Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm
Mục đích cuộc đời ta là sống hạnh phúc. (The purpose of our lives is to be happy.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cuộc sống không phải là vấn đề bất ổn cần giải quyết, mà là một thực tiễn để trải nghiệm. (Life is not a problem to be solved, but a reality to be experienced.)Soren Kierkegaard
Đừng làm một tù nhân của quá khứ, hãy trở thành người kiến tạo tương lai. (Stop being a prisoner of your past. Become the architect of your future. )Robin Sharma
Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Hãy đặt hết tâm ý vào ngay cả những việc làm nhỏ nhặt nhất của bạn. Đó là bí quyết để thành công. (Put your heart, mind, and soul into even your smallest acts. This is the secret of success.)Swami Sivananda
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Loạn Ứng Nhân »»
(近衛政家, Konoe Masaie, 1444-1505): nhà công khanh, Quan Bạch và Thái Chính Đại Thần từ giữa thời đại Thất Đinh cho đến đầu thời đại Chiến Quốc; tên là Hà (霞); hiệu Hậu Pháp Hưng Viện (後法興院); là con trai thứ của Cận Vệ Phòng Tự (近衛房嗣, Konoe Fusatsugu). Anh là Cận Vệ Giáo Cơ (近衛敎基, Konoe Norimoto); các em trai đều là Tăng sĩ như Đạo Hưng (道興), Tăng Vận (增運), Chính Thâm (政深), Chính Biện (政辨). Vào năm 1462 (Khoan Chánh [寛正] 3), nhân khi người anh Giáo Cơ qua đời, ông kế thừa dòng họ Cận Vệ. Từ đó về sau, ông được bổ nhiệm làm các chức quan như Tùng Tam Vị (從三位), Hữu Cận Vệ Trung Tướng (右近衛中將). Đến năm 1467 (Ứng Nhân [應仁] nguyên niên), ông làm chức Quyền Đại Nạp Ngôn (權大納言); năm 1472 (Văn Minh [文明] 4) thì làm Chánh Nhị Vị Nội Đại Thần (正一位內大臣). Vào năm 1479 (Văn Minh 11), sau khi vụ Loạn Ứng Nhân chấm dứt, ông được bổ nhiệm làm Quan Bạch Tả Đại Thần (關白左大臣). Bốn năm sau, ông từ chức Quan Bạch và được thăng chức Thái Chính Đại Thần (太政大臣). Sau đó, ông lại từ quan và qua đời ở độ tuổi 62. Ông có để lại bộ nhật ký Hậu Pháp Hưng Viện Ký (後法興院記), rất có giá trị về mặt sử liệu để biết được những thông tin về triều đình vào giữa thời Thất Đinh như thế nào.
(大德寺, Daitoku-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Đại Đức Tự (大德寺派) thuộc Lâm Tế Tông, hiệu núi là Long Bảo Sơn (龍寶山), hiện tọa lạc tại số 53 Daitokuji-cho (大德寺町), Murasakino (紫野), Kita-ku (北區), Kyoto-shi (京都市), Kyoto-fu (京都府). Người đời thường gọi là Tử Dã Đại ĐứcTự (紫野大德寺, Murasakunodaitoku-ji), tên gọi chính thức là Long Bảo Sơn Đại Đức Thiền Tự (龍寶山大德禪寺). Chùa được sáng lập vào năm đầu (1319) niên hiệu Nguyên Ứng (元應), và vị Tổ khai sơn chùa là Tông Phong Diệu Siêu (宗峰妙超). Diệu Siêu là người vùng Bá Ma (播磨, Harima, thuộc Hyōgo-ken [兵庫縣]), ban đầu ông làm đệ tử của vị Luật Sư Giới Tín (戒信), nhưng sau đó thì lại theo học đạo với Nam Phố Thiệu Minh (南浦紹明), rồi được vị này thọ ký cho. Đến năm 1308, khi Nam Phố Thiệu Minh qua đời, thì ông đến sống ở Vân Cư Am (雲居庵). Khi ấy vị trấn thủ vùng Bá Ma là Hộ Tắc Thôn (護則村) nghe như vậy, bèn kiến lập một tòa Pháp Đường ở vùng Tử Dã (紫野, Murasakino), rồi cung thỉnh Diệu Siêu đến ở đó. Sau Hậu Đế Hồ Thiên Hoàng (後醍醐天皇, Godaigo Tennō) nghe được uy đức của ông, bèn thỉnh vào cung cấm mà tham vấn yếu chỉ của Thiền, rồi ban cho đất đai mà xây dựng ngôi già lam, lấy tên gọi là Long Bảo Sơn Đại Đức Tự (龍寶山大德寺). Kế đến Hoa Viên Thượng Hoàng (花園上皇) lại sắc phong cho chùa là Đạo Tràng Kỳ Nguyện, và xếp vào một trong năm ngôi chùa nổi tiếng vùng Kyoto. Vào năm thứ 2 (1453) niên hiệu Hưởng Đức (享德), do bị hỏa hoạn lớn nên hơn phân nữa chùa bị cháy tan, rồi sau đó gặp phải binh hỏa của vụ Loạn Ứng Nhân (應仁). Về sau, vào năm thứ 6 (1474) niên hiệu Văn Minh (文明), Nhất Hưu Tông Thuần (一休宗純) mới nỗ lực tái hưng lại ngôi chùa này. Đến trong khoảng niên hiệu Khoan Văn (寛文) thì ngôi già lam hầu như đã được phục hồi lại y như cũ. Trong khuôn viên chùa hiện có 24 ngôi tháp, gồm những ngôi mộ của những bậc danh tướng đương thời, ngoài ra còn có rất nhiều bia tháp, mộ phần khác nữa. Quần thể kiến trúc chùa gồm Sắc Sứ Môn (勅使門), Tam Môn (三門), Phật Điện (佛殿), Pháp Đường (法堂) và khá nhiều ngôi viện nhỏ như Dưỡng Đức Viện (養德院), Long Nguyên Viện (龍源院), Hoàng Mai Viện (黃梅院), Đại Từ Viện (大慈院), Thoại Phong Viện (瑞峰院), Hưng Lâm Viện (興臨院), Chánh Thọ Viện (正受院), Tam Huyền Viện (三玄院), Chân Châu Viện (眞珠院), Đại Tiên Viện (大仙院), Phương Xuân Viện (芳春院), Tụ Quang Viện (聚光院), Tổng Kiến Viện (總見院), Cao Đồng Viện (高桐院), Ngọc Lâm Viện (玉林院), Long Quang Viện (龍光院), Tùng Nguyên Viện (松源院), v.v. Hiện chùa còn lưu giữ khá nhiều bảo vật thuộc hạng quốc bảo cũng như tài sản văn hóa quan trọng như Đường Môn, Phương Trượng, đồ hình Quan Âm Vượn Hạc vẽ trên lụa với ngòi bút tài tình của họa sĩ Mục Khê (牧谿), tượng Đại Đăng Quốc Sư (大燈國師) màu trên lụa, v.v.
(大覺寺, Daikaku-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Đại Giác Tự (大覺寺派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiện tọa lạc tại Sagaōzawa-chō (嵯峨大澤町), Sakyō-ku (左京區), Kyoto-shi (京都市), còn được gọi là Tha Nga Ngự Sở (嵯峨御所), Đại Giác Tự Môn Tích (大覺寺門跡). Nguyên lai xưa kia chùa là Ly Cung của Tha Nga Thiên Hoàng (嵯峨天皇, Saga Tennō, tại vị 809-823), Không Hải Đại Sư điêu khắc tượng Ngũ Đại Minh Vương (五大明王) và kiến lập Ngũ Giác Viện (五覺院). Khi gặp bệnh dịch hoành hành, Đại Sư cho đọc tụng Bát Nhã Tâm Kinh do tự tay mình viết và nạp vào Tâm Kinh Đường (心經堂). Vào năm 876 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 18), thể theo lịnh chỉ của Hoàng Hậu Chánh Tử (正子), chùa được khai sáng và ban tặng cho Hoàng Tử thứ 2 là Thân Vương Hằng Tịch (恆寂, Kōjaku). Thân Vương an trí tượng A Di Đà, chỉnh trang cảnh quan chùa, và vào năm 878 (niên hiệu Nguyên Khánh [元慶] thứ 2), chùa được phép cho độ mỗi năm 2 người. Đến năm 918 (niên hiệu Diên Hỷ [延喜] thứ 18), Vũ Đa Thiên Hoàng (宇多天皇, Uda Tennō, tại vị 887-897) thọ trì hai bộ Quán Đảnh tại chùa này, và Khoan Không (寛空) làm vị Tổ đời thứ 2 của chùa. Trong khoảng thời gian niên hiệu Thiên Nguyên (天元, 978-983), chùa thuộc quyền quản lý của Nhất Thừa Viện (一乘院) của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji). Đến năm 1268 (niên hiệu văn vĩnh thứ 5), Hậu Tha Nga Thiên Hoàng (後嵯峨天皇, Gosaga Tennō, tại vị 1242-1246) đến tu tại đây, rồi sau đó Quy Sơn Thiên Hoàng (龜山天皇, Kameyama Tennō, tại vị 1259-1274) cũng đến nhập chúng. Vào năm 1307 (niên hiệu Đức Trị [德治] thứ 2), Hậu Vũ Đa Thiên Hoàng (後宇多天皇, Gouda Tennō, tại vị 1274-1287) tiến hành tổ chức Viện Chính tại Thọ Lượng Viện (壽量院), cho xây dựng phòng ốc và trở thành vị Tổ thời Trung Hưng của chùa. Đến năm 1336 (niên hiệu Kiến Võ thứ 3), chùa bị cháy toàn bộ. Năm 1392 (niên hiệu Nguyên Trung thứ 9), ngay tại chùa này, Hậu Quy Sơn Thiên Hoàng (後龜山天皇, Gokameyama Tennō, tại vị 1383-1392) nhường thần khí lại cho Hậu Tiểu Tùng Thiên Hoàng (後小松天皇, Gokomatsu Tennō, tại vị 1382-1412) và nơi đây trở thành vũ đài lịch sử đấu tranh. Đời đời chư vị Thân Vương đều làm trú trì ở đây, mặc dầu bị đốt cháy tan tành trong vụ Loạn Ứng Nhân (應仁), nơi đây vẫn trở thành ngôi chùa Môn Tích và rất hưng thịnh. Chính các dòng họ Phong Thần (豐臣, Toyotomi), Đức Xuyên (德川, Tokugawa) đã từng hộ trì đắc lực cho chùa, nhưng kể từ cuối thời Giang Hộ trở đi thì trở nên hoang phế. Dưới thời Minh Trị Duy Tân, có khi chẳng ai trú trì ở đây cả, rồi sau đó nhóm Nam Ngọc Đế (楠玉諦), Cao Tràng Long Sướng (高幢龍暢) đã tận lực phục hưng lại hiện trạng. Khách Điện (客殿) của chùa là kiến trúc thời Đào Sơn (桃山, Momoyama), trong đó có 13 bức tranh tùng và chim ưng. Thần Điện (宸殿) là kiến trúc cung điện đầu thời thời Giang Hộ, có 18 bức tranh hoa Mẫu Đơn, 8 bức Hồng Mai với bút tích của Thú Dã Sơn Lạc (狩野山樂, Kanō Sanraku, 1559-1635), do Hậu Thủy Vĩ Thiên Hoàng (後水尾天皇, Gomizunō Tennō, tại vị 1611-1629) hiến cúng. Trong Ngũ Đại Đường (五大堂) có an trí tượng Ngũ Đại Minh Vương thuộc cuối thời Bình An và một số tượng khác. Bảo vật của chùa có đồ hình Ngũ Đại Hư Không Tạng (五大虛空藏), Khổng Tước Kinh Âm Nghĩa (孔雀經音義), v.v.
(醍醐寺, Daigo-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Đề Hồ (醍醐派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiệu núi là Thâm Tuyết Sơn (深雪山), hiện tọa lạc tại Daigo (醍醐), Fushimi-ku (伏見區), Kyoto-shi (京都市). Theo truyền ký của chùa cho biết, Thánh Bảo (聖寶) là người khai sáng chùa vào năm 874 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 16). Ban đầu ông trú tại Tây Nam Viện của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), vùng đất chùa này là khoảng giữa của Thạch Sơn Tự (石山寺) và Đông Đại Tự. Ông điêu khắc hai bức tượng Chuẩn Đề và Quan Âm, rồi an trí trên núi. Người con gái của nhà hào tộc vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina) là Dận Tử (胤子) theo làm cung phi của Vũ Đa Thiên Hoàng (宇多天皇, Uda Tennō, tại vị 887-897) và hạ sanh Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō, tại vị 897-930). Hay đời sau Châu Tước Thiên Hoàng (朱雀天皇, Suzaku Tennō, tại vị 930-946) hạ sanh cũng nhờ cầu nguyện đức Chuẩn Đề. Với mối quan hệ dó, chùa được tầng lớp Hoàng Thất quy y theo. Vì thế, năm 904 (niên hiệu Diên Hỷ [延喜] thứ 4), Thích Ca Đường; rồi đến năm 907 thì Dược Sư Đường, Ngũ Đại Dường lần lượt được kiến lập, và đến năm 913 thì nơi đây trở thành chùa được cấp định ngạch của Hoàng triều. Vào năm 949 (niên hiệu Thiên Lịch [天曆] thứ 3), Pháp Hoa Tam Muội Đường được kiến lập dưới chân núi; đến năm 952, ngôi tháp 5 tầng hiện tồn được tạo dựng và coi như ngôi già lam được hoàn bị. Đối với các công trình kiến trúc này, hệ thống của Đề Hồ Thiên Hoàng đã có nỗ lực rất lớn; nhưng đến khi dòng họ Đằng Nguyên (藤原, Fujiwara) nắm chính quyền thì sự ngoại hộ từ phía Hoàng Thất trở nên thưa thớt dần, song đến thời Viện Chính thì chùa lại được phục hưng nhờ vị Tọa Chủ xuất thân dòng họ Nguyên (源, Minamoto). Tức là các vị Tọa Chủ đời thứ 13 là Giác Nguyên (覺源, con thứ 4 của Hoa Sơn Thiên Hoàng [花山天皇, Kazan Tennō, tại vị 984-986]), đời thứ 14 là Định Hiền (定賢, con của Nguyên Long Quốc [源隆國]), đời thứ 15 là Thắng Giác (勝覺) cũng như đời thứ 18 là Thật Vận (實運, con của Nguyên Tuấn Phòng [源俊房]), đời thứ 16 là Định Hải (定海, con của Nguyên Hiển Phòng Tử [源顯房子]), đời thứ 17 là Nguyên Hải (元海, con của Nguyên Nhã Tuấn [源雅俊]), v.v. Thêm vào đó, nhờ có các danh tăng xuất hiện nên mọi người đều quy ngưỡng về chùa này. Vốn là con cháu đích truyền của Dòng Tiểu Dã (小野流), là trung tâm nghiên cứu dòng pháp, hiện tại Đề Hồ Tự vẫn bảo quản khá nhiều sách khẩu truyền, nghiên cứu, đặc biệt là các đồ hình, tượng, v.v. Vào năm 1115 (niên hiệu Vĩnh Cửu [永久] thứ 3), tiếp theo việc kiến lập Tam Bảo Viện của Thắng Giác, Kim Cang Vương Viện của Thánh Hiền (聖賢), Lý Tánh Viện của Hiền Giác (賢覺), Vô Lượng Thọ Viện của Nguyên Hải, Báo Ân Viện của Thành Hiền (成賢), Địa Tạng Viện của Đạo Giáo (道敎) lần lượt xuất hiện, hình thành nên 6 dòng phái Đề Hồ. Về mặt chính trị, dưới thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) thì không có can hệ gì, chùa trở thành trung tâm nghiên cứu sự tướng, đồ tượng cho các tông phái. Về sau, chùa bị cháy hơn phân nữa trong vụ Loạn Ứng Nhân (應仁). Đến thời Nghĩa Diễn (義演) làm Tọa Chủ nơi đây, nhờ sự hỗ trợ của dòng họ Phong Thần (豐臣, Toyotomi), ông tiến hành phục hưng chùa. Đến thời đại Giang Hộ (江戸, Edo), nhờ sự bảo hộ phái Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông (新義眞言宗), nên chùa không bị dao động gì cả. Chùa hiện tồn rất nhiều quần thể kiến trúc cũng như bảo vật có giá trị cấp quốc bảo như Dược Sư Đường, Khai Sơn Đường, Như Ý Luân Đường, Kim Đường, 5 bức Ngũ Đại Tôn Tượng, Diêm Ma Thiên Tượng, Đại Nhật Kim Luân, A Di Đà Tam Tôn, v.v.
(妙心寺, Myōshin-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Diệu Tâm Tự thuộc Lâm Tế Tông, hiệu là Chánh Pháp Sơn (正法山), hiện tọa lạc tại Hanazonomyōshinji-chō (花園妙心寺町), Sakyō-ku (左京區), Tokyo-shi (東京市). Tượng thờ chính là Thích Ca Như Lai. Vào năm 1342 (Lịch Ứng [曆應] 5), Hoa Viên Thượng Hoàng (花園上皇) đến tham Thiền với Đại Đăng Quốc Sư (大燈國師, tức Tông Phong Diệu Siêu [宗峰妙超]), Tổ khai sơn Đại Đức Tự (大德寺, Daitoku-ji), rồi lấy Ly Cung của mình mà xây dựng nên ngồi Thiền tự này. Đây chính là nguồn gốc của ngôi chùa này, và người khai sơn là Quan Sơn Huệ Huyền (關山慧玄), cao đệ của Đại Đăng Quốc Sư. Đại Sư Quan Sơn Vô Tướng là người đúng như tên gọi, không chấp trước vào ngôn từ chữ nghĩa, cũng chẳng để lại ngữ lục gì cả, không tu tạo đường vũ già lam, mà chỉ chuyên tào tạo nhân tài, và đã tạo thành cơ sở phát triển cho Lâm Tế Tông hiện tại. Trong vụ Loạn Ứng Nhân (應仁の亂), chùa bị đốt cháy tan tành, nhưng rồi lại được vị Tổ đời thứ 6 của chùa là Tuyết Giang Tông Thâm (雪江宗深) tái kiến lại. Bốn vị đệ tử nổi tiếng của Tuyết Giang là Cảnh Giang (景江), Ngộ Khê (悟溪), Đặc Phương (特芳), Đông Dương (東陽), mỗi người lập thành một phái khác, thành 4 phái là Long Tuyền (龍泉), Đông Hải (東海), Linh Vân (靈雲) và Thánh Trạch (聖澤). Từ đó, họ mở rộng phái của mình đi khắp toàn quốc. Đến năm 1509 (Vĩnh Chánh [永正] 6), nhờ sự ngoại hộ của vị Ni Lợi Trinh (利貞), phu nhân của Tề Đằng Lợi Quốc (齊藤利國) ở Mỹ Nùng (美濃, Mino), nên khuôn viên chùa được mở rộng trên phạm vị rộng lớn. Hiện chùa có đến 57 ngôi viện, tất cả đều là nơi cầu nguyện của hai dòng họ Phong Thần (豐臣, Toyotomi) và Đức Xuyên (德川, Tokugawa) xưa kia, chùa trực thuộc có đến 3.500 ngôi, khoảng 10.000 vị tăng. Sắc Sứ Môn, Sơn Môn, Đại Phương Trượng, Nhà Kho, Khai Sơn Đường, đều là những kiến trúc được xếp vào hạng tài sản văn hóa quan trọng của nhà nước. Nổi tiếng nhất là đại hồng chung, được xem như là tối cổ và được xếp vào hạng quốc bảo. Ngoài ra còn có 2 bức thủ bút của Đại Đăng Quốc Sư, rồi trên trần nhà của Pháp Đường có bức tranh hoành tráng, nổi tiếng của nhà danh họa Thú Dã Thám U (狩野探幽).
(興福寺, Kōfuku-ji): ngôi đại bản sơn của Pháp Tướng Tông, tọa lạc tại Noboriōji-chō (登大路町), Nara-shi (奈良市), Nara-ken (奈良縣). Nguồn gốc của chùa là ngôi Sơn Giai Tự (山階寺, Yamashina-dera) do Đằng Nguyên Liêm Túc (藤原鎌足, Fujiwara-no-Kamatari) xây cho vợ mình là Kính Vương Nữ (鏡王女, Kagami-no-Ōkimi) vào năm thứ 8 (669) đời Thiên Trí Thiên Hoàng (天智天皇, Tenji Tennō); sau đó chùa được dời về vùng Phi Điểu (飛鳥, Asuka) và lấy tên là Cứu Phản Tự (厩坂寺, Umayasaka-dera). Sau khi kinh đô được dời về vùng Bình Thành (平城, Heizei), chùa được chuyển về vị trí hiện tại, trở thành ngôi chùa của dòng họ Đằng Nguyên và lấy tên là Hưng Phước Tự. Các kiến trúc như Trung Kim Đường (中金堂), Bắc Viên Đường (北圓堂), Đông Kim Đường (東金堂), Ngũ Trùng Tháp (五重塔), Tây Kim Tháp (西金塔), Nam Viên Đường (南圓堂), v.v., lần lần được xây dựng. Rất nhiều tác phẩm thuộc dạng điêu khắc thời Thiên Bình (天平) vẫn còn lưu lại cho đến ngày nay như tượng Thập Đại Đệ Tử, Bát Bộ Chúng, do Quang Minh Hoàng Hậu (光明皇后, Kōmyō Kōgō) phát nguyện cúng dường để cầu nguyện cho mẹ Quất Tam Thiên Đại (橘三千大) được siêu độ, được an trí tại Tây Kim Đường (西金堂). Đến thời đại Bình An, cùng với sự vinh quang của dòng họ Đằng Nguyên, chùa cũng trở nên hưng thịnh và được xếp vào một trong 7 ngôi chùa nổi tiếng vùng Nam Đô với nhiều trang viên tuyệt mỹ. Chùa đã kết hợp tư tưởng Thần Phật Tập Hợp để trở thành nhất thể với đền thờ Xuân Nhật Thần Xã (春日神社, Kasuga-jinja). Dưới thời đại Viện Chính (院政, Insei), thỉnh thoảng có xảy ra vài trận hỏa hoạn; đặc biệt trận phóng hỏa của Bình Trọng Hành (平重衡, Taira-no-Shigehira) vào năm thứ 4 (1180) niên hiệu Trị Thừa (治承) đã là cho ngôi già lam bị cháy rụi và phải mất 30 năm sau mới có thể tái thiết được. Trong lần này, các tượng Bất Không Quyên Sách Quan Âm (不空羂索觀音), Tứ Thiên Vương (四天王), v.v., do nhóm môn hạ của Khang Khánh (康慶, Kōkei), và tượng Di Lặc Phật (彌勒佛), Vô Trước (無著), Thế Thân (世親), v.v., do nhóm môn hạ của Vận Khánh (運慶, Unkei) làm nên. Đến thời đại Liêm Thương, chùa được ủy nhiệm chức Thủ Hộ tiểu quốc Đại Hòa (大和, Yamato) nên đã xác lập được quyền thống trị cả một tiểu quốc. Từ cuối thời Liêm Thương trở đi, chùa tự lập hóa với lực lượng tăng binh. Sau vụ Loạn Ứng Nhân (應仁の亂, Ōnin-no-ran), uy thế của chùa dần dần suy yếu; nhưng đến thời Giang Hộ lại được ban cho đất đại khá nhiều. Đến thời Minh Trị Duy Tân, chùa công kích bởi làn song Phế Phật Hủy Thích; tuy nhiên sau đó thì từ từ hồi phục lại. Trong số các thư tịch ghi lại nguồn gốc của chùa, bản Hưng Phước Tự Duyên Khởi (興福寺緣起) là tối cổ, do Đằng Nguyên Lương Thế (藤原良世) viết vào năm thứ 3 (900) niên hiệu Xương Thái (昌泰), có ghi lại sự việc kiến lập các ngôi đường tháp, tạo dựng tượng Phật, xuất xứ những pháp hội, v.v.
(曼荼羅寺, Mandara-ji): còn gọi là Tùy Tâm Viện (隨心院), Ngưu Bì Sơn Mạn Trà La Tự (牛皮山曼荼羅寺), Tùy Tâm Viện Môn Tích (隨心院門跡), Tiểu Dã Môn Tích (小野門跡); ngôi chùa trung tâm của Phái Thiện Thông Tự (通善寺派) thuộc Chơn Ngôn Tông; hiện tọa lạc tại Onogorei-chō (小野御靈町), Yamashina-ku (山科區), Kyoto-shi (京都市), nơi hành hương thứ 72 trong số 88 ngôi danh lam ở vùng Tứ Quốc (四國, Shikoku). Chùa do Không Hải Đại Sư sáng lập, xuất phát từ nhân duyên Đại Sư nằm mộng thấy mẹ mình sành làm thân con trâu, bèn đến thăm và đem con trâu ấy về nuôi. Khi trâu chết, Đại Sư lấy da trâu vẽ đồ hình Mạn Trà La dâng cúng. Đây là nơi xuất phát của Dòng Tiểu Dã (小野流). Sau này Tăng Tuấn (僧俊) lại phân phái thành Dòng Tùy Tâm Viện (隨心院流). Trong vụ Loạn Ứng Nhân (應仁), chùa bị hoang phế, rồi Tăng Hiếu (僧孝) tiến hành phục hưng chùa, và nhóm Thiên Chơn Viện (天眞院) tạo dựng các ngôi đường tháp. Bảo vật của chùa có đồ hình Mạn Trà La thêu bằng chỉ ngũ sắc, tượng gỗ A Di Đà Như Lai ngồi, v.v.
(二尊院, Nison-in); ngôi chùa của Thiên Thai Tông, hiện tọa lạc ở Saganisonin (嵯峨二尊院), Sakyō-ku (右京區), Kyōto-to (京都市), Kyōto-fu (京都府), hiệu là Tiểu Thương Sơn Nhị Tôn Giáo Viện Hoa Đài Tự (小倉山二尊敎院華台寺), là nơi linh nghiệm thứ 17 của Viên Quang Đại Sư (圓光大師, tức Pháp Nhiên), và là nơi kiêm tu học cả bốn Tông Thiên Thai, Luật, Pháp Tướng và Tịnh Độ; hiệu núi là Tiểu Thương Sơn (小倉山). Tượng thờ chính của chùa là Thích Ca Như Lai và A Di Đà Như Lai. Tên gọi Nhị Tôn Viện là vốn xuất phát từ khi Từ Giác Đại Sư Viên Nhân (慈覺大師圓仁) phụng sắc mệnh của Tha Nga Thiên Hoàng (嵯峨天皇, Saga Tennō) kiến lập chùa, rồi an trí hai pho tượng Thích Ca và Di Đà. Pháp Nhiên (法然, Hōnen), vị Tổ khai sáng ra Tịnh Độ Tông, rất thích khung cảnh nhàn tịch thanh vắng của chùa, nên mới đến đây mà sống nhàn cư; từ đó chùa trở nên hưng thạnh lên. Sau vụ Loạn Ứng Nhân (應仁), chùa bị suy thối; nhưng lại được tái kiến vào khoảng niên hiệu Hưởng Lộc (享祿, 1528-1532), và duy trì cho đến ngày nay. Trong khuôn viên chùa có nhiều ngôi mộ dòng họ của hàng công gia như Nhị Điều (二條, Nijō), Tam Điều (三條, Sanjō), Tứ Điều (四條, Shijō), Tam Điều Tây (三條西, Sanjōnishi), Ưng Ty (鷹司, Takatsukasa). Hơn nữa, còn có mộ phần của các nhân vật nổi tiếng đương thời như cha con Y Đằng Nhân Trai (伊藤仁齋, Itō Jinsai, 1627-1705) và Y Đằng Đông Nhai (伊藤東涯, Itō Tōgai, 1670-1736); của cha con Giác Thương Liễu Dĩ (角倉了以, Suminokura Ryōi, 1554-1614) và Giác Thương Tố Am (角倉素庵, Suminokura Soan, 1571-1632), v.v.
(妙心寺派, Myōshinji-ha): tên gọi của một tông phái trong 14 phái của Lâm Tế Tông vốn lấy Chánh Pháp Sơn Diệu Tâm Tự (正法山妙心寺) làm ngôi chùa trung tâm. Theo sắc nguyện của Hoa Viên Thượng Hoàng (花園上皇), ngôi chùa này được xây dựng trên nền tòa Ly Cung của Thượng Hoàng, và Quan Sơn Huệ Huyền (關山慧玄), pháp hệ của Đại Đăng Quốc Sư (大燈國師), là vị Tổ khai sơn chùa cũng như Tổ của dòng phái này. Thời kỳ khai sáng của chùa này cũng chưa rõ lắm, nhưng được xem như là trước năm 1342. Trong vụ Loạn Ứng Nhân, Diệu Tâm Tự bị cháy tan tành, sau được Tuyết Giang Tông Thâm (雪江宗深) phục hưng lại, và nhờ có sự quy sùng của mấy vị Võ Tướng thời Chiến Quốc mà 4 người đệ tử thuộc pháp từ của ông mới có thể phát triển phái mình về các địa phương. Đến khoảng thời đại An Thổ Đào Sơn, từ phái này xuất hiện Bạch Ẩn Huệ Hạc (白隱慧鶴), và chính vị này đã làm cho Tông phong của mình phát triển cực độ. Từ đó, trong Lâm Tế Tông, hết thảy đều bị dòng pháp hệ của Bạch Ẩn chiếm lãnh cả. Đến năm 1872, trải qua sự hợp nhất của 3 phái trong Lâm Tế Tông, rồi sau đó đến 9 phái phân lập, khi ấy Diệu Tâm Tự độc lập thành một phái riêng, và đến năm 1952 thì được chính thức công nhận là một tông phái rõ ràng. Hiện phái này là phái lớn nhất của Lâm Tế Tông, trên toàn quốc có đến hơn 3400 ngôi chùa con trực thuộc, chia thành 27 giáo khu, và có luôn cả trường Đại Học Hoa Viên (花園大學, Hanazono Daigaku).
(山名宗全, Yamana Sōzen, 1404-1473): vị Võ Tướng sống vào khoảng giữa thời đại Thất Đinh; húy là Trì Phong (持豐); Tông Toàn (宗全) là tên sau khi xuất gia; biệt danh là Tiểu Thứ Lang (小次郎), Tông Toàn Nhập Đạo (宗全入道), Xích Nhập Đạo (赤入道); giới danh là Đạt Ma Viện Điện Tối Cao Tông Phong Đại Cư Sĩ (達碧院殿最高宗峰大居士); thân phụ là Sơn Danh Thời Hy (山名時煕, Yamana Tokihiro), thân mẫu là con gái của Võ Tướng Sơn Danh Sư Nghĩa (山名師義, Yamana Moroyoshi). Trong vụ Loạn Gia Cát ông được Xích Từng Mãn Hựu (赤松滿祐, Akamatsu Mitsusuke) mến mộ, cả gia tộc đến giữ chức quan Thủ Hộ của 8 tiểu quốc. Sau đó ông kết thân với Tế Xuyên Thắng Nguyên (細川勝元, Hosokawa Katsumoto), rồi nhân việc người vợ của Tướng Quân Túc Lợi Nghĩa Chính (足利義政, Ashikaga Yoshimasa) là Nhật Dã Phú Tử (日野富子, Hino Tomiko) tín nhiệm người con là Túc Lợi Nghĩa Thượng (足利義尚, Ashikaga Yoshihisa), ông sinh ra đối kháng với Tế Xuyên Thắng Nguyên và tạo nên vụ Loạn Ứng Nhân (應仁の亂). Trong khi chiến loạn thì ông chết giữa trận mạc.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập