疾、勅乘輿入內宮、爲六宮受戒、梁臨川王、南平王等、幷崇其戒範, Luật Sư năm tháng suy yếu, chân bị đau, vua ban sắc chỉ cho ngồi xe vào cung nội, vì Lục Cung mà truyền giới, Lương Lâm Xuyên Vương, Nam Bình Vương, v.v., đều tôn sùng giới pháp của sư).” (3) Chỉ cho tử cung của người nữ.
: âm dịch là Ba Đơn Xà Khế (巴丹闍契), Ba Đơn Xà Lê (巴丹闍梨), soạn giả Du Già Kinh (s: Yogasūtra, 瑜伽經)—tác phẩm chính chứa đựng một số cách ngôn về những khía cạnh triết lý của tâm và thức. Ông còn là tác giả của một luận thư quan trọng (Mahābhāṣya) về Ashtadhyayi của Pāṇini; mặc dầu một vài học giả không cho rằng hai tác phẩm này do tác giả cùng tên viết. Ông viết Du Già Kinh từ tri thức Phệ Đà về Ấn Độ Giáo. Trong mấy thập niên gần đây, kinh này đã trở nên phổ biến trên khắp thế giới về các giới điều liên quan đến việc thực hành Raja Yoga và cơ sở triết học của các động tác Yoga dùng cho sức khỏe cũng như làm cho hài hòa thân tâm. Vì muốn dạy Yoga cho cuộc đời, tương truyền ông từ trên trời rơi (pat-) vào lòng bàn tay (-añjali) của một phụ nữ, cho nên ông có tên như vậy. Ai cũng cho rằng ông là hóa thân của Ādi S'esha—hiện thân ngã thể đầu tiên của thần Vishnu, Sankarshana. Sankarshana là hiện thân của năng lực cũng như tính phong phú ban sơ của thần Vishnu. Như vậy, Patañjali có thể được xem như là một hóa thân của Chúa để bảo vệ ngã tính của yoga. Rõ ràng ông là tư tưởng gia nguyên thủy, chứ không phải là nhà biên soạn trí tuệ yoga. Tuy nhiên, ông đã diễn dịch và làm sáng tỏ những gì người ta luận về yoga để không có sự mâu thuẩn nào. Thiên tài của ông đã đem lại nhiều hướng lý luận về triết lý yoga.
(酆都): chỉ cho nơi trú ngụ ở quỷ thần. Như trong Tây Dương Tạp Trở (酉陽雜俎), phần Ngọc Cách (玉格), của Đoàn Thành Thức (段成式, 803?-863) nhà Đường, giải thích rằng: “Hữu La Phong Sơn, tại Bắc phương Quý địa, chu hồi tam vạn lí, cao nhị thiên lục bách lí, động thiên lục cung, chu nhất vạn lí, cao nhị thiên lục bách lí, thị vi Lục Thiên quỷ thần chi cung … tử nhân giai chí kỳ trung (有羅酆山、在北方癸地、周迴三萬里、高二千六百里、洞天六宮、周一萬里、高二千六百里、是爲六天鬼神之宮…人死皆至其中, có La Phong Sơn, tại phương Bắc đất Bắc, chu vi ba vạn dặm, cao hai ngàn sáu trăm dặm, động trời sáu cung, chu vi một vạn dặm, cao hai ngàn sáu trăm dặm, chính là sáu cung quỷ thần, … người chết đều đến các cung này).” Nguyên lai, từ Phong Đô được dùng để chỉ cho La Phong Sơn, nơi ngự trị của quỷ thần; nhưng về sau được dùng để ám chỉ Huyện Phong Đô (豐都縣) ở Tỉnh Tứ Xuyên (四川省). Trong tác phẩm Trà Hương Thất Tùng Sao (茶香室叢鈔), phần Phong Đô Âm Quân (酆都陰君), của Du Việt (兪樾, 1821-1907) nhà Thanh, còn cho biết rằng: “Phong Đô Huyện Bình Đô Sơn vi Đạo thư thấp thập nhị phước địa chi nhất, nghi vi thần tiên quật trạch, nhi thế nãi truyền vi quỷ bá sở cư, thù bất khả giải (酆都縣平都山爲道書七十二福地之一、宜爲神仙窟宅、而世乃傳爲鬼伯所居、殊不可解, Bình Đô Sơn ở Huyện Phong Đô là một trong 72 vùng đất phước của Đạo Giáo, có lẽ là nhà cửa hang động của thần tiên, mà thế gian tương truyền là nơi quỷ thần cư trú, thật lạ không hiểu được).” Trong Địa Tạng Bổn Nguyện Kinh Khoa Chú (地藏本願經科註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 21, No. 384) quyển 4 có liệt kê tên một số quan viên dưới Địa Ngục như: “Đông Nhạc Phủ Hữu Thái Bảo, Truy Nhiếp Sinh Hồn Ngạc Nguyên Soái, Truy Nhiếp Tử Hồn Mạnh Nguyên Soái, Phong Đô Cửu Khúc Truy Hồn Trảm Quỷ Vi Nguyên Soái (東嶽府有太保、追攝生魂鄂元帥、追攝死魂孟元帥、酆都九曲追魂斬鬼韋元帥).” Hay trong Huyễn Trú Am Thanh Quy (幻住庵清規, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1248) có đoạn rằng: “Phong Đô giới nội Minh Phủ Thập Điện Từ Vương, Tam Đồ Lục Thú Bát Nạn Tứ Sanh chư hữu tình chúng, thống Tam Giới nhược u nhược hiển, biến thập phương nãi thánh nãi phàm (酆都界內冥府十殿慈王、三塗六趣八難四生諸有情眾、統三界若幽若顯、遍十方乃聖乃凡, trong cõi Phong Đô Minh Phủ Thập Điện Từ Vương, Ba Đường Sáu Nẻo Tám Nạn Bốn Loài các chúng hữu tình, thống lãnh Ba Cõi hoặc ẩn hoặc hiện, biến khắp mười phương ấy thánh ấy phàm).”
(增上寺, Zōjō-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Trấn Tây (鎭西派) thuộc Tịnh Độ Tông, hiện tọa lạc tại Shibakōen (芝公園), Minato-ku (港區), Kyōto-to (東京都); hiệu núi là Tam Duyên Sơn (三緣山); tên chính thức là Tam Duyên Sơn Quảng Độ Viện Tăng Thượng Tự (三緣山廣度院增上寺), là ngôi chùa nổi tiếng ở thủ đô Kyoto. Tượng thờ chính là A Di Đà Như Lai. Về vấn đề khai sáng của chùa, hiện vẫn còn nhiều điểm chưa rõ lắm, nhưng theo truyền ký thì chùa chính là hậu thân của Quang Minh Tự (光明寺) ở Thôn Bối Trũng (貝塚村); và người ta cho rằng Tông Duệ (宗睿) là người khai sơn ra chùa này. Theo như cuốn Ngọc Chi Lộ (玉枝露) của Kinh Lịch Hòa Thượng (經歷和尚), chùa này xưa kia vốn là tự viện của Chơn Ngôn Tông, là nơi thường dừng chân của Tướng Quân Túc Lợi Tôn Thị (足利尊氏, Ashikaga Takauji). Theo ký lục của chùa, điều rõ ràng nhất đó là bắt đầu từ thời của Nguyên Dự (源譽), vị Tổ đời thứ 7 kể từ Tây Dự (西譽) trở đi. Vào năm 1590, khi Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) vào thành Giang Hộ thì cùng lúc đó đến tham bái Tăng Thượng Tự này, ông được Tồn Ứng Thượng Nhân (存應上人) chỉ cho pháp môn Thập Niệm. Từ đó mối quan hệ giữa chùa này với dòng họ tướng quân càng khắng khít, và đó cũng là đích điểm xuất phát sự phát triển của chùa này. Thế lực cũng như tài lực của chùa trong thời kỳ này có thể nói là rất mạnh và phong phú. Qua sự hưng thạnh của chùa này mà các tự viện trên toàn quốc cũng dần dần đặt nặng đến thế lực chính trị. Vào trong khoảng niên hiệu Nguyên Lộc (元祿, 1688-1704), vâng mệnh của chính quyền Mạc Phủ vị Quán Thủ của chùa thì được bổ nhiệm là chức Đại Tăng Chánh. Điều này đã làm cho ngôi chùa Tổng Bản Sơn Tri Ân Viện (知恩院, Chion-in) ở Kyoto rất khó xử, vì lẽ đó mà thỉnh thoảng xảy ra những cuộc tranh chấp về chức vị. Ngôi chùa Tăng Thượng Tự này đã cùng với cấu trúc của Thành Giang Hộ, được dời về vị trí hiện tại, và trở thành một điểm trọng yếu trong Nội Phủ Thành Giang Hộ vậy. Chủ yếu ngôi chùa này đã phát triển rực rỡ nhờ mối quan hệ mật thiết với chính quyền Mạc Phủ của dòng họ Đức Xuyên (德川, Tokugawa), và được sự ngoại hộ phong phú của chính quyền Mạc Phủ cũng như Hoàng Thất. Nhưng đến cuối thời Minh Trị Duy Tân (明治維新, 1868) thì quyền lực ấy dần dần yếu hẳn đi, rồi trong khuôn viên chùa có 48 ngôi chùa con cũng từ từ sát nhập lại với nhau, và đến thời kỳ Chiêu Hòa (昭和, Shōwa) thì chỉ còn đếm được 20 ngôi chùa con mà thôi. Thời đại thay đổi và khuôn viên trong chùa cũng có những biến chuyển, trong chùa hiện tại có công viên, trường học, sở hành chính, vì thế hình dáng ngày xưa của chùa không còn được nguyên vẹn nữa.
(托蔭): được che chở, bảo hộ, nhờ ơn, thác sanh. Như trong tiểu thuyết Duyệt Vi Thảo Bút Ký (閱微草堂筆記), chương Hòe Tây Tạp Chí (槐西雜志) 1 của Kỷ Quân (紀昀, 1724-1805) nhà Thanh có câu: “Kim hạnh thác ấm đắc nhất quan, tương cát cư doanh truân tịch hỉ (今幸托蔭得一官、將拮据營窀穸矣, nay may được che chở làm chức quan, sau gặp lúc cùng đường thì đào huyệt mộ vậy).” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 4, phần Ca Dương Tán Phật Môn (歌揚讚佛門), Kiều Cổ Xã (喬鼓社), có đoạn: “Thích Ca thị chơn từ phụ, hóa hiện thân hình ly bổ xứ, giá bạch tượng thừa vân khứ, hướng hoàng cung thác ấm Ma Da, cửu long thổ thủy kim bồn dục (釋迦是眞慈父、化現身形離補處、駕白象乘雲去、向皇宮托蔭摩耶、九龍吐水金盆浴, Thích Ca đúng là cha lành, hóa hiện thân hình rời bổ xứ, cỡi voi trắng nương mây đi, hướng hoàng cung gởi chất Ma Da, chín rồng phun nước bồn vàng tắm).”
(狀): là bản văn giải bày sự thật trình lên chư vị Thần, Thánh; theo tục lệ của Đạo Giáo Trung hoa, chỉ dùng để đốt đi, không dùng tuyên đọc. Tuy nhiên, hiện tại ở Việt Nam, các bức Trạng vẫn được dùng để tuyên đọc rồi mới đem đốt. Bản văn dùng để trần tình những oan khuất của người mất lên Thiên Đình hay Địa Phủ được gọi là Cáo Âm Trạng (告陰狀). Như trong Hà Điển (何典), hồi thứ 2 có câu: “Thôi Mạng Quỷ cản đáo đương phương Thổ Địa na lí, cáo liễu Âm Trạng (催命鬼趕到當方土地那里、告了陰狀, Thôi Mạng Quỷ đuổi theo đến Thổ Địa phương này vài dặm, đọc xong bản Âm Trạng).” Trong Đạo Giáo, tùy theo đẳng cấp của chư vị thần linh cao thấp mà phân thành 3 loại Trạng: Tấu Trạng (奏狀), Thân Trạng (申狀) và Điệp Trạng (牒狀). (1) Tấu Trạng được dùng cho chư Thần như Tam Thanh (三清), Ngọc Hoàng (玉皇), Câu Trần Tinh Quân (勾陳星官), Tử Vi Đại Đế (紫微大帝), Đông Cực Thái Ất (東極太乙), Nam Cực Trường Sanh Đại Đế (南極長生大帝), Hậu Thổ Hoàng Địa Kỳ (后土皇地祇), Cửu U Bạt Tội Thiên Tôn (九幽拔罪天尊), Chu Lăng Độ Mạng Thiên Tôn (朱陵度命天尊), Thập Phương Linh Bảo Thiên Tôn (十方靈寶天尊), Động Uyên Tam Muội Tam Động Thiên Tôn (洞淵三昧三洞天尊), Cửu Thiên Thái Phỏng Quân (九天採訪君), Linh Bảo Tự Nhiên Cửu Thiên Sanh Thần Thượng Đế (靈寶自然九天生神上帝), Tam Thập Nhị Thiên Đế Quân (三十二天帝君), Ngũ Linh Ngũ Lão Ngũ Đế Thiên Quân (五靈五老五帝天君), Mộc Công Tôn Thần (木公尊神), Kim Mẫu Nguyên Quân (金母元君), v.v. (2) Thân Trạng được dùng cho chư vị đẳng cấp thấp hơn như Linh Bảo Tam Sư (靈寶三師), Tam Quan (三官), Nhật Cung Thái Dương Đế Quân (日宮太陽帝君), Nguyệt Cung Thái Âm Đế Quân (月宮太陰帝君), Ngũ Tinh Tứ Diệu Ngũ Đẩu (五星四曜五斗), Nam Đẩu Lục Ty Tinh Quân (南斗六司星君), Bắc Đẩu Cửu Thiên Tinh Hoàng Quân (北斗九天星皇君), Hoàng Lục Viện Tri Viện Chơn Quân (黃籙院知院眞君), Chánh Nhất Tam Sư (正一三師), Tứ Tướng (四相), Tứ Thánh (四聖), Linh Bảo Giám Trai Đại Pháp Sư Chơn Quân (靈寶監齋大法師眞君), Cửu Thiên (九天), Thiên Tào Thái Hoàng Vạn Phuớc Chơn Quân (天曹太皇萬福眞君), Tam Động Kinh Lục Phù Mạng Thượng Thánh Cao Chơn Tiên Linh Tướng Lại (三洞經籙符命上聖高眞仙靈將吏), Tam Thanh Thượng Cảnh Chơn Quân Hoàng Nhân (三清上境眞君皇人), Tam Nguyên Chơn Quân (三元眞君), Thập Chơn Nhân (十眞人), Ngũ Phủ Chơn Tể (五府眞宰), Nam Xương Thượng Cung Thọ Luyện Ty Phủ Chơn Tể (南昌上宮受煉司府眞宰), Ngọc Phủ Ngọc Xu Ngũ Lôi Viện Sứ Chơn Quân (玉府玉樞五雷院使眞君), Thập Phương Vô Cực Phi Thiên Chơn Vương (十方無極飛天眞王), Bắc Âm Huyền Thiên Phong Đô Đại Đế (北陰玄天酆都大帝), Thập Cung Đông Hà Phù Tang Đơn Lâm Đại Đế (十宮東霞扶桑丹林大帝), Tam Nguyên Thủy Phủ Chơn Tể (三元水府眞宰), Bồng Lai Đô Thủy Giám Chơn Nhân (蓬萊都水監眞人), Ngũ Nhạc Thượng Chơn Ty Mạng Tá Mạng Trữ Phó Chơn Quân (五嶽上眞司命佐命儲副眞君), Thanh Hư Động Thiên Tiên Quan (清虛洞天仙官), Địa Phủ Cửu Lũy Thổ Hoàng Quân (地府九壘土皇君), Long Hổ Quân Công Tào Kim Đồng Ngọc Nữ Hương Quan Sứ Giả (龍虎君功曹金童玉女香官使者), Thái Tuế Tôn Thần (太歲尊神), v.v. (3) Điệp Trạng được dùng cho chư vị Thần cấp dưới hơn nữa như Châu Thành Hoàng (州城隍), Huyện Thành Hoàng (縣城隍), Cửu Châu Xã Lịnh (九州社令), các ngục chúa, Thập Phương Đạo Đô Đại Chủ Giả (十方道都大主者), Minh Quan U Lộ Chủ Giả (冥關幽路主者), Ngũ Nhạc Hao Lí Tướng Công (五嶽蒿里相公), Thổ Địa Lí Thành Chơn Quan (土地里域眞官), Phong Đô Lục Đạo Đô Án (酆都六道都案), Tam Giới Chơn Phù Thần Hổ Sứ Giả (三界眞符神虎使者), v.v. Một số Trạng được dùng trong Công Văn Đàn Tràng của Phật Giáo Việt Nam là Trạng Cúng Đảo Bệnh, Trạng Cúng Phù Sứ, Trạng Lục Cung Cúng Khẩm Tháng, Trạng Cúng Quan Sát, Trạng Tống Mộc, Trạng Cúng Tạ Thổ, v.v.
(修齋): tập trung tu sĩ Phật Giáo hay đạo sĩ của Đạo Giáo để cúng dường cơm chay. Như trong bài thơ Đăng Linh Sơn Thủy Các Di Điếu Giả (登靈山水閣貽釣者) của thi nhân Đỗ Tuần Hạc (杜荀鶴, 846-904) nhà Đường có câu: “Giang thượng kiến tăng thùy thị liễu, tu trai bổ nạp nhật lao thân (江上見僧誰是了、修齋補衲日勞身, trên sông gặp tăng là ai nhỉ, cúng chay lão nạp bớt nhọc thân).” Hay trong kịch bản Đào Hoa Phiến (桃花扇), phần Nhập Đạo (入道), của Khổng Thượng Nhiệm (孔尚任, 1648-1718) nhà Thanh có đoạn: “Quảng diên đạo chúng, đại kiến kinh đàn, yếu dữ tiên đế tu trai truy tiến (廣延道眾、大建經壇、要與先帝修齋追薦, rước khắp các đạo sĩ, kiến lập đàn tràng lớn, chủ yếu dâng cúng cỗ chay để cầu siêu độ cho tiên đế).” Trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Thắng Hội Tu Trai Nghi Quỹ (法界聖凡水陸勝會修齋儀軌, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1497) quyển 1 cũng có đoạn: “Giác Hoàng mẫn Diệm Khẩu chi đồ, sơ linh phụng hộc; Lương Đế cảm thần tăng chi mộng, toại khải tu trai (覺皇憫燄口之徒、初令奉斛、梁帝感神僧之夢、遂啟修齋, Giác Hoàng thương Diệm Khẩu [miệng bốc lửa] muôn loài, mới bày hộc thực; Lương Đế cảm thần tăng ứng mộng, bèn cúng cỗ chay).” Hoặc như trong Phật Thuyết Dự Tu Thập Vương Sanh Thất Kinh (佛說預修十王生七經, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 1, No. 21) lại có đoạn: “Nhất thân Lục Đạo khổ mang mang, Thập Ác Tam Đồ bất dị đương, nỗ lực tu trai công đức cụ, hằng sa chư tội tự tiêu vong (一身六道苦茫茫、十惡三塗不易當、努力修齋功德具、恆沙諸罪自銷亡, một thân sáu nẻo khổ mênh mang, mười ác ba đường khó thoát nàn, tận lực cúng chay công đức đủ, hằng sa tội chướng tự tiêu vong).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập