Các sinh vật đang sống trên địa cầu này, dù là người hay vật, là để cống hiến theo cách riêng của mình, cho cái đẹp và sự thịnh vượng của thế giới.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Điều bất hạnh nhất đối với một con người không phải là khi không có trong tay tiền bạc, của cải, mà chính là khi cảm thấy mình không có ai để yêu thương.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nghệ thuật sống chân chính là ý thức được giá trị quý báu của đời sống trong từng khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận! Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái!Kinh Pháp cú (Kệ số 251)
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Điều quan trọng nhất bạn cần biết trong cuộc đời này là bất cứ điều gì cũng có thể học hỏi được.Rộng Mở Tâm Hồn
Con người sinh ra trần trụi và chết đi cũng không mang theo được gì. Tất cả những giá trị chân thật mà chúng ta có thể có được luôn nằm ngay trong cách mà chúng ta sử dụng thời gian của đời mình.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Hãy sống như thế nào để thời gian trở thành một dòng suối mát cuộn tràn niềm vui và hạnh phúc đến với ta trong dòng chảy không ngừng của nó.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Lộc Uyển »»
(s: Vārāṇasī, Vāraṇasī, Varāṇasī, Varaṇasī, p: Bārāṇasī, 波羅奈): tên của một vương quốc cổ ngày xưa của Ấn Độ, còn gọi là Ba La Nại Tư Quốc (波羅奈斯國), Ba La Nại Quốc (波羅捺國), Ba La Nại Tả Quốc (波羅捺寫國); xưa kia gọi là Già Thi Quốc (s: Kāśī, 伽尸國), hiện tại là Benares. Theo Đại Đường Tây Vức Ký (大唐西域記) quyển 7, vương quốc này có thành quách kéo dài đến tận sông Tây Khắc Già (西殑伽), dài 18, 19 dặm, rộng 5-6 dặm. Dân cư trong thành đông đúc, tính người hiền lương, phần lớn tin vào ngoại đạo, ít người kính trọng Phật pháp. Tăng chúng phần lớn học pháp Chánh Lượng Bộ của Tiểu Thừa. Về phía đông bắc của thành có dòng sông Varaṇā; phía tây sông có tháp A Dục Vương (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育王); phía đông bắc sông khoảng 10 dặm có di tích cũ nơi Bồ Tát Di Lặc (s: Maitreya, p: Metteyya, 彌勒), Bồ Tát Hộ Minh (護明) từng thọ ký. Bên cạnh đó, phía tây bắc thành có vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), nơi xưa kia sau khi thành đạo, đức Phật lần đầu tiên giáo hóa cho 5 vị Tỳ Kheo. Từ đó về sau, Ngài thường đến thành này hóa độ chúng sanh và Ba La Nại trở thành một trong 6 trung tâm thuyết pháp lớn đương thời. Hiện tại trong thành có cả ngàn ngôi đền thờ Ấn Độ Giáo. Nơi này xưa kia rất thịnh hành về học thuật, cùng với vùng Takṣasilā là hai trung tâm của Bà La Môn giáo học. Khi cao tăng Huyền Trang (玄奘, 602-664) đến địa phương này, Phái Thấp Bà (s: Śiva, 濕婆) rất hưng thịnh. Sau khi tín đồ Hồi Giáo xâm nhập vào năm 1194, Phật Giáo tiến đến tuyệt tích. Hiện tại nơi đây không chỉ là thánh địa của Ấn Độ Giáo, mà còn là thánh địa của Phật Giáo và Kỳ Na Giáo (耆那敎, Jainism).
(s: Buddha-gayā, 菩提道塲): còn gọi là Bồ Đề Già Da (菩提伽耶), Phật Đà Già Da (佛陀伽耶), Bồ Đề Tràng. Là vùng đất mà đức Phật đã thành chánh giác, nằm ở vùng Bodhgayā cách 7 dặm gần thành phố Già Da về phía Nam của bang Bihar, Ấn Độ, mặt hướng về sông Ni Liên Thuyền (s: Nairañjanā, 尼連禪) thuộc chi lưu của sông Hằng. Vùng đất này nguyên xưa kia là tụ lạc Ưu Lâu Tần Loa (s: Uruvelā, 優樓頻螺) về phía Nam của thành Già Da thuộc nước Ma Kiệt Đà thời Ấn Độ cổ đại. Theo kinh điển có ghi, sau 6 năm trãi qua khổ hạnh, đức Phật đã đến nơi đây ngồi kiết già trên toà Kim Cang dưới gốc cây Tất Bát La, chứng ngộ 12 Nhân Duyên, Tứ Diệu Đế v.v., và chứng quả chánh giác, cho nên cây Tất Bát La còn được gọi là cây Bồ Đề. Vào thời Trung Đại Thành Già Da bị giáo đồ Bà La Môn chiếm hữu trở thành lãnh địa của giáo phái này. Đặc biệt thánh địa nơi đức Phật đã thành đạo thì được gọi là Phật Đà Già Da, cùng với nơi đức Phật đản sanh (Lâm Tỳ Ni [s, p: Lumbinī, 藍毘尼]), nơi đức Phật chuyển pháp luân đầu tiên (vườn Lộc Uyển [s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑]), nơi nhập Niết Bàn (rừng Sa La Song Thọ của thành Câu Thi Na [s: Kuśinagara, p: Kusinagara, Kusinārā, 拘尸那、倶尸那]) được xem như là 4 thánh tích lớn của Phật Giáo. Sau khi đức Phật nhập diệt, trãi qua các đời, người đã xây dựng ở nơi đây nhiều ngôi tháp để cúng dường, kiến tạo các tinh xá, già lam. Nhưng đến nay không còn nữa mà chỉ còn lại một số các di tích mà thôi.
(專照寺, Senshō-ji): ngôi chùa bản sơn của Phái Tam Môn Đồ (三門徒派) thuộc Chơn Tông, hiện tọa lạc tại Minori, Fukui-shi (福井市), Fukui-ken (福井縣); hiệu núi là Trung Dã Sơn (中野山). Vào năm 1290 (Chánh Ứng [正應] 3), Như Đạo (如道[導], Nyodō), đệ tử của Viên Thiện (圓善) ở Kiêm Chiếu Tự (兼照寺) thuộc Shizuoka-ken (靜岡縣), sáng lập nên một ngôi chùa và lấy tên là Chuyên Tu Tự (專修寺). Vào năm 1396 (Ứng Vĩnh [應永] 3), ông đổi tên chùa thành Chuyên Chiếu Tự, rồi đến năm 1437 (Vĩnh Hưởng [永享] 9), Tướng Quân Túc Lợi Nghĩa Giáo (足利義敎, Ashikaga Yoshinori) cúng dường lãnh địa Lộc Uyển Viện (鹿苑院) ở vùng Việt Hậu (越後, Echigo). Dưới thời đại của dòng họ Đức Xuyên (德川, Tokugawa), chùa trở thành ngôi chùa Môn Tích rất nổi tiếng và hưng thạnh; nhưng đến năm 1873 (Minh Trị [明治] 6) thì phụ thuộc vào Phái Đại Cốc của Chơn Tông. Đến năm 1878 (Minh Trị 11), chùa độc lập tách riêng ra, lập thành phái Tam Môn Đồ.
(敎判, kyōhan), Giáo Tướng Phán Thích (敎相判釋, kyōsōhanshaku) hay Giáo Tướng Phán Giáo (敎相判敎, kyōsōhankyō): sự giải thích kinh điển vốn được hệ thống hóa, phân loại chỉnh lý dựa trên các tiêu chuẩn như hình thức, phương pháp, thứ tự của kinh điển được đức Thích Tôn thuyết ra trong thời gian 45 năm từ khi thành đạo lúc 35 tuổi cho đến khi nhập Niết Bàn lúc 80 tuổi, hay về mặt tu tập thì giáo lý nào là cứu cánh, chân lý căn bản là gì, v.v. Dưới thời Tùy Đường, có khuynh hướng làm sáng tỏ lập trường mang tính giáo nghĩa vốn tín phụng vào tự than và chủ trương tính ưu việt của các kinh điển cũng như nội dung giáo nghĩa làm chỗ nương tựa. Về tự thể của kinh điển, chúng ta có thể thấy trong Pháp Hoa Kinh (法華經) có thuyết về sự khác nhau giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa, trong Lăng Già Kinh (楞伽經) có Đốn Giáo và Tiệm Giáo, trong Hoa Nghiêm Kinh (華嚴經) có Tam Chiếu, hay trong Giải Thâm Mật Kinh (解深密經) có Tam Thời, v.v.; hoặc trong các luận thư như Đại Trí Độ Luận (大智度論) thì thuyết về Tam Tạng (三藏) và Ma Ha Diên (摩訶衍), trong Thập Trụ Tỳ Bà Sa Luận (十住毘婆娑論) có Nan Hành Đạo (難行道) và Dị Hành Đạo (易行道), v.v.; tất cả đều chỉ phân loại sự sâu cạn của giáo thuyết và đó không phải là Giáo Phán. Tại Trung Quốc, vào thời Trí Khải (智顗) khoảng thế kỷ thứ 6, tương truyền ở Giang Nam có Giáo Phán Tam Thuyết (三說), ở bắc bộ có Thất Thuyết (七說), được gọi là Nam Tam Bắc Thất (南三北七, theo Pháp Hoa Huyền Nghĩa [法華玄義] 10). Giáo Phán tiêu biểu là Ngũ Thời Bát Giáo (五時八敎) của Trí Khải. Ngũ Thời là thời Hoa Nghiêm (華嚴), Lộc Uyển (鹿苑, tức A Hàm [阿含]), Phương Đẳng (方等), Bát Nhã (般若) và Pháp Hoa Niết Bàn (法華涅槃); Bát Giáo gồm Hóa Nghi Tứ Giáo (化儀四敎) của giáo lý Đốn (頓), Tiệm (漸), Bí Mật (秘密), Bất Định (不定) nếu nhìn từ mặt hình thức thuyết pháp; và Hóa Pháp Tứ Giáo (化法四敎) của Tam Tạng (三藏, Tiểu Thừa), Thông (通, cọng thông cả Tiểu lẫn Đại Thừa), Biệt (別, Đại Thừa), Viên (圓, giáo lý hoàn toàn) nếu nhìn từ mặt nội dung. Tiếp theo, Nhị Tạng Tam Luận (二藏三論) của Cát Tạng (吉藏)—người hình thành giáo học Tam Luận, Tam Giáo Bát Tông (三敎八宗) của Khuy Cơ (窺基) thuộc Pháp Tướng Tông, bắt đầu xuất hiện. Kế thừa những giáo học này, Pháp Tạng (法藏), người hình thành giáo học Hoa Nghiêm, đã thuyết về Giáo Phán gọi là Ngũ Giáo Thập Tông (五敎十宗). Ngoài ra, Đạo Xước (道綽) của Tịnh Độ Giáo có thuyết về Nhị Môn Giáo Phán (二門敎判), gồm Thánh Đạo và Tịnh Độ. Tại Nhật Bản, Không Hải (空海, Kūkai), vị tổ khai sáng Chơn Ngôn Tông có lập ra 2 loại Giáo Phán Hoành Thụ (橫竪). Về phía Thai Mật (台密), An Nhiên (安然, Annen) đề xướng thuyết Ngũ Thời Ngũ Giáo (五時五敎). Ngoài ra, Thân Loan (親鸞, )—người kết hợp tự lực và tha lực, Tiệm Giáo và Đốn Giáo—thì chủ trương thuyết Nhị Song Tứ Trùng (二雙四重); Nhật Liên (日蓮, Nichiren) thì có thuyết Ngũ Cương (五綱), v.v.
(興正寺, Kōshō-ji): ngôi chùa bản sơn của Phái Hưng Chánh Tự (興正寺派) thuộc Chơn Tông, hiệu là Viên Đốn Sơn Hoa Viên Viện Hưng Long Đường (圓頓山花園院興隆堂), lãnh địa Lộc Uyển Viện (鹿苑院); hiện tọa lạc tại Shimogyō-ku (下京區), Kyōto-shi (京都市), Kyōto-fu (京都府). Tượng thờ chính là A Di Đà Như Lai. Chùa tách khỏi sự quản lý của Bổn Nguyện Tự và chính thức trực thuộc Phái Hưng Chánh Tự là vào năm 1876 (Minh Trị [明治] 9). Theo một số tư liệu như Cao Điền Khai Sơn Thân Loan Thánh Nhân Chánh Thống Truyện Đệ Tứ (高田親鸞聖人正統傳第四), v.v., vào tháng 9 năm 1212 (Kiến Lịch [建曆] 2), thể theo lời thỉnh cầu của Nguyên Hải (源海), Thân Loan kiến lập ngôi làng ở vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina); rồi đến năm 1218 (Kiến Bảo [建保] 6), Thuận Đức Thiên Hoàng (順德天皇, Juntoku Tennō, tại vị 1210-1221) đã ban sắc hiệu cho chùa hiệu là Hưng Long Chánh Pháp Tự (興隆). Vào năm 1602 (Khánh Trường [慶長] 7), khi Bổn Nguyện Tự phân lập thành Đông Tây, chùa tùng thuộc vào Tây Bổn Nguyện Tự.
(靈山): tiếng gọi tắt của Linh Thứu Sơn (靈鷲山), hay còn gọi là Thứu Phong (鷲峰), Thứu Lãnh (鷲嶺), tiếng phiên âm của nguyên ngữ Sanskrit là Kỳ Xà Quật Sơn (s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 耆闍崛山), tên ngọn núi nằm ở phía Đông Bắc Thành Vương Xá thuộc nước Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀), hiện tại nằm ở phía Đông Rajgir của Ấn Độ. Đây là một trong những thánh địa của Phật Giáo, là nơi đức Phật đã từng thuyết pháp; cho nên người ta cho rằng phần lớn các kinh điển Đại Thừa như Pháp Hoa, Bát Nhã, Đại Bảo Tích, Vô Lượng Thọ, v.v., và cũng như câu chuyện Niêm Hoa Vi Tiếu của Thiền Tông đều phát xuất từ đây. Trong bộ Long Hưng Phật Giáo Biên Niên Thông Luận (隆興佛敎編年通論) quyển 12 do Thạch Thất Sa Môn Tổ Tú (石室沙門祖琇) ở Phủ Long Hưng (隆興府) soạn, có đoạn: “Huyền Trang … sưu dương Tam Tạng tận Long Cung chi sở trữ, nghiên cứu Nhất Thừa cùng Thứu Lãnh chi di chỉ, tinh dĩ tải ư Bạch Mã hoàn hiến Tử Thần, tầm mông hạ chiếu sắc sứ phiên dịch (玄奘…搜揚三藏盡龍宮之所儲、研究一乘窮鷲嶺之遺旨、並已載於白馬還獻紫宸、尋蒙下詔敕使翻譯, Huyền Trang … tìm tòi Tam Tạng kinh điển tận chốn Long Cung tàng trữ, nghiên cứu giáo lý Nhất Thừa soi rõ yếu chỉ của Thứu Lãnh, cùng bỏ lên Bạch Mã mang về dâng Hoàng triều, mong trên hạ chiếu cho người phiên dịch).” Trong bài thơ Linh Ẩn Tự (靈隱寺) của thi sĩ Tống Chi Vấn (宋之問, khoảng 656-712) đầu thời nhà Đường có câu trứ danh là: “Thứu Lãnh uất thiều nghiêu, Long Cung tỏa tịch liêu, lâu quán thương hải nhật, môn đối Triết Giang triều, quế tử nguyệt trung lạc, thiên hương vân ngoại phiêu (鷲嶺鬱岧嶢、龍宮鎖寂寥、樓觀滄海日、門對浙江潮、桂子月中落、天香雲外飄, Thứu Lãnh rậm vút cao, Long Cung mờ tịch liêu, trên lầu biển xanh ngắm, cửa tựa Triết Giang triều, hàng quế trăng thầm rụng, hương trời mây trắng bay).” Hoặc trong bài Hòa Vương Ký Thất Tùng Triệu Vương Xuân Nhật Du Đà Sơn Tự (和王記室從趙王春日遊陀山寺) của Lạc Tân Vương (駱賓王, khoảng 619-687) nhà Đường cũng có câu: “Điểu dư bồi phỏng đạo, Thứu Lãnh hiệp thê chơn, Tứ Thiền minh tĩnh nghiệp, Tam Không quảng thắng nhân, tường hà sơ điệp giản, huệ nhật kiểu trùng luân, diệp ám Long Cung mật, hoa minh Lộc Uyển xuân (鳥旟陪訪道、鷲嶺狎棲眞、四禪明靜業、三空廣勝因、祥河疏疊澗、慧日皎重輪、葉暗龍宮密、花明鹿苑春, cờ xí lên vấn đạo, Thứu Lãnh dưỡng nuôi chơn, Bốn Thiền sáng nghiệp lắng, Ba Không rõ duyên nhân, sông từ trong khe mát, trời tuệ tỏ thế nhân, lá che Long Cung thẳm, hoa tươi Lộc Uyển xuân).”
(暮春): cuối Xuân, chấm dứt mùa Xuân. Như trong Tu Dược Sư Nghi Quỹ Bố Đàn Pháp (修藥師儀軌布壇法, Taishō Vol. 19, No. 928) có đoạn: “Nhất Phật xử thai nhật, hệ Kỷ Mùi Trọng Hạ thập ngũ nhật; nhị Phật giáng sanh nhật, hệ Canh Dần tứ nguyệt thất nhật; tam Phật xuất gia nhật, hệ Mậu Tý Mộ Xuân bát nhật; tứ Phật thành đạo nhật, hệ Giáp Ngọ tứ nguyệt thập ngũ nhật; ngũ Phật ư Lộc Uyển chuyển Tứ Đế Pháp Luân nhật, hệ thành đạo bổn niên Quý Hạ lục nguyệt tứ nhật; lục Phật tùng Đao Lợi Thiên hạ hoàn nhật, hệ Canh Tý Trọng Thu nhị thập nhị nhật; thất Phật bát Niết Bàn nhật, hệ Canh Thìn tứ nguyệt thập ngũ nhật (一佛處胎日、係己未仲夏十五日、二佛降生日、係庚申四月七日、三佛出家日、係戊子暮春八日、四佛成道日、係甲午四月十五日、五佛於鹿苑轉四諦法輪日、係成道本年季夏六月四日、六佛從忉利天下還日、係庚子仲秋二十二日、七佛般涅槃日、係庚辰四月十五日, thứ nhất ngày đức Phật nhập vào thai đích xác là ngày rằm tháng 5 năm Kỷ Mùi; thứ hai ngày đức Phật giáng sanh đích xác là ngày mồng 7 tháng 4 năm Canh Dần; thứ ba ngày đức Phật xuất gia đích xác là ngày mồng 8 tháng 3 năm Mậu Tý; thứ tư ngày đức Phật thành đạo đích xác là ngày rằm tháng tư năm Giáp Ngọ; thứ năm ngày đức Phật chuyển Pháp Luân Tứ Đế đích xác là ngày mồng 4 tháng 6 cùng năm Ngài thành đạo; thứ sáu ngày đức Phật từ cung Trời Đao Lợi trở về đích xác là ngày 22 tháng 8 năm Canh Tý; thứ bảy ngày đức Phật nhập Niết Bàn đích xác là ngày rằm tháng 4 năm Canh Thìn).” Hay trong bài Bát Nhã Vô Tri (般若無知) của Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 78, No. 1556) quyển 30 có câu: “Bát Nhã hiệu Vô Tri, tương phùng thoại sở chi, khứ niên Sơ Hạ nguyệt, kim nhật Mộ Xuân thì, lâm thủy tinh thần kiện, đăng sơn khí lực suy, ân cần thoại tiêu tức, mi thượng cánh sanh mi (船若號無知、相逢話所之、去年初夏月、今日暮春時、臨水精神健、登山氣力衰、慇懃話消息、眉上更生眉, Bát Nhã hiệu Vô Tri, gặp nhau nói chuyện gì, năm ngoái tháng đầu Hạ, năm nay cuối xuân khi, đến nước tinh thần mạnh, lên non khí lực suy, ân cần thăm hỏi đủ, trên mi mọc lông mày).”
(義淨, Gijō, 635-713): vị tăng dịch kinh nổi tiếng dưới thời nhà Đường, người Huyện Trác (涿縣), Hà Bắc (河北), có thuyết cho là xuất thân vùng Tề Châu (齊州, Sơn Đông), họ là Trương (張), tự Văn Minh (文明). Ông xuất gia từ lúc còn nhỏ, thiên tánh thông tuệ, đã từng đi tham vấn khắp các bậc danh đức, đọc qua các điển tịch. Năm lên 15 tuổi, ông rất ngưỡng mộ cuộc Tây du thỉnh kinh của Pháp Hiển (法顯, 340?-?) và Huyền Trang (玄奘, 602-664). Đến năm 20 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới. Vào năm thứ 2 (671) niên hiệu Hàm Hanh (咸亨), ông đi qua Quảng Châu (廣州), dọc theo đường biển, đến vùng Thất Lợi Phất Thệ (室利弗逝, tức Tô Môn Đáp Lạp Ba Lân Bàng [Palembang, 蘇門答臘巴鄰旁]) và cuối cùng đến được Ấn Độ. Tại đây ông đã chí thành tuần bái và đảnh lễ các thánh địa Phật Giáo như Thứu Phong (鷲峰, tức Kỳ Xà Quật Sơn [s: Gṛdhrakūṭa, p: Gijjhakūṭa, 耆闍崛山]), Kê Túc Sơn (雞足山), Vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), Kỳ Viên Tinh Xá (p: Jetavana Anāthapiṇḍikārāma, 祇園精舍), v.v. Sau đó, ông đến tu học tại Na Lan Đà Tự (s: Nālandā, 那爤陀寺) trong suốt 10 năm, rồi đi du lịch hơn 30 tiểu quốc. Khi trở về nước, ông mang về Lạc Dương khoảng 400 bộ kinh luận bằng tiếng Phạn và 300 viên xá lợi; chính Võ Hậu đích thân ra tận Đông môn nghinh tiếp và hạ chiếu chỉ cho ông trú trì Phật Thọ Ký Tự (佛授記寺). Từ đó trở đi, ông tham gia vào công tác trùng dịch Kinh Hoa Nghiêm (華嚴經), cùng các thư tịch về giới luật, Duy Thức, Mật Giáo, v.v. Kể từ năm thứ 2 (699) niên hiệu Thánh Lịch (聖曆) cho đến năm thứ 2 (711) niên hiệu Cảnh Vân (景雲), ông đã dịch được 56 bộ, 230 quyển, trong số đó thư tịch liên quan đến giới luật là nhiều nhất và những điển tịch hiện lưu truyền của Tỳ Nại Da thuộc Hữu Bộ phần lớn đều do ông phiên dịch cả. Ông cùng với Cưu Ma La Thập (s: Kumārajīva, 鳩摩羅什, 344-413), Huyền Trang (玄奘, 602-664), và Chơn Đế (s: Paramārtha, 眞諦, 499-569) được xem như là 4 nhà phiên dịch lớn. Ngoài việc phiên dịch, ông còn lấy giới luật dạy dỗ đồ chúng. Trước tác của ông có Nam Hải Ký Quy Nội Pháp Truyện (南海寄歸內法傳) 4 quyển, Đại Đường Tây Vức Cầu Pháp Cao Tăng Truyện (大唐西域求法高僧傳) 2 quyển, v.v. Trong tác phẩm của ông có ghi lại những sinh hoạt của chư tăng, phong tục, tập quán, v.v., ở các nước mà ông đã từng đi qua, là tư liệu vô cùng quan trọng để chúng ta có thể biết được Ấn Độ đương thời như thế nào. Ông thị tịch vào tháng giêng năm thứ 2 niên hiệu Tiên Thiên (先天), hưởng thọ 79 tuổi. Tháp của ông được dựng tại Long Môn (龍門), Lạc Dương (洛陽).
(五辰八敎): hay Ngũ Thời Bát Giáo (五時八敎), tức là chủ trương của Đại Sư Trí Khải (智顗, 538-397) về giáo phán của Thiên Thai Tông, lấy nội dung của các kinh điển Phật Giáo, rồi phân loại, giải thích; theo thứ tự thời gian thuyết pháp của đức thích tôn mà phân thành 5 thời là Hoa Nghiêm (華嚴), Lộc Uyển (鹿苑), Phương Đẳng (方等), Bát Nhã (般若), Pháp Hoa (法華), Niết Bàn (涅槃); rồi căn cứ vào hình thức, phương tiện hóa độ chúng sanh mà phân thành Hóa Nghi Tứ Giáo (化儀四敎) là Đốn (頓), Tiệm (漸), Bí Mật (秘密), Bất Định (不定); và nương theo nội dung giáo lý để hóa đạo thích ứng với căn cơ chúng sanh mà phân thành Hóa Pháp Tứ Giáo (化法四敎) là Tạng (藏), Thông (通), Biệt (別), Viên (圓). Đây được gọi là Ngũ Thời Bát Giáo. Về Ngũ Thời:
(1) Thời Hoa Nghiêm, chỉ thời kỳ đầu tiên trong vòng 37 ngày sau khi thành đạo, đức Phật thuyết Hoa Nghiêm Kinh (s: Buddhāvataṃsaka-nāma-mahāvaipulya-sūtra, 華嚴經), như lúc mặt trời chiếu trên núi cao. Nội dung thuyết pháp đương thời là Viên Giáo, Biệt Giáo. Đối tượng thuyết pháp là chúng Đại Bồ Tát của Biệt Giáo cũng như các phần tử ưu tú trong Viên Giáo. Nếu nói theo ý nghĩa đức Phật thuyết pháp, nhờ trí tuệ nội chứng, Ngài nghĩ ra cách thí nghiệm xem thử giáo pháp có thích hợp với căn cơ chúng sanh hay không; nên thời này được gọi là Nghĩ Nghi Thời (擬宜時, thời tìm ra phương pháp thích nghi); tương đương với vị sữa được lấy từ trong con bò ra. Hoa Nghiêm Kinh có 2 phần: trước và sau. Phần trước là thuyết pháp trong 37 ngày, không bao hàm Thanh Văn (聲聞); phần sau như Phẩm Nhập Pháp Giới (入法界品), có các Đại Thanh Văn như Xá Lợi Phất (s: Śāriputra, p: Sāriputta, 舍利弗), v.v. Trình độ thuyết pháp của thời này rất cao, hàng Thanh Văn như câm như điếc, chưa thể lãnh hội trọn vẹn giáo thuyết.
(2) Thời Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑), chỉ khoảng thời gian 12 năm sau khi đức Phật tuyên thuyết Hoa Nghiêm Kinh; là thời kỳ tại 16 nước lớn, Ngài thuyết 4 bộ A Hàm (阿含) của Phật Giáo Nguyên Thủy, gồm Trường A Hàm Kinh (長阿含經, hay Trường Bộ [p: Dīghanikāya, 長部]), Trung A Hàm Kinh (中阿含經, hay Trung Bộ [p: Majjhimanikāya, 中部]), Tạp A Hàm Kinh (雜阿含經, hay Tương Ưng Bộ [p: Saṁyuttanikāya, 相應部]), Tăng Nhất A Hàm Kinh (增一阿含經, hay Tăng Chi Bộ [p: Aṅguttaranikāya, 增支部]); giống như thời kỳ mặt trời chiếu soi hang đá. Nhân vì lần đầu tiên Ngài thuyết pháp tại Lộc Dã Uyển (鹿野苑), nên có tên gọi như vậy. Bên cạnh đó, do vì kinh điển được thuyết vào thời kỳ này là A Hàm nên được gọi là Thời A Hàm. Trình độ giáo pháp thời kỳ này rất thấp, chỉ là giáo lý của Phật Giáo Nguyên Thủy, được ví như vị cạo sữa.
(3) Thời Phương Tiện, chỉ khoảng thời gian sau thời Lộc Uyển, thuyết các kinh điển Đại Thừa như Duy Ma (s: Vimalakīrti-nideśa, 維摩), Thắng Man (s: Śrīmālā-siṁha-nāda-sūtra, 勝鬘), v.v., như lúc mặt trời chiếu xuống bình địa. Giáo pháp thời này cũng có Tạng, Thông, Biệt Viên; được ví cho vị của ván sữa sống. Phương tiện là thông xưng của kinh điển đại thừa và thời kỳ này bắt đầu tuyên thuyết kinh điển ấy, nên có tên gọi là Thời Phương Tiện.
(4) Thời Bát Nhã, chỉ trong vòng 22 năm sau Thời Phương Tiện, là thời kỳ thuyết các kinh điển thuộc hệ Bát Nhã, cho nên theo tên kinh mà có tên gọi như vậy. Thời kỳ này giống như mặt trời chiếu từng khu vực. Giáo pháp thời này thuộc về Tam Giáo Thông, Biệt và Viên; phá trừ những thiên chấp về Đại Thừa, Tiểu Thừa; thuyết rõ các pháp đều là Không, dung hợp cả đại lẫn tiểu thành một vị; được ví như vị của ván sữa chín. Thời kỳ này đức Phật vì nhóm Tu Bồ Đề (s, p: Subhūti, 須菩提) thuyết Bát Nhã, khiến cho họ ngưỡng mộ Đại Thừa.
(5) Thời Pháp Hoa Niết Bàn, chỉ thời kỳ năng lực của người thọ giáo tiến đến cảnh giới tối cao, chứng nhập tri kiến của Phật, khoảng trong vòng 8 năm cuối trước khi đức Phật nhập Niết Bàn; trong thời gian ấy Ngài thuyết Pháp Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka-sūtra, 法華經) và Đại Bát Niết Bàn Kinh (s: Mahāparinirvāṇasūtra, 大般涅槃經) trước khi nhập diệt một ngày một đêm. Thời kỳ này giống như mặt trời chiếu đúng ngọ. Giáo pháp thời kỳ này thuần túy Viên Giáo viên mãn, được ví như vị của Đề Hồ.
Về Bát Giáo, như có đề cập bên trên, gồm Hóa Nghi Tứ Giáo (化儀四敎, tức 4 hình thức và nghi tắc được đức Phật dùng để giáo hóa chúng sanh) và Hóa Pháp Tứ Giáo (化法四敎, tức 4 nội dung giáo pháp được đức Phật dùng để giáo hóa chúng sanh). Hóa Nghi Tứ Giáo có:
(1) Đốn Giáo (頓敎), ban đầu đức Phật lấy phương pháp tự nội chứng trực tiếp giáo hóa chúng sanh; tương đương với giáo thuyết của Hoa Nghiêm Kinh.
(2) Tiệm Giáo (漸敎), là giáo pháp có nội dung giáo hóa từ cạn tiến dần đến sâu; tương đương với ba thời thuyết giáo của A Hàm, Phương Đẳng và Bát Nhã.
(3) Bí Mật Giáo (秘密敎), đức Phật tùy theo căn cơ, trình độ, năng lực bất đồng của mỗi chúng sanh mà thuyết giáo, khiến cho kia đây không biết nhau.
(4) Bất Định Giáo (不定敎), tức giáo pháp không nhất định, tùy theo căn cơ của mỗi chúng sanh mà thể ngộ chân lý khác nhau. Trong đó, Bí Mật Giáo và Bất Định Giáo có điểm cọng thông là “Đồng Thính Dị Văn (同聽異聞, cùng nghe mà hiểu khác)”; có nghĩa là cùng ngồi trong một pháp hội nghe pháp mà mỗi người nghe hiểu mỗi khác, không ai giống ai.
Hóa Pháp Tứ Giáo có:
(1) Tam Tạng Giáo (三藏敎), gọi tắt là Tạng Giáo (藏敎), tức Tiểu Thừa Giáo (小乘敎).
(2) Thông Giáo (通敎), Thông có 3 nghĩa là thông đồng, thông nhập và cọng thông; tức giáo nghĩa Đại Thừa cọng thông cả Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát.
(3) Biệt Giáo (別敎), nghĩa là không cọng Hai Thừa mà chỉ vì Bồ Tát thuyết pháp, hoặc do sai biệt mà quán sát các pháp.
(4) Viên Giáo (圓敎), nghĩa là giáo lý viên dung, không thiên chấp, là lý chân thật, hay lý giác ngộ của đức Phật.
Như trong Thiên Thai Tứ Giáo Nghi (天台四敎儀, Taishō No. 1931) có giải thích rằng: “Thiên Thai Trí Giả Đại Sư, dĩ Ngũ Thời Bát Giáo, phán thích Đông lưu nhất đại Thánh Giáo, khánh vô bất tận (天台智者大師、以五時八敎、判釋東流一代聖敎、罄無不盡, Thiên Thai Trí Giả Đại Sư lấy Ngũ Thời Bát Giáo để giải thích Thánh Giáo một đời được truyền sang phương Đông, đến rốt cùng tận).” Hay như trong Bổ Tục Cao Tăng Truyện (補續高僧傳, CBETA No. 1524) quyển 25, phần Nam Châu Phổ Hiệp Pháp Sư Truyện (南洲溥洽法師傳) cũng có câu: “Hồng Võ Tân Hợi, xuất thế trú Cô Sơn Mã Não Giảng Tự, hựu trú Tô Châu Bắc Thiền, học đồ vân tập, sư vi khai diễn Ngũ Thời Bát Giáo, Như Lai nhất đại thí hóa chi nghi, vô trí ngu cao hạ, nhân nhân mãn sở dục nhi thối (洪武辛亥、出世住孤山瑪瑙講寺、又住蘇州北禪、學徒雲集、師爲開演五時八敎、如來一代施化之儀、無智愚高下、人人滿所欲而退, vào năm Tân Hợi [1371], niên hiệu Hồng Võ, Phổ Hiệp Pháp Sư đến trú tại Mã Não Giảng Tự ở Cô Sơn, rồi chuyển đến trú tại Bắc Thiền ở Tô Châu, học đồ tập trung rất đông, sư vì họ mà diễn giảng Ngũ Thời Bát Giáo, là nghi tắc giáo hóa một đời của Như Lai; không phân biệt trí ngu, cao thấp, mọi người đều thỏa mãn sự ham muốn của mình và lui ra).”
(s: pañca-bhikṣavah, p: pañcavaggiyā-bhikkhū, 五比丘): hay còn gọi là Ngũ Quần Tỳ Kheo (五群比丘, nhóm năm vị Tỳ Kheo), tên của 5 vị Tỳ Kheo mà trước khi chưa thành chánh quả, đức Thế Tôn đã từng chung sống tu khổ trong vòng 6 năm trường. Sau khi biết được việc tu khổ hạnh, ép xác không phải là pháp môn để đạt đến giải thoát, nên ngài xuống tắm dưới sông Ni Liên Thuyền (s: Nairañjanā,p: Nerañjarā, 尼連禪河), nhận bát cháo sữa của cô gái chăn dê cúng dường và trở lại ăn uống bình thường. Thấy vậy, 5 vị này khinh thường và bỏ ngài đi. Sau khi thành đạo, đức Thế Tôn nhớ đến 5 người này, bèn đến Vườn Lộc Uyển (s: Mṛgadāva, p: Migadāya, 鹿苑) tuyên thuyết bài pháp đầu tiên hóa độ cho họ. Đây là những người đệ tử đầu tiên nhất của đức Phật và được gọi là 5 vị Tỳ Kheo, gồm:
(1) A Nhã Kiều Trần Như (p: Ājñātakauṇḍinya, p: Aññā-Koṇḍañña, 阿若憍陳如), còn gọi là A Nhã Cư Lân (阿若居隣), A Nhã Câu Lân (阿若拘隣), A Nhã Đa Kiều Trần Na (阿若多憍陳那), Kiều Trần Như (憍陳如),
(2) A Thấp Bà Thị (s: Aśvajit, Aśvaka; p: Assaji, 阿濕婆恃), hay còn gọi là A Thuyết Thị (阿說示), A Thuyết Chỉ (阿說旨), A Thấp Ti (阿濕卑), Mã Thắng (馬勝),
(3) Bạt Đề (s: Bhadrika, p:Bhaddiya, 跋提、拔提), còn gọi là Bà Đề (婆提), Bạt Đề Lê Ca (跋提黎迦), Bà Đế Lợi Ca (婆帝利迦),
(4) Ma Ha Nam (s, p: Mahānāma, 摩訶男), còn gọi là Ma Ha Na Ma (摩訶那摩), và
(5) Thập Lực Ca Diếp (s: Daśabala-kāśyapa, p: Das abala-kassapa, 十力迦葉).
Trường hợp Thập Lực Ca Diếp đôi khi được thay bằng Bà Sa Ba (s: Bāṣpa, p: Vappa, 婆沙波), như trong Trung Bổn Khởi Kinh (中本起經), Phật Sở Hành Tán (佛所行讚), v.v.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập