Không có sự việc nào tự thân nó được xem là tốt hay xấu, nhưng chính tâm ý ta quyết định điều đó. (There is nothing either good or bad but thinking makes it so.)William Shakespeare
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Chúng ta nhất thiết phải làm cho thế giới này trở nên trung thực trước khi có thể dạy dỗ con cháu ta rằng trung thực là đức tính tốt nhất. (We must make the world honest before we can honestly say to our children that honesty is the best policy. )Walter Besant
"Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi." Ai ôm hiềm hận ấy, hận thù không thể nguôi.Kinh Pháp cú (Kệ số 3)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Chúng ta thay đổi cuộc đời này từ việc thay đổi trái tim mình. (You change your life by changing your heart.)Max Lucado
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Hãy làm một người biết chăm sóc tốt hạt giống yêu thương trong tâm hồn mình, và những hoa trái của lòng yêu thương sẽ mang lại cho bạn vô vàn niềm vui và hạnh phúc.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Để đạt được thành công, trước hết chúng ta phải tin chắc là mình làm được. (In order to succeed, we must first believe that we can.)Nikos Kazantzakis
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Long Thần »»
(白楮): giấy trắng làm bằng vỏ cây. Như trong Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1252), quyển 2, văn sớ Thu Kỳ Tình (秋祈晴) có đoạn: “Vân giá phù hoàng hỷ hữu thu thành chi hầu, vũ hoa thùy bạch nãi vô hưu tức chi thời, viên sư đơn trung, kính trình bạch chử (雲稼浮黃喜有收成之侯、雨花垂白乃無休息之時、爰攄丹衷、敬呈白楮, lúa tốt ửng vàng mừng có thu hoạch ấy dịp, mưa hoa trắng xóa lại không yên nghĩ thời kỳ, bày tấc lòng thành, kính trình giấy trắng).”
(寶鼎): có ba nghĩa chính. (1) Cái đỉnh thời cổ đại. Nguyên nó là đồ dùng để nấu, về sau được dùng tượng trưng cho quyền uy chính trị, nên gọi là bảo đỉnh. Như trong bài thơ Nhâm Tý Thu Quá Cố Cung (壬子秋過故宮) của Tống Nột (宋訥, 1311-1390) nhà Minh có câu: “Bảo đỉnh bách niên quy Hán thất, cẩm phàm chung cổ tợ Tùy gia (寶鼎百年歸漢室、錦帆終古似隋家, đỉnh báu trăm năm về Hán thất, buồm gấm muôn thuở giống Tùy gia).” Hoặc trong Vô Minh Huệ Kinh Thiền Sư Ngữ Lục (無明慧經禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1432) quyển 2 lại có câu: “Thiên quân bảo đỉnh phù thương hải, nhất trượng quy mao phược thái hư (千鈞寶鼎浮滄海、一丈龜毛縛太虛, ngàn cân đỉnh báu trôi xanh biển, một gậy lông rùa cột hư không).” (2) Chỉ lò hương, vì chế theo hình cái đỉnh, nên có tên như vậy. Như trong Nhị Bộ Tăng Thọ Giới Nghi Thức (二部僧授戒儀式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1134) quyển Hạ có đoạn: “Bảo đỉnh nhiệt danh hương, phổ biến thập phương, kiền thành phụng hiến pháp trung vương, đoan vi Hoàng vương chúc Thánh thọ, địa cửu thiên trường, đoan vi Hoàng vương chúc Thánh thọ, địa cửu thiên trường (寶鼎熱名香、普遍十方、虔誠奉獻法中王、端爲皇王祝聖壽、地久天長、端爲皇王祝聖壽、地久天長, lò báu ngút hương thơm, cúng khắp mười phương, lòng thành dâng cúng đấng pháp vương, thảy vì Hoàng đế chúc trường thọ, trời đất dài lâu, thảy vì Hoàng đế chúc trường thọ, trời đất dài lâu).” (3) Chỉ cái lò do các Đạo sĩ dùng để luyện đan nấu thuốc. như trong bài thơ Xuân Nhật Tạp Cảm (春日雜感) của Trình Thiện Chi (程善之, 1880-1942) có câu: “Bảo đỉnh luyện thần dược, bất như thủ trung chi (寶鼎煉神藥、不如手中卮, lò báu luyện thần dược, chẳng bằng chén trong tay).”
(芹曝): từ khiêm tốn, chỉ cho lễ vật dâng hiến nhỏ nhặt, ít ỏi, đạm bạc, không đầy đủ nhưng với cả tấm lòng chí thành. Từ này thường được dùng đồng nghĩa với cần hiến (芹獻), hiến bộc (獻曝). Trong bài Cư Hậu Đệ Hòa Thất Thập Tứ Ngâm Tái Phú (居厚弟和七十四吟再賦) của Lưu Khắc Trang (劉克莊, 1187-1269) nhà Tống có câu: “Phê đồ tằng cử từ thần chức, cần bộc chung hoài dã lão tâm (批塗曾舉詞臣職、芹曝終懷野老心, phê chuẩn từng cử chức quan lớn, lễ bạc còn lo lão quê lòng).” Hay như trong bài thơ Chân Châu Tiêu Nương Chế Cao Bính Tối Hữu Danh (真州蕭娘制糕餅最有名) của Triệu Dực (趙翼, 1727-1814) nhà Thanh cũng có câu: “Quỹ tiết liêu đồng hiến bộc tình, cạnh yêu chuyên bút tứ bao vinh (饋節聊同獻曝情、競邀椽筆賜褒榮, quà biếu cũng như lễ mọn tình, tranh mời bút lực tặng hiển vinh).” Trong Thiền Lâm Sớ Ngữ Khảo Chứng (禪林疏語考證, 卍 tục tạng kinh Vol. 63, No. 1252) quyển 2, phần Anh Bệnh Dũ Hoàn Nguyện (嬰病愈還愿), lại có câu: “Tư tuần báo ân chi điển, nãi cần hiến bộc chi nghi (茲循報恩之典、乃勤獻曝之儀, nay nương báo ân kinh điển, mà bày lễ bạc khoa nghi).” Lại trong Vĩnh Giác Nguyên Hiền Thiền Sư Quảng Lục (永覺元賢禪師廣錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1437) quyển 17, phần Phúng Kinh Hộ Quốc Sớ (諷經護國疏), cũng có đoạn: “Chuy y ký nhược, đồ hoài hiến bộc chi thành; Phật đức khả bằng, cung tuyên hộ quốc chi điển (緇衣旣弱、徒懷獻曝之誠、佛德可憑、恭宣護國之典, tăng thân đã yếu, chỉ lo lễ bạc lòng thành; đức Phật thể nương, kính tuyên hộ quốc kinh điển).”
(貽謀): vốn phát xuất từ câu “di quyết tôn mưu, dĩ yến dực tử (詒厥孫謀、以燕翼子, trao truyền mưu kế cho đàn cháu để làm yên cho đàn con)” trong Thi Kinh (詩經), chương Đại Nhã (大雅), phần Văn Vương Hữu Thanh (文王有聲). Về sau, từ di mưu được dùng với ý nghĩa là lời giáo huấn, dạy dỗ của ông bà đối với con cháu. Như trong bài Hàn Duy Tổ Bảo Xu Lỗ Quốc Công Chế (韓維祖保樞魯國公制) của Tô Thức (蘇軾, 1037-1101) nhà Tống có câu: “Thượng dĩ báo di mưu chi đức, hạ dĩ lệ di hiếu chi thành (上以報貽謀之德、下以勵移孝之誠, trên báo đáp dạy dỗ ân đức, dưới khích lệ hiếu nghĩa lòng thành).” Trong Duy Ma Kinh Vô Ngã Sớ (維摩經無我疏, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 19, No. 348) quyển 5 có đoạn: “Nhược vị đắc Pháp Thân, đản tác Ý Đẳng Thí, tức thị Vô Ngại Pháp Thí, thử diệc tiên hiền chi cách ngôn, sơ học chi di mưu dã (若未得法身、但作意等施、卽是無閡法施、此亦先賢之格言、初學之貽謀也, nếu chưa chứng đắc Pháp Thân, mà thực hành Bố Thí Bình Đẳng, tức là Pháp Thí Không Ngại; đây chính là cách ngôn của hiền Thánh đi trước, là lời giáo huấn cho hàng mới vào đạo).”
(覺皇): vua giác ngộ, còn gọi là Giác Vương (覺王), xưng hiệu của Phật. Như trong bài Đại Hưng Long Tiết Công Đức Sớ (代興龍節功德疏) của Trần Sư Đạo (陳師道, 1053-1101) nhà Tống có câu: “Phục nguyện bằng Giác Hoàng chi ngoại trợ, hiệu thần tử chi nội tâm (伏願憑覺皇之外助、效臣子之內心, cúi mong nương Giác Hoàng ấy ngoài giúp, chữa chúng thần ấy trong tâm).” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 3, phần Lục Hiến Tổng Văn (六獻總文), lại có đoạn: “Như Cam Lộ nhi ốc tâm, tợ Đề Hồ nhi quán đảnh, hà tất cánh tầm Di Lặc Phật, chỉ kim hạnh đổ Thích Ca Sư, cung đối Giác Hoàng, liêu ngâm Phật vận, tín sĩ kiền thành, cung thân thiết bái (如甘露而沃心、似醍醐而灌頂、何必更尋彌勒佛、只今幸睹釋迦師、恭對覺皇、聊吟佛韻、信士虔誠、躬身設拜, như Cam Lộ mà rót tâm, tựa Đề Hồ mà rưới đầu, hà tất lại tìm Di Lặc Phật, chỉ nay may gặp Thích Ca Ngài, cung đối Giác Hoàng, hứng ngâm Phật hiệu, tín đồ lòng thành, cúi thân lễ lạy).”
(覺皇): vua giác ngộ; đức Phật được xem như là vị vua giác ngộ, nên Giác Hoàng còn là tên gọi khác của Phật. Như trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, CBETA No. 1277) quyển 3 có đoạn: “Như Cam Lồ nhi ốc tâm, tợ Đề Hồ nhi quán đảnh, hà tất cánh tầm Di Lặc Phật, chỉ kim hạnh đổ Thích Ca sư, cung đối Giác Hoàng, liêu ngâm Phật vận, tín sĩ kiền thành, cung thân thiết bái (如甘露而沃心、似醍醐而灌頂、何必更尋彌勒佛、只今幸睹釋迦師、恭對覺皇、聊吟佛韻、信士虔誠、躬身設拜, như Cam Lồ mà rưới tâm, tựa Đề Hồ mà rưới đầu, đâu cần đi tìm Di Lặc Phật, chỉ nay may gặp Thầy Thích Ca, đối trước Giác Hoàng, cùng ngâm lời Phật, tín đồ lòng thành, cúi mình vái lạy).” Hay trong Từ Bi Thủy Sám Pháp (慈悲水懺法) quyển Hạ có câu: “Giác Hoàng tòa hạ, huân tu Tam Muội huyền văn, kim đối đệ tam quyển, công đức châu long (覺皇座下、薰脩三昧玄文、今對第三卷、功德周隆, dưới tòa Giác Hoàng, chuyên tu Tam Muội văn mầu, nay đến quyển thứ ba, công đức trọn vẹn).” Trong Chánh Pháp Nhãn Tạng (正法眼藏, Shōbōgenzō) quyển 72 của Thiền Sư Đạo Nguyên (道元, Dōgen, 1200-1253), vị tổ sáng lập ra Tào Động Tông Nhật Bản, cũng có câu: “Đương Giác Hoàng giải chế chi thời, thị pháp tuế châu viên chi nhật, cửu tuần vô nạn, nhất chúng hàm an (當覺皇解制之時、是法歳周圓之日、九旬無難、一眾咸安, lúc Giác Hoàng giải hạ kết chế, là đúng ngày tuổi hạ tròn đầy, chín tuần chẳng nạn, toàn chúng đều yên).”
(金爐): lò vàng dùng để đốt giấy tiền vàng bạc khi dân chúng đến tham bái. Tạo hình bên ngoài Kim Lô ở Miếu Thành Hoàng (城隍廟) lấy màu hồng làm chính. Trên đỉnh lò có tòa nhà lục giác ba tầng: tầng thứ nhất lên đến đỉnh lò, mỗi góc đều có hình con rồng bay; tầng thứ hai lên đến đỉnh lò, mỗi góc có hình con chim phụng bay; tầng thứ ba, mỗi góc đều có hình hoa. Kim Lô và Hương Lô (香爐, lò hương) hoàn toàn khác nhau về chức năng. Lò Hương chủ yếu để cắm hương. Lò Hương cỡ lớn thì có điêu khắc hình con rồng trên đó và được đúc bằng đồng. Trong khi đó, Kim Lô chủ yếu dùng để đốt các loại giấy tiền vàng mã và hầu hết mỗi đền miếu đều có. Loại Kim Lô ở các đền miếu được chế tạo bằng gốm sứ. Như trong Phật Mẫu Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Thức (佛母孔雀尊經科式, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1479) có đoạn: “Giới Định chơn hương, phần khí xung thiên thượng, thí chủ kiền thành, nhiệt tại kim lô phóng, khoảnh khắc nhân uân, tức biến mãn thập phương, tích nhật Da Du, miễn nạn trừ tai chướng (戒定眞香、焚氣衝天上、施主虔誠、爇在金爐放、頃刻氛氤、卽遍滿十方、昔日耶輸、免難除災障, Giới Định chơn hương, khí đốt xông trời đất, thí chủ lòng thành, hơi nóng trong lò tỏa, khoảnh khắc hòa hài, tức cùng khắp mười phương, xưa kia Da Du, hết nạn trừ tai chướng).” Hay trong Huyễn Trú Am Thanh Quy (幻住庵清規, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1248) lại có đoạn: “Thần minh chi sum vệ, tuyên Phật Đảnh chi bí thuyên, tường yên tiêu cổ triện ư kim lô, bảo diệm thổ Đàm Hoa ư ngọc chúc (神明之森衛、宣佛頂之秘詮、祥煙銷古篆於金爐、寶燄吐曇花於玉燭, thần minh ấy hộ vệ, tuyên Phật Đảnh bao bí ngữ, mây lành nung triện cổ nơi lò vàng, lửa báu tuôn hoa Đàm nơi nến ngọc).” Trong Pháp Hoa Kinh Trì Nghiệm Ký (法華經持驗記, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1541) quyển Hạ, phần Tống Thích Ngộ Ân (宋釋晤恩) có đoạn rằng: “Ung Hy tam niên bát nguyệt, mộng ủng nạp Sa Môn, chấp kim lô phần hương, tam nhiễu kỳ thất, tự ngôn Tổ sư quán đảnh, lai thử tương nghênh, mộng giác do văn dị hương, diện Tây hiệp chưởng nhi hóa (雍熙三年八月、夢擁衲沙門、執金爐焚香、三遶其室、自言祖師灌頂、來此相迎、夢覺猶聞異香、面西合掌而化, vào tháng 8 niên hiệu Ung Hy thứ 3 [986], Ngộ Ân mơ thấy vị Sa Môn ôm y bá nạp, tay cầm lò vàng xông hương, ba lần nhiễu quanh thất của ông, tự bảo là Tổ sư quán đảnh, đến đây nghinh đón, khi tỉnh mộng mà vẫn nghe có mùi hương lạ, ông mặt hướng về phương Tây chấp tay mà đi).”
(金仙): có hai nghĩa. (1) Chỉ đức Phật. Trong Phật Pháp Kim Thang Biên (卍 Tục Tạng Kinh Vol. 87, No. 1628 佛法金湯編) quyển 11 cho biết rằng: “Tuyên Hòa nguyên niên đế cảm ư Lâm Linh Tố chi thuyết, chiếu cải Phật vi Đại Giác Kim Tiên, tăng vi Đức Sĩ, tự vi cung quán (宣和元年帝惑於林靈素之說、詔改佛爲大覺金仙、僧爲德士、寺爲宮觀, vào năm đầu [1119] niên hiệu Tuyên Hòa [đời vua Huy Tông nhà Tống], nhà vua cảm được lời nói của Đạo sĩ Lâm Linh Tố, bèn hạ chiếu đổi Phật thành Đại Giác Kim Tiên, tăng là Đức Sĩ, chùa là cung quán).” Như trong bài thơ Dữ Nguyên Đan Khâu Phương Thành Tự Đàm Huyền Tác (與元丹丘方城寺談玄作) của Lý Bạch (李白, 701-762) nhà Đường có câu: “Lãng ngộ tiền hậu tế, thỉ tri Kim Tiên diệu (朗悟前後際、始知金仙妙, biết rõ trước sau thảy, mới hay Phật vi diệu).” Hay trong Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1277) quyển 3, phần Thất Hiến Tổng Văn (七獻總文), cũng có câu: “Cửu long thân thổ dục Kim Tiên, vạn cổ Tào Khê vô tận duyên (九龍親吐浴金仙、萬古曹溪無盡綠, chín rồng phun nước tắm Kim Tiên, vạn cổ Tào Khê vô tận duyên).” (2) Tên gọi khác của thần tiên. Hai người con gái của vua Duệ Tông (睿宗, tại vị 684-690, 710-712) nhà Đường xuất gia làm nữ Đạo sĩ, một người được phong là Kim Tiên Công Chúa (金仙公主), người kia là Ngọc Chân Công Chúa (玉眞公主). Nhà Phật cũng gọi những tiên nhân ngoại đạo tu hành tinh tấn là Kim Tiên.
(s, p: nāga, 龍): rồng, âm dịch là Nẵng Nga (曩誐), Na Già (那伽), tên gọi của một trong 8 bộ chúng hộ trì Phật pháp. Trong thần thoại Ấn Độ, đây là động vật không tưởng thần cách hóa loài rắn; loại có uy đức gọi là Long Vương (龍王) hay Long Thần (龍神). Tương truyền loài này sống trong biển lớn, có ma lực có thể kêu mây và làm mưa gió. Trong thánh điển Phật Giáo có đề cập nhiều đến loài này, tỷ dụ như trong Phật Mẫu Đại Khổng Tước Minh Vương Kinh (佛母大孔雀明王經) có nêu lên hơn 160 tên loài rồng này. Trong truyền thuyết về đức Phật kể lại chuyện khi ngài giáng sanh, có hai con rồng rưới nước thanh tịnh lên mình ngài; khi thành đạo thì con rồng đã bảo vệ, che chở thân ngài trong 7 ngày mưa bão; đức Phật đã từng chữa bệnh cho con rồng mù và hàng phục loài độc long, v.v. Trong Pháp Hoa Kinh (法華經) cho biết rằng 8 vị Long Vương lớn đến nghe đức Phật thuyết pháp; hay như trong Phẩm Đề Bà Đạt Đa (提婆達多品) của kinh này có câu chuyện vị long nữ 8 tuổi thành Phật. Trú xứ của rồng được gọi là Long Cung (龍宮), nằm sâu dưới lòng đáy biển, được trang hoàng lộng lẫy và của báu chất đầy như núi. Nó là vị hộ pháp của Đại Thừa Phật Giáo. Đối với Mật Giáo, đồ hình Thai Tạng Mạn Trà La (胎藏曼茶羅) có 2 vị Long Vương đại diện cho Nan Đà (難陀) và Ô Ba Nan Đà (烏波難陀), có quan hệ rất sâu với pháp cầu mưa. Câu chuyện Thiện Nữ Long Vương (善女龍王) xuất hiện trong khi Không Hải (空海, Kūkai) đang tu luyện pháp tại Thần Tuyền Uyển (神泉苑) là rất nổi tiếng.
(s: nāgarājaḥ, 龍王): âm dịch là Na Già La Nhã (那伽羅惹), là vị có uy đức nhất trong loài rồng. Tương truyền rằng khi đức Phật đản sanh, có 2 vị Long Vương tên Nan Đà (s: Nanda, 難陀) và Bạt Nan Đà (s: Upananda, 跋難陀) xuất hiện rưới nước thanh tịnh tắm cho ngài. Trong Phẩm Tựa của Pháp Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka-sūtra, 法華經) có đề cập 8 vị Long Vương lớn đến nghe đức Phật thuyết pháp như Nan Đà (s: Nanda, 難陀), Bạt Nan Đà (s: Upananda, 跋難陀), Ta Già La (s: Sāgara, 娑伽羅), Hòa Tu Cát (s: Vāsuki, 和修吉), Đức Xoa Ca (s: Takṣaka, 德叉迦), A Na Bà Đạt Đa (s: Anavatapta, 阿那婆達多), Ma Na Tư (s: Manasvin, 摩那斯), Ưu Bát La (s: Utpalaka, 優鉢羅). Quyển 1 của Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明最勝王經) thì nêu tên 7 vị Long Vương. Các vị này thường có thể làm cho mây nỗi và ban mưa, khiến cho chúng sanh tiêu tan sự nóng bức. Ngoài ra, theo Tăng Hộ Kinh (僧護經) cho biết rằng Hải Long Vương (海龍王) đã từng biến thành thân người nữ, xuất gia tu hành, nhưng trong khi ngủ không thể ẩn thân được nên hiện nguyên hình rồng; cho nên đức Phật dạy rằng con rồng lúc mới sanh ra, khi chết, giao cấu, sân hận, ngủ nghĩ thì vẫn giữ nguyên hình của nó, không thể biến hóa thành loài khác được. Đối với Long Vương có 3 điều lo âu: (1) nỗi khổ bị thiêu đốt bởi gió nóng và cát nóng; (2) nỗi lo sợ khi luồng gió ác thổi đến chỗ ở làm cuốn bay cả của báu và xiêm y; (3) nỗi lo sợ bị loài Kim Xí Điểu (金翅鳥, tức Ca Lâu La [s: garuḍa, 迦樓羅]) ăn thịt. Tuy nhiên, loại Long Vương sống trong hồ A Nậu Đạt (阿耨達) thì không có những nỗi khổ này. Ngoài ra, Long Vương còn là tên gọi của một vị thần trong Đạo Giáo Trung Quốc, một trong Tứ Linh, nguyên lai phát xuất từ việc sùng bái Long Thần (龍神) kết hợp với tín ngưỡng Hải Thần (海神). Đại Long Vương có 4 vị, được gọi là Tứ Hải Long Vương (四海龍王), gồm: Nam Hải Quảng Lợi Vương (南海廣利王, hay Nam Hải Long Vương Ngao Khâm [南海龍王敖欽]), Đông Hải Quảng Đức Vương (東海廣德王, hay Đông Hải Long Vương Ngao Quảng [東海龍王敖廣]), Bắc Hải Quảng Trạch Vương (北海廣澤王, hay Bắc Hải Long Vương Ngao Thuận [北海龍王敖順]) và Tây Hải Quảng Thuận Vương (西海廣順王, hay Tây Hải Long Vương Ngao Nhuận [西海龍王敖閏]). Trong đó, Đông Hải Long Vương là tối tôn. Trong Thái Thượng Động Uyên Thần Chú Kinh (太上洞淵神咒經) của Đạo Giáo có Phẩm Long Vương (龍王品), tùy theo phương vị mà gọi là Ngũ Đế Long Vương (五帝龍王), hay theo sông biển mà có tên là Tứ Hải Long Vương, theo thiên địa vạn vật mà nêu ra 54 tên Long Vương. Dưới thời vua Huyền Tông (玄宗, tại vị 712-756) nhà Đường, nhà vua có hạ chiếu thờ Long Trì (龍池), lập đàn cúng tế, lấy nghi thức tế mưa để cúng tế Long Vương. Đến thời vua Thái Tổ (太祖, tại vị 960-976) nhà Tống lại dùng quy chế nghi cúng tế Ngũ Long của nhà Đường. Vào năm thứ 2 (1108) niên hiệu Đại Quán (大觀) đời vua Huy Tông (徽宗, tại vị 1100-1125) nhà Tống, có chiếu chỉ phong tước vương cho Ngũ Long. Thanh Long Thần (青龍神) là Quảng Nhân Vương (廣仁王), Xích Long Thần (赤龍神) là Gia Trạch Vương (嘉澤王), Hoàng Long Thần (黃龍神) là Phu Ứng Vương (孚應王), Bạch Long Thần (白龍神) là Nghĩa Tế Vương (義濟王), Hắc Long Thần (黑龍神) là Linh Trạch Vương (靈澤王). Đến năm thứ 2 (1863) niên hiệu Đồng Trị (同治, 1862-1874) nhà Thanh, nhà vua lại phong cho Vận Hà Long Thần (運河龍神) là Diên Hưu Hiển Ứng Phân Thủy Long Vương Chi Thần (延庥顯應分水龍王之神) và hạ lệnh cho Tổng Đốc quản lý về sông nước lo việc cúng tế. Về chức năng, Long Thần chuyên trách về việc tạo mây ban mưa, làm cho con người được mát mẻ, tiêu trừ nóng bức, phiền não. Theo các sử liệu cho biết, ngày cúng tế Long Thần khác nhau tùy theo truyền thuyết dân gian các nơi. Xưa kia, phần lớn những ngôi đền thờ Long Vương đồng dạng với đền thờ của Thành Hoàng (城隍), Thổ Địa (土地). Mỗi khi gặp gió mưa không thuận hòa, hạn hán kéo dài, hay mưa lâu mà không dứt, người dân thường đến miếu thờ Long Vương dâng hương, cầu nguyện để được phong điều vũ thuận. Trong Bác Dị Ký (博异志), phần Hứa Hán Dương (許漢陽) của (谷神子) nhà Đường có đoạn: “Tác dạ Hải Long Vương chư nữ, cập di muội lục thất nhân quá quy Động Đình (昨夜海龍王諸女、及姨妹六七人過歸洞庭, đêm hôm qua các nữ nhân của Hải Long Vương cùng với chị em sáu, bảy người đi ngang về Động Đình).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập