Điều bất hạnh nhất đối với một con người không phải là khi không có trong tay tiền bạc, của cải, mà chính là khi cảm thấy mình không có ai để yêu thương.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Tôi chưa bao giờ học hỏi được gì từ một người luôn đồng ý với tôi. (I never learned from a man who agreed with me. )Dudley Field Malone
Ngu dốt không đáng xấu hổ bằng kẻ không chịu học. (Being ignorant is not so much a shame, as being unwilling to learn.)Benjamin Franklin
Trời không giúp những ai không tự giúp mình. (Heaven never helps the man who will not act. )Sophocles
Những người hay khuyên dạy, ngăn người khác làm ác, được người hiền kính yêu, bị kẻ ác không thích.Kinh Pháp cú (Kệ số 77)
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Đừng cư xử với người khác tương ứng với sự xấu xa của họ, mà hãy cư xử tương ứng với sự tốt đẹp của bạn. (Don't treat people as bad as they are, treat them as good as you are.)Khuyết danh
Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Phán đoán chính xác có được từ kinh nghiệm, nhưng kinh nghiệm thường có được từ phán đoán sai lầm. (Good judgment comes from experience, and often experience comes from bad judgment. )Rita Mae Brown
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Linh nguyên »»
(九壘): Đạo Giáo chia thế giới dưới lòng đất (thế giới u minh, hay Địa Ngục) làm 9 tầng, gọi là Cửu Lũy; trong đó mỗi Lũy có 4 tầng, cọng thành 36 tầng, mỗi Lũy đều có 1 vị Thổ Hoàng (土皇) cai quản. Theo Động Huyền Linh Bảo Hà Đồ Ngưỡng Tạ Tam Thập Lục Thổ Hoàng Trai Nghi (洞玄靈寶河圖仰謝三十六土皇齋儀), tên gọi Cửu Lũy gồm:
(1) Sắc Nhuận Địa (色潤地) có vị Thổ Hoàng thứ nhất họ Tần (秦), húy là Hiếu Cảnh Thung (孝景椿); vị thứ 2 họ Hoàng (黃), Húy Xương Thượng Văn (昌上文); vị thứ 3 họ Thanh (青), húy Huyền Văn Cơ (玄文基); vị thứ 4 họ Phỉ (蜚), húy là Trung Trận Hoàng (忠陣皇).
(2) Cang Sắc Địa (剛色地) có vị Thổ Hoàng thứ 5 họ Thú (戍), húy là Thần Văn Quang (神文光); vị thứ 6 họ Úc (郁), húy là Hoàng Mẫu Sanh (黃母生); vị thứ 7 họ Huyền (玄), húy là Càn Đức Duy (乾德維); vị thứ 8 họ Trường (長), húy là Hoàng Minh (皇明).
(3) Thạch Lạp Sắc Trạch Địa (石臘色澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 9 họ Trương (張), húy là Duy Thần (維神); vị thứ 10 họ Châu (周), húy là Bá Thượng Nhân (伯上人); vị thứ 11 họ Chu (朱), húy là Minh Xa Tử (明車子); vị thứ 12 họ Canh (庚), húy là Văn Kính Sĩ (文敬士).
(4) Nhuận Trạch Địa (潤澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 13 họ Cổ (賈), húy là Vân Tử Cao (雲子高); vị thứ 14 họ Tạ (謝), húy là Bá Vô Nguyên (伯無元); vị thứ 15 họ Kỷ (己), húy là Văn Thái Trận (文泰陣); vị thứ 16 họ Hành (行), húy là Cơ Chánh Phương (機正方).
(5) Kim Túc Trạch Địa (金粟澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 17 họ Hoa (華), húy là Diên Kỳ Minh (延期明); vị thứ 18 họ Hoàng (黃), húy là Linh Ngã Dung (齡我容); vị thứ 19 họ Vân (雲), húy là Thám Vô Uyên (探無淵); vị thứ 20 họ Tương (蔣), húy là Thông Bát Quang (通八光).
(6) Kim Cang Thiết Trạch Địa (金剛鐵澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 21 họ Lý (李), húy là Thượng Thiếu Quân (上少君); vị thứ 22 họ Phạm (范), húy là Lai Lực An (來力安); vị thứ 23 họ Trương (張), húy là Quý Quý Nguyên (李季元); vị thứ 24 họ Vương (王), húy là Tứ Nữ Dung (駟女容).
(7) Thủy Chế Trạch Địa (水制澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 25 họ Đường (唐), húy là Sơ Sanh Ánh (初生映); vị thứ 26 họ Ngô (吳), húy là Chánh Pháp Đồ (正法圖); vị thứ 27 họ Hán (漢), húy là Cao Văn Triệt (高文徹); vị thứ 28 họ Kinh (京), húy là Trọng Long Thủ (仲龍首).
(8) Đại Phong Trạch Địa (大風澤地) có vị Thổ Hoàng thứ 29 họ Cát (葛), húy là Huyền Thăng Quang (玄升光); vị thứ 30 họ Hoa (華), húy là Mậu Vân Trường (茂雲長); vị thứ 31 họ Dương (羊), húy là Chơn Động Huyền (眞洞玄); vị thứ 32 họ Châu (周), húy là Thượng Kính Nguyên (尚敬原).
(9) Động Uyên Vô Sắc Cang Duy Địa (洞淵無色剛維地) có vị Thổ Hoàng thứ 33 họ Cực (極), húy là Vô Thượng Huyền (無上玄); vị thứ 34 họ Thăng (升), húy là Linh nguyên Hạo (靈元浩); vị thứ 35 họ Triệu (趙), húy là Thượng Bá Huyền (上伯玄); vị thứ 36 họ Nông (農), húy là Lặc Vô Bá (勒無伯).
Trong tác phẩm Vô Thượng Hoàng Lục Đại Trai Lập Thành Nghi (無上黃籙大齋立成儀) do Tương Thúc Dư (蔣叔輿) nhà Nam Tống biên soạn có thêm vào hai chữ Hậu Thổ (后土) trước mỗi danh hiệu của các vị Thổ Hoàng để cho biết rằng đạo giáo dưới thời kỳ này xem Thổ Hoàng là những vị thần linh thuộc hạ của Hậu Thổ. Tại điện thờ Tứ Ngự đều có an trí thần tượng hay thần vị của 36 vị Thổ Hoàng này. Trong các trai đàn cúng tế lớn đều có dâng cúng 36 vị Thiên Đế cũng như 36 vị Thổ Hoàng.
(黃龍派, Ōryū-ha): một phái trong Ngũ Gia Thất Tông của Thiền Trung Quốc. Đến giữa thời Bắc Tống, trong Lâm Tế Tông của Trung Quốc có xuất hiện hai nhân vật kiệt xuất thuộc môn hạ của Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓) là Hoàng Long Huệ Nam (黃龍慧南) và Dương Kì Phương Hội (楊岐方會) từ đó làm cho Tông này hưng thạnh lên. Vào năm thứ 3 (1036) niên hiệu Cảnh Hựu (景祐), Huệ Nam đến trú tại Hoàng Long Sơn (黃龍山) thuộc Phủ Long Hưng (隆興府, Tỉnh Giang Tây ngày nay), nỗ lực làm cho Thiền phong hưng hiển, rồi dần dần môn hạ của ông có những nhân vật nổi danh ra đời như Chơn Tịnh Khắc Văn (眞淨克文), Đông Lâm Thường Thông (東林常聰), Hối Đường Tổ Tâm (晦堂祖心), v.v.; ông mở rộng giao tiếp với tầng lớp văn nhân sĩ phu đương thời, lập thành một phái riêng biệt lấy Tỉnh Triết Giang làm trung tâm hoạt động truyền bá, và dần dần được gọi là Hoàng Long Phái. Chính những người trong Hoàng Long Phái này đã cống hiến rất lớn trong việc thành lập Đại Tạng Kinh bản đời Tống. Sau đó, môn hạ của Chơn Tịnh Khắc Văn còn có Đâu Suất Tùng Duyệt (兜率從悅), Lặc Đàm Văn Chuẩn (泐潭文準), Huệ Nhật Văn Nhã (慧日文雅), v.v. Còn đệ tử của Hối Đường Tổ Tâm thì có Tử Tâm Ngộ Tân (死心悟新), Linh nguyên Duy Thanh (靈源惟清), Lặc Đàm Thiện Thanh (泐潭善清), v.v. Vinh Tây của Nhật Bản sang Tống cầu pháp, đến tham yết Hư Am Hoài Sưởng (虛庵懷敞), kế thừa dòng pháp của vị này, và lần đầu tiên truyền thừa dòng Thiền của Hoàng Long Phái sang Nhật Bản. Tông Lâm Tế thì hưng thạnh một cách áp đảo ở vùng Nam Tống, còn Hoàng Long Phái thì dần dần đi đến suy thối.
(勸修寺, Kanjū-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Sơn Giai (山階派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiện tọa lạc tại Yamashinakanjujininōdō-chō (山科勸修寺仁王堂), Higashiyama-ku (東山區), Kyoto-shi (京都市). Căn cứ vào một số sử liệu như Khuyến Tu Tự Duyên Khởi (勸修寺緣起), thể theo bản nguyện của thân mẫu Đằng Nguyên Dận Tử (藤原胤子, Fujiwara-no-Inshi) và để cầu nguyện cho bà được siêu độ, vào năm 900 (niên hiệu Xương Thái [昌泰] thứ 3), Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō, tại vị 897-930) đã biến tư gia của Cung Đạo Di Ích (宮道彌益, Miyajii Yamasu) bên ngoại tộc thành ngôi già lam, và cung thỉnh Thừa Tuấn (承俊, Shōshun) làm Tổ khai sơn chùa. Vào năm 905 (niên hiệu Diên Hỷ [延喜] thứ 5), nơi đây trở thành chùa cấp định ngạch của triều đình, được phép độ tăng chúng hằng năm và trở thành đạo tràng của Chơn Ngôn cũng như Tam Luận. Đến năm 918 (năm thứ 18 cùng niên hiệu trên), từ khi Tế Cao (濟高) được bổ nhiệm về đây làm Trưởng Lại (長吏) đầu tiên, chùa trở nên cực thịnh. Chùa được sự bảo hộ hùng mạnh của Hoàng Thất, bao đời các bậc cự tượng lỗi lạc xuất hiện, từ đó vận của chùa ngày càng đi lên. Sau đó, vị Tổ đời thứ 7 của chùa là Giác Tín (覺信) lấy chùa làm cứ địa để khai sáng Dòng Khuyến Tu Tự (勸修寺流). Kể từ khi vị Hoàng Tử thứ 7 của Hậu Phục Kiến Thiên Hoàng (後伏見天皇, Gofushimi Tennō, tại vị 1298-1301) là Khoan Dận Thân Vương (寛胤親王) đến đây xuất gia, đời đời các vị Thân Vương đều được bổ nhiệm là Trưởng Lại ở đây, cứ như vậy kéo dào cho đến thời Minh Trị Duy Tân. Đến năm 1470 (niên hiệu Văn Minh [文明] thứ 2), chùa bị binh hỏa cháy tan tành, rồi được phục hưng như cũ; nhưng do vì không tuân mệnh của Tướng Quân Phong Thần Tú Cát (豐臣秀吉, Toyotomi Hideyoshi), lãnh địa của chùa bị tịch thâu. Đến khi công trình xây dựng Thành Phục Kiến (伏見城, Fushimi-jō) thực hiện, trong khuôn viên chùa có đường thông ngang qua, các ngôi nhà bị dời đi nơi khác. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian niên hiệu Khoan Vĩnh (寛永), chùa được phục hưng lại. Đặc biệt, vào năm 1682 (niên hiệu Thiên Hòa [天和] thứ 2), Hoàng Tử thứ nhất của Linh nguyên Thiên Hoàng (靈元天皇, Reigen Tennō, tại vị 1663-1687) là Tế Thâm Thân Vương (濟深親王) đến làm trú trì đời thứ 29 của chùa, vận chùa lại phát triển mạnh. Chùa hiện vẫn còn lưu giữ một số bảo vật như bức tranh thêu đồ hình Thích Ca Thuyết Pháp (tác phẩm thời nhà Đường), 3 bức Nhân Vương Kinh Lương Phần Sớ (仁王經良賁疏) tương truyền do tự tay Không Hải (空海, Kūkai) viết, v.v.
(靈文): có 2 nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho kinh văn của tôn giáo. Như tác phẩm Nghệ Văn Loại Tụ (藝文類聚) quyển 77 có dẫn bài Nam Cung Thượng Quật Đắc Từ Giác Tự Chung Khải (東宮上掘得慈覺寺鍾啟) của Giản Văn Đế (簡文帝, tại vị 549-551) nhà Lương thời Nam Triều, trong đó có câu: “Khải di chung ư thù lí, ký linh văn ư phước địa (啟彝鐘於殊裡、記靈文於福地, mở chuông thiêng nơi sâu thẳm, ghi linh văn chốn đất phước).” (2) Chỉ cho những thư tịch hay văn tự trân quý nhưng hiếm có được truyền lại từ thời xa xưa. Như trong bài Kỷ Hợi Tạp Thi (己亥雜詩) của Củng Tự Trân (龔自珍, 1792-1841) nhà Thanh có đoạn: “Cổ nhân chế tự quỷ dạ khấp, hậu nhân thức tự bách ưu tập, ngã bất úy quỷ phục bất ưu, linh văn dạ bổ thu đăng bích (古人製字鬼夜泣、後人識字百憂集、我不畏鬼復不憂、靈文夜補秋燈碧, người xưa chế chữ quỷ đêm khóc, người sau biết chữ ưu buồn chất, ta chẳng sợ quỷ lại chẳng buồn, linh văn đêm thu đèn sáng tỏ).” Trong Đại Thừa Chỉ Quán Pháp Môn Thích Yếu (大乘止觀法門釋要, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 55, No. 905) có câu: “Mục bất đỗ Tam Tạng chi linh văn, nhã bất văn Ngũ Tông chi huyền chỉ (目不睹三藏之靈文、耳不聞五宗之玄旨, mắt chẳng thấy Ba Tạng ấy linh văn, tai không nghe Năm Tông ấy huyền chỉ).” Hay trong Nam Thạch Văn Tú Thiền Sư Ngữ Lục (南石文琇禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1422) quyển 4, bài Ký Linh nguyên Giảng Chủ (寄靈源講主), lại có đoạn: “Lão lai vạn sự dĩ đô vong, nhật nguyệt thăng trầm nhất nhậm mang, khiết phạn trước y tùy phận quá, liễu vô tâm niệm tưởng Tây phương, thất trục linh văn nhất triện yên, nhàn phòng tiêu tận thế gian duyên, dạ thâm đăng ám thử trùng xuất, phiên lạc trà phiêu ngọa sáp tiền (老來萬事已都忘、日月昇沉一任忙、喫飯著衣隨分過、了無心念想西方、七軸靈文一篆煙、閑房消盡世間緣、夜深燈暗鼠虫出、翻落茶瓢臥榻前, già đến muôn điều thảy hết quên, ngày tháng thăng trầm bận liên miên, mặc áo ăn cơm theo bổn phận, ngộ vô tâm niệm nhớ Tây phương, bảy cuộn linh văn khói tỏa trên, trong phòng rũ sạch thế gian duyên, đêm về đèn tối chuột sâu hiện, một chén trà thơm trước giường Thiền).”
(一糸文守, Isshi Bunshu, 1608-1646): vị tăng của Lâm Tế Tông Nhật Bản, xuất thân gia đình Cửu Ngã (久我) ở kinh đô Kyoto, tự là Nhất Ty (一糸). Năm lên 14 tuổi, ông đến tham học với Tuyết Sầm Kim (雪岑崟) ở Tướng Quốc Tự (相國寺, Sōkoku-ji), sau đến tham bái Trạch Am Tông Bành (澤庵宗彭). Vào năm thứ 3 (1626) niên hiệu Khoan Vĩnh (寬永), ông theo xuất gia với Luật Sư Hiền Hậu (賢後) trên kinh đô, rồi lại đến tham vấn Trạch Am lần thứ hai. Về sau, ông theo học với Ngu Đường Đông Thật (愚堂東寔), Tuyết Cư Hy Ưng (雪居希膺) và cuối cùng kế thừa dòng pháp của Ngu Đường (có thuyết cho rằng ông kế thừa dòng pháp của Không Tử Nguyên Phổ [空子元普] ở Vĩnh Nguyên Tự [永源寺]). Hậu Thủy Vĩ Thượng Hoàng (後水尾上皇) quy y theo ông, ông được vị này rất tín nhiệm, cho nên vào năm thứ 15 (1638) niên hiệu Khoan Vĩnh, ông cho xây dựng ở vùng Hạ Mậu (賀茂) ngôi Linh nguyên Viện (靈源院), rồi ba năm sau thì cho xây dựng thêm ngôi Đại Mai Sơn Pháp Thường Tự (大梅山法常寺) ở vùng Đơn Ba (丹波, Tamba, thuộc kinh đô Kyoto); nhưng hai năm sau thì ông lại đến trú ở Vĩnh Nguyên Tự (永源寺, Eigen-ji) vùng Cận Giang (近江, Ōmi, thuộc Shiga-ken [滋賀縣]). Ông thị tịch vào ngày 19 tháng 3 năm thứ 3 niên hiệu Chánh Bảo (正保), hưởng thọ 39 tuổi đời và 20 hạ lạp. Đến năm 1678, ông được ban tặng hiệu Định Tuệ Minh Quang Phật Đảnh Quốc Sư (定慧明光佛頂國師). Dòng pháp từ của ông có Thạch Đỉnh Văn Ngoan (石鼎文頑), Như Tuyết Văn Nham (如雪文巖), Trí Minh Tịnh Nhân (智明淨因), v.v. Ông có lưu lại khá nhiều thư tịch như Đại Mai Nhất Ty Hòa Thượng Ngữ Lục (大梅一糸和尚語錄) 5 quyển, Phật Đảnh Quốc Sư Nhất Ty Hòa Thượng Ngữ Lục (佛頂國師一糸和尚語錄) 5 quyển, Nhất Ty Hòa Thượng Thi Kệ (一糸和尚詩偈) 1 quyển, Nhất Ty Hòa Thượng Pháp Ngữ (一糸和尚法語), Đại Mai Sơn Dạ Thoại (大梅山夜話), v.v.
(法名): tên gọi do người Phật tử thọ trì sau khi quy y Phật Giáo, còn gọi là Pháp Hiệu (法號), Pháp Húy (法諱), Giới Danh (戒名). Đối với tăng lữ, đây là tên gọi do vị thầy ban cho sau khi cử hành lễ xuất gia. Đối với người Phật tử tại gia, đây là tên gọi được ban cho sau khi quy y, thọ giới, hay khi tiến hành tang lễ. Pháp Danh còn là biểu tượng thiêng liêng đánh dấu bước thay đổi cuộc sống tâm linh của người Phật tử khi thật sự bước chân vào Đạo. Đối với thế tục, khi con người mới sinh ra được cha mẹ đặt cho cái tên, đó là Tục Danh (俗名); khi vị ấy chuyển hóa tâm thức, quyết định quy y theo Phật Giáo, có nghĩa là được sanh ra lần thứ hai; tên gọi lúc này là Pháp Danh. Nó thể hiện việc xuất gia hay quy y trở thành đệ tử của đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Śākyamuni, p: Sakyamuni,釋迦牟尼); cho nên đối với người xuất gia, thường có chữ “Thích (釋)” đi theo với Pháp Danh như Thích Từ Thiện (釋慈善), v.v. Về phía Phật tử tại gia, do có khác nhau về giới tính, tuổi tác; vì vậy sau Pháp Danh thường có thêm các danh hiệu khác như Cư Sĩ (居士), Tín Sĩ (信士), Đại Tỷ (大姉), Tín Nữ (信女), Đồng Tử (童子), Đồng Nữ (童女), v.v.; như Thanh Liên Cư Sĩ (青蓮居士), Chân Tâm Tín Nữ (眞心信女), v.v. Đối với truyền thống đang hiện hành của Việt Nam, Pháp Danh có 2 chữ; chư Tăng xuất gia thường có chữ “Thích” trước Pháp Danh, như Thích Huệ Học (釋惠學), v.v.; chư Ni xuất gia thường có chữ “Thích Nữ (釋女)” trước Pháp Danh, như Thích Nữ Huệ Học (釋女惠學), v.v. Cách đặt Pháp Danh được tuân theo thứ tự của các chữ trong các bài kệ do chư vị tổ đức thuộc dòng phái đặt ra. Như Môn Phái Thập Tháp Di Đà ở Bình Định dùng bài kệ của Thiền Sư Vạn Phong Thời Ủy: “Tổ đạo giới định tông, phương quảng chứng viên thông, hành siêu minh thật tế, liễu đạt ngộ chơn không, như nhật quang thường chiếu, phổ châu lợi nhân thiên, tín hương sanh phước tuệ, tương kế chấn từ phong (祖道戒定宗、方廣證圓通、行超明寔際、了達悟眞空、如日光常照、普周利人天、信香生福慧、相繼振慈風).” Trong khi đó, Môn Phái Liễu Quán tại Huế thì đặt Pháp Danh theo bài kệ của Tổ Sư Thật Diệu Liễu Quán (實妙了觀, 1670-1742): “Thật tế đại đạo, tánh hải thanh trừng, tâm nguyên quảng nhuận, đức bổn từ phong, giới định phước tuệ, thể dụng viên thông, vĩnh siêu trí quả, mật khế thành công, truyền trì diệu lý, diễn sướng chánh tông, hành giải tương ưng, đạt ngộ chơn không (實際大道、性海清澄、心源廣潤、德本慈風、戒定福慧、體用圓通、永超智果、密契成功、傳持妙里、演暢正宗、行解相應、達悟眞空).” Môn Phái Quốc Ân có bài kệ của Tổ Đạo Mân rằng: “Đạo bổn nguyên thành Phật tổ tiên, minh như hồng nhật lệ trung thiên, Linh nguyên quảng nhuận từ phong phổ, chiếu thế chơn đăng vạn cổ huyền (道本原成佛祖先、明如紅日麗中天、靈源廣潤慈風溥、照世眞燈萬古懸).” Tại Quảng Nam, Dòng Chúc Thánh thì dùng bài kệ truyền thừa pháp phái của Tổ Minh Hải Pháp Bảo: “Minh thật pháp toàn chương, ấn chơn như thị đồng, chúc thánh thọ thiên cữu, kỳ quốc tộ địa trường, đắc chánh luật vi tuyên, tổ đạo hành giải thông, giác hoa Bồ Ðề thọ, sung mãn nhân thiên trung (明寔法全章、印眞如是同、祝聖壽天久、祈國祚地長、得正律爲宣、祖道行解通、覺花菩提樹、充滿人天中).” Ngoài ra, còn một số bài kệ khác như bài của ngài Minh Hành Tại Toại ở miền Bắc: “Minh chân như bảo hải, kim tường phổ chiếu thông, chí đạo thành chánh quả, giác ngộ chứng chơn không (明眞如寶海、金祥普照通、至道成正果、覺悟證眞空).” Hay bài kệ của ngài Tri Giáo Nhất Cú: “Tịnh trí viên thông tông từ tánh, khoan giác đạo sanh thị chánh tâm, mật hạnh nhân đức xưng lương tuệ, đăng phổ chiếu hoằng pháp vĩnh trường (淨智圓通宗慈性、寬覺道生是正心、密行仁德稱良慧、燈普照宏法永長)”, v.v. Đặc biệt, việc đặt Pháp Danh ở Nhật Bản có nét đặc trưng hoàn toàn khác với các nước Phật Giáo Đại Thừa. Tùy theo tông phái khác nhau mà Pháp Danh cũng được đặt dưới nhiều hình thức khác nhau, dưới tên gọi là Giới Danh (戒名, kaimyō). Nhìn chung, Giới Danh của Nhật Bản được kết cấu bởi ít nhất 3 yếu tố: Viện Hiệu (院號, ingō) hay Viện Điện Hiệu (院殿號, indonogō), Đạo Hiệu (道號, dōgō) và Vị Hiệu (位號, igō). Viện Hiệu được dùng cho những người trong lúc sanh tiền có cống hiến to lớn đối với tự viện, Phật Giáo, xã hội. Tỷ dụ như lịch đại chư vị Tướng Quân dưới thời đại Thất Đinh (室町, Muromachi, 1392~1573) và Giang Hộ (江戸, Edo, 1600~1867) đều được đặt cho Viện Hiệu hay Viện Điện Hiệu; như trường hợp Tướng Quân Chức Điền Tín Tú (織田信秀, Oda Nobuhide, 1510-1551) có Giới Danh là Vạn Tùng Tự Đào Nham Đạo Kiến (萬松寺桃巖道見); Tướng Quân Túc Lợi Nghĩa Tình (足利義晴, Ashikaga Yoshiharu, 1511-1550) là Vạn Tùng Viện Hoa Sơn Đạo Chiếu (萬松院曄山道照), hay Tướng Quân Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga, 1534-1582) có Giới Danh đặc biệt là Tổng Kiến Viện Điện Tặng Đại Tướng Quốc Nhất Phẩm Thái Nham Tôn Nghi (總見院殿贈大相國一品泰巖尊儀), v.v. Vốn phát xuất từ Trung Quốc, được chư vị Thiền tăng truyền vào Nhật, Đạo Hiệu là một tên khác được đặt trước Pháp Danh; như Nhất Hưu Tông Thuần (一休宗純, Ikkyū Sōjun, 1394-1481) có Đạo Hiệu là Nhất Hưu. Trừ Luật Tông, Tịnh Độ Chơn Tông ra, các tông phái như Chơn Ngôn Tông, Thiên Thai Tông, Tịnh Độ Tông, Lâm Tế Tông, Tào Động Tông, Nhật Liên Tông đều dùng đến Đạo Hiệu này. Vị Hiệu là tên gọi được đặt sau cùng của Giới Danh để phân biệt về giới tính, tuổi tác, v.v. Đối với trường hợp thành nhân (người lớn), một số Vị Hiệu được dùng như Tín Sĩ (信士), Tín Nữ (信女), Thanh Tín Sĩ (清信士), Thanh Tín Nữ (清信女), Cư Sĩ (居士), Đại Tỷ (大姉), Đại Cư Sĩ (大居士), Thanh Đại Tỷ (清大姉), Thiền Định Môn (禪定門, dành cho chư Tăng), Thiền Định Ni (禪定尼, dành cho chư Ni). Đối với trường hợp các em nhỏ thì có Thủy Tử (水子, dùng cho các thai nhi bị lưu sản, sút sảo tảo sa); Anh Nhi (嬰兒) Anh Tử (嬰子), Anh Nữ (嬰女) dùng cho các trẻ nhỏ đang còn bú mẹ; Hài Tử (孩子), Hài Nữ (孩女) dùng cho các em nhỏ khoảng 2-3 tuổi; Đồng Tử (童子), Đồng Nữ (童女) dùng cho các em từ 4-14 tuổi, v.v.
(法皇, Hōō): hay Thái Thượng Pháp Hoàng (太上法皇, Dajōhōō), từ dùng để gọi vị Thái Thượng Hoàng sau khi xuất gia, đồng nghĩa với Pháp Vương (法王, Hōō). Tuy nhiên, Thượng Hoàng (上皇, Jōkō, tức Thái Thượng Thiên Hoàng không xuất gia) với Pháp Hoàng không khác gì nhau về thân phận cả. Vũ Đa Thiên Hoàng (後宇多天皇, Gouda Tennō, tại vị 1274-1287) dưới thời đại Bình An được xem như là người đầu tiên dùng xưng hiệu này; thế nhưng, trong Tục Nhật Bản Kỷ (續日本紀, Shokunihongi) có ghi rằng Thánh Võ Thiên Hoàng (聖武天皇, Shōmu Tennō, tại vị 724-749) nhường ngôi vị, tự xưng là Pháp Hoàng, rồi đến tham bái Lễ Khai Nhãn Cúng Dường Tượng Đại Phật ở Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji); cho nên ở đây có vấn đề cần xét lại. Dưới thời đại Bình An, Bạch Hà Pháp Hoàng (白河法皇), Điểu Vũ Pháp Hoàng (鳥羽法皇), Hậu Bạch Hà Pháp Hoàng (後白河法皇), v.v., tiến hành chế độ Viện Chính (院政). Linh nguyên Pháp Hoàng (靈元法皇) dưới thời đại Giang Hộ là vị Pháp Hoàng cuối cùng.
(灶君・竈君): vị thần của nhà bếp, chuyên giám sát mọi việc trong nhà và báo cáo lên Thiên Đình. Trong truyền thuyết thần thoại cổ đại Trung Quốc, Táo Quân hay Táo Thần (灶神) là vị thần trông coi việc ăn uống, sau thời nhà Tấn thì được liệt vào vị thần chuyên giám sát việc thiện ác của con người. Từ khi nhân loại thoát ly khỏi thời kỳ ăn lông, uống máu, phát minh ra lửa để nấu ăn, tùy theo sự phát triển sinh sản của xã hội, Táo Quân có mối quan hệ rất mật thiết với sinh hoạt của nhân loại. Vào thời cổ đại, Trung Quốc đã có việc tế tự Táo Thần rồi; từ thời nhà Ngụy, Tấn về sau, Táo Thần đã có tên họ. Trong Ngọc Chúc Bảo Điển (玉燭寶典) của Đỗ Vương Khanh (杜王卿) nhà Tùy, có nêu phần Táo Thư (灶書) và cho biết rằng: “Táo Thần, tánh Tô, danh Cát Lợi, phụ danh Bác Giáp (灶神、姓蘇、名吉利、婦名搏頰, Tháo Thần, họ Tô, tên Cát Lợi; vợ tên Bác Giáp).” Theo Tạp Ngũ Hành Thư (雜五行書) do Lý Hiền (李賢, 654-684) nhà Đường chú dẫn, có giải thích rằng: “Táo Thần danh Thiền, tự Tử Quách, y hoàng y, phi phát, tùng táo trung xuất (灶神名禪、字子郭、衣黃衣、披髮、從灶中出, Táo Thần tên Thiền, tự là Tử Quách, mặc áo vàng, đội tóc, từ trong bếp ra).” Ban đầu, Táo Quân là nữ thần, nên được gọi là lão bà, có khi là mỹ nữ, v.v., có nhiều thuyết khác nhau. Sau này, trong Kính Táo Toàn Thư (警灶全書), thư tịch xuất hiện khoảng thời nhà Thanh, có giải thích là Táo Thần được gọi là Táo Quân (灶君), họ Trương (張), tên Đơn (單), tự là Tử Quách, thuộc nam thần. Hiện tại trong dân gian vẫn thờ phụng Đông Trù Ty Mạng Định Phước Táo Quân (東廚司命定福灶君), là hình vẽ hai lão già phu phụ, hay hình một nam hai nữ, tức là Táo Quân và phu nhân. Táo Thần gọi cho đủ là Đông Trù Ty Mạng Cửu Linh nguyên Vương Định Phước Thần Quân (東廚司命九靈元王定福神君); thế gian thường gọi là Táo Quân, Táo Quân Công (灶君公), Táo Vương Gia (灶王爺), Ty Mạng Chơn Quân (司命眞君), Ty Mạng Đế Quân (司命帝君), Cửu Thiên Đông Trù Yên Chủ (九天東廚煙主), Hộ Trạch Tôn Thiên (護宅尊天), Táo Vương (灶王). Đặc biệt, phái nữ tôn kính ông như là vị thần của nhà bếp. Nguồn gốc về Táo Quân có từ rất sớm, từ khi nhà Thương khai sáng cơ đồ, người dân đã bắt đầu thờ phụng vị thần này rồi; trước thời nhà Tần, Hán, ông được liệt vào 5 vị thần thờ phụng chủ yếu, cùng với Thần Cửa, Thần Giếng, Thần Nhà Xí, Thần Phòng Ốc, chịu trách nhiệm trông coi trong gia đình; cho nên, ông thường được mọi người ái kính và biết ơn. Ngoại trừ chưởng quản việc ẩm thực, đem lại mọi sự tiện lợi về mặt sinh hoạt, chức trách của Táo Quân còn được Ngọc Hoàng Thượng Đế phái xuống giám sát việc thiện ác trong gia đình. Về hình tượng của Táo Quân, hai bên ông có hai vị thần đứng hầu, một vị cầm cái “lọ thiện” và vị kia “lọ ác”; tất cả hành vi của gia đình trong năm đều được ghi vào trong hai lọ này, đến cuối năm thì tổng kết lại và đem báo cáo cho Ngọc Hoàng Thượng Đế. Hằng năm vào ngày 23 tháng 12 âm lịch là ngày Táo Quân rời dương gian về chầu Trời, cho nên mới có tục Đưa Ông Táo Về Trời. Có khá nhiều truyền thuyết khác nhau về vị thần nhà bếp này. Trước hết, có thuyết cho rằng ông là đế vương hay hậu duệ nhà vua thời Thượng Cổ. Tác phẩm Sự Vật Nguyên Hội (事物原會) cho rằng Hoàng Đế làm ra bếp, chết đi thành Thần Bếp. Hoài Nam Tử (淮男子), phần Phiếm Vật Luận (氾物論) có đoạn: “Viêm Đế tác hỏa nhi tử vi Táo (炎帝作火而死爲灶, Viêm Đế chế ra lửa, nên khi chết làm Táo)”; nhân đây Cao Dụ (高誘) chú giải rằng vua Viêm Đế lấy đức của lửa để quản lý thiên hạ, nên sau khi chết thì lấy thân phận Táo Thần để được tế tự. Chu Lễ Thuyết (周禮說) lại cho rằng dòng họ Chuyên Húc (顓頊) có người con tên Lê (黎), tức Chúc Dung (祝融) được thờ làm Táo Thần. Trong Lã Thị Xuân Thu (呂氏春秋), phần Mạnh Thu (孟秋) có câu: “Kỳ thần Chúc Dung (其神祝融, Thần đó là Chúc Dung)”; Cao Dụ chú giải rằng “Chúc Dung là hậu duệ của dòng họ Chuyên Húc, con của Lão Đồng, sau khi chết làm Thần Hỏa Quan.” Hơn nữa, lại có thuyết cho rằng Táo Quân là quỷ thần. Lễ Ký (禮記) có đoạn: “Áo giả, lão phụ chi tế dã (奧者、老婦之祭也, Bên trong thờ bà lão).” Trịnh Huyền (鄭玄, 127-200) chú rằng: “Lão phụ, Tiên Xuy giả dã (老婦、先炊者也, Lão bà chính là Tiên Xuy)”; Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達, 574-648) lại giải thích thêm rằng “Ở đây cúng Tiên Xuy, không phải cúng Thần Lửa”. Theo đó, Táo Quân cũng chẳng phải là Thần Lửa, cũng không phải là người phát minh ra nhà bếp. Trong Văn Hiến Thông Khảo (文献通考), phần Giao Xã (郊社) 19 có nêu danh hiệu của Táo Thần là Ty Mạng (司命); từ đó có tên là Đông Trù Ty Mạng Định Phước Táo Quân. Cũng có thuyết cho rằng ông là Sao Táo Thần; vì người dân cho việc ăn uống là Trời, muốn có ăn thì nhà bếp phải đầy khói; cho nên cúng tế Thần Bếp là nhằm ngày 23 tháng chạp, ngưỡng vọng ông lên trời cáo trình những việc tốt, rồi xuống trần gian ban cho điều tốt lành, khiến cho gia đình mỗi năm được bình an. Thời gian cúng tế vị thần này cũng có khác nhau, đa số các nơi đều cúng vào ngày 24 tháng chạp, nhưng cũng có nơi thuộc thiểu số lại cúng vào ngày 23; do vì có thuyết là “quan tam dân tứ (官三民四)”, tức là đối với quan thần thì cúng vào ngày 23, còn dân thường là ngày 24. Ngoài ra, Táo Quân còn được xem như là Bồ Tát giữ gìn cho bá tánh được “ngũ cốc phong nhiêu, tài nguyên vượng tấn (五穀豐饒、財源旺進, ngũ cốc phong phú, tài nguyên thịnh vượng).” Ngày sinh nhật của ông là mồng 3 tháng 8. Tuy nhiên, hiện tại ở Trung Hoa người ta thường cúng ông vào ngày ông đi báo cáo hơn là ngày sinh nhật. Về nội dung báo cáo, từ thế kỷ thứ 3 đến thứ 9, nội dung ấy chỉ tập trung vào những việc làm không tốt, xấu ác của gia đình. Thế nhưng, gần đây nội dung ấy không phải nhắm vào các thành viên trong gia đình, mà chủ yếu là những lời nói việc làm của bà chủ nhà. Có điều, đối với tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Táo Quân có nguồn gốc từ 3 vị thần: Thổ Công (土公), Thổ Địa (土地) và Địa Kỳ (地祇), nhưng được Việt hóa thành huyền tích “hai ông một bà”, gồm Thần Đất, Thần Nhà và Thần Bếp. Trên cơ sở của thuyết Tam Vị Nhất Thể (三位一體, ba ngôi vị cùng một thể), dân gian vẫn gọi chung là Táo Quân hay Ông Táo. Theo Wikipedia Tiếng Việt, trang Táo Quân có tóm tắt về nội dung chính sự tích của vị Thần Bếp này là: “Trọng Cao có vợ là Thị Nhi, ăn ở với nhau đã lâu mà không có con, nên sinh ra buồn phiền, hai người hay cãi cọ với nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi, sau đó gặp và bằng lòng làm vợ người thợ săn tên Phạm Lang. Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Trong lúc đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin. Khi đến xin nhà Thị Nhi, hai bên nhận ra nhau. Hai bên hàn huyên chuyện cũ và Thị Nhi tỏ ra ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng. Khi Phạm Lang trở về, Thị Nhi giấu chồng cũ mình vào trong đống rơm ngoài vườn để tránh hiểu nhầm. Vừa về đến nhà, anh thợ săn liền ra đốt rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra, nên bị chết thiêu trong đống rơm. Người vợ chạy ra thấy người chồng cũ đã chết thui thê thảm, nên liều mình nhảy vào để chết theo. Phạm Lang thấy vậy cũng nhảy vào cứu vợ, cuối cùng cả ba đều tử mạng. Quá thương tâm trước tình cảnh như vậy, Thượng Đế sắc phong cho làm Táo Quân, nhưng mỗi người giữ một việc; Phạm Lang làm Thổ Công, trông coi việc nhà bếp, hiệu là Đông Trù Ty Mạng Táo Phủ Thần Quân (東廚司命灶府神君); Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa, hiệu là Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần (土地龍脉尊神); Thị Nhi làm Thổ Kì, trông coi việc chợ búa, hiệu là Ngũ Thổ Phước Đức Chánh Thần (五土福德正神).” Ở Việt Nam, phong tục thờ Táo Quân cũng rất thịnh hành từ xưa cho đến nay với cùng ý nghĩa như trên. Hơn thế nữa, người ta còn cho rằng vị thần này có trách nhiệm chăm sóc những em bé sơ sinh, vì vậy khi đứa bé bị cảm mạo, đau bụng, v.v., gia đình thường cầu Táo Quân gia hộ cho chóng lành bệnh. Đó là lý do vì sao ngay nơi nhà bếp người ta thường thiết bàn thờ Táo Quân, bất kể tín đồ Phật Giáo hay không. Tại Trung Quốc, người ta thờ Táo Quân bằng hình vẽ, nhưng ở Việt Nam thì thờ bằng thỏi đất nung, có hình 3 trụ đứng. Sau khi cúng tiễn đưa Ông Táo về Trời xong vào ngày 23, người dân thường đem Ông Táo ra bỏ ở các gốc cây đa đầu làng, và thay vào Ông Táo mới. Tương truyền ngày mồng 3 tháng Giêng đầu năm là ngày Ông Táo từ Thiên Đình trở về, nên vào ngày này người ta cũng tổ chức lễ rước Ông Táo.
(天官): tên gọi của một trong ba vị Tam Quan Đại Đế (三官大帝), tức Thiên Quan Đại Đế (天官大帝), còn gọi là Thượng Nguyên Tứ Phước Thiên Quan Nhất Phẩm Tử Vi Đại Đế (上元賜福天官一品紫微大帝), và hai vị kia là Trung Nguyên Xá Tội Địa Quan Nhị Phẩm Thanh Hư Đại Đế (中元赦罪地官二品清虛大帝), Hạ Nguyên Giải Ách Thủy Quan Tam Phẩm Động Âm Đại Đế (下元解厄水官三品洞陰大帝). Từ thời Thượng Cổ, tại Trung Quốc đã có nghi lễ tế trời, đất và nước rồi. Ba vị Đại Đế này được thần cách hóa chỉ dưới Ngọc Hoàng Thượng Đế (玉皇上帝) một bậc, chuyên chưởng quản việc phước lộc, tội ác và giải trừ tai ách của con người. Trong dân gian vẫn truyền tụng rằng: “Thiên Quan hảo lạc, Địa Quan hảo nhân, Thủy Quan hảo đăng (天官好樂、地官好人、水官好燈, Thiên Quan thích vui, Địa Quan thích người, Thủy Quan thích đèn).” Thượng Nguyên (上元, rằm tháng giêng), Trung Nguyên (中元, rằm tháng bảy) và Hạ Nguyên (下元, rằm tháng mười) là ba ngày tế hội của ba vị Đại Đế này. Thiên Quan Đại Đế lệ thuộc vào Ngọc Thanh Cảnh (玉清境), do 3 khí xanh, vàng, trắng mà kết hợp thành, tổng chủ quản các đế vương trên trời. Mỗi năm vào ngày rằm tháng giêng, vị này thường giáng phàm xem xét tội phước của con người, nên có tên là Thiên Quan Tứ Phước (天官賜福, Quan Trời Ban Phước). Có nhiều truyền thuyết khác nhau liên quan đến vị này. Có thuyết cho rằng ông là Nghiêu Đế (堯帝); do vì nhà vua có lòng nhân lớn nên được phong làm Thiên Quan, phụng mạng Ngọc Hoàng Thượng Đế, xem xét việc tốt xấu của con người. Nghiêu Đế họ là Y Kì (伊祁), tên Phóng Huân (放勳), con vua Khốc (嚳), em của vua Chí (摰). Khi Chí lên ngôi vua thì phong cho Nghiêu là (陶侯), rồi đổi tên là Đường (唐); nên được gọi là Đào Đường (陶唐). Tương truyền Đường Nghiêu (唐堯) có dung mạo rất quái dị, lông mày có 8 sắc màu, tai có 3 lỗ thông. Khi vua Chí nhường ngôi cho Nghiêu thì bốn phương xuất hiện hung thần, ác khí, làm nguy hại đến tánh mạng của bá tánh. Nhà vua bèn sai Hậu Nghệ (后羿) đến hàng phục hung thần kia. Ông tóm thâu gió lớn nơi sông hồ, chém chết mãnh thú ven hồ Động Đình (洞庭), thâu tóm độc xà và làm cho dân chúng được yên ổn. Vua Nghiêu lại vẽ ra bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, chế định một năm có 12 tháng. Sau khi tại vị được 98 năm, vua Nghiêu truyền ngôi vị lại cho Thuấn (舜), hưởng thọ 177 tuổi; được tôn xưng là Thiên Quan Tứ Phước Thần (天官大帝賜福神). Trong Đạo Giáo tôn sùng ông là Thượng Nguyên Nhất Phẩm Tứ Phước Thiên Quan Đại Đế (上元一品賜福天官大帝). Thuyết khác cho rằng Thiên Quan là vị quan thường tâu những lời can gián lên nhà vua tên Đường Hoằng (唐宏) dưới thời Chu U Vương (周幽王, tại vị 781-771 tcn). Ông cùng với Cát Ung (葛雍), Chu Thật (周實) từ quan và sống cuộc đời vui thú điền viên. Đến thời Tống Chơn Tông (宋眞宗, tại vị 997-1022), cả ba được phong làm Thiên Quan, Địa Quan, Thủy Quan và được tế tự hàng năm. Cũng có truyền thuyết giải thích rằng từ khi Trương Thiên Sư (張天師, 34-156, tức Trương Đạo Lục [張道陵], tự là Phụ Hán [輔漢], cháu đời thứ 8 của Trương Lương [張良], xuất thân Phong Huyện [豐縣], Tỉnh Giang Tô [江蘇省]) khai sáng Đạo Giáo về sau, dân gian mới bắt đầu biết cúng tế ba vị Thiên Quan, Địa Quan và Thủy Quan. Ngoài ra, có thuyết lại cho rằng Ngôn Vương Gia (言王爺) có 3 người con gái, đem gả cho Trần Tử Thung (陳子摏) làm vợ; mỗi người lại hạ sinh một người con, có bẩm tính khác thường. Nguyên Thỉ Thiên Tôn (元始天尊) phong cho 3 người này làm Thiên Quan, Địa Quan, Thủy Quan và ra lệnh cho họ cai quản ba cõi. Trong Thái Thượng Tam Nguyên Tứ Phước Xá Tội Giải Ách Tiêu Tai Diên Sanh Bảo Mạng Diệu Kinh (太上三元賜福赦罪解厄消災延生保命妙經), phần Thiên Quan Bảo Cáo (天官寶誥) của Đạo Giáo có đoạn: “Chí tâm quy mạng lễ: Huyền Đô Nguyên Dương, Tử Vi Cung trung, bộ Tam Thập Lục Tào, giai cửu thiên vạn chúng, khảo hiệu đại thiên thế giới chi nội, lục tịch thập phương quốc độ chi trung; phước bị vạn linh, chủ kiêm sanh thiện ác chi tịch; ân đàm Tam Giới, trí chư tiên thăng giáng chi ty, trừ vô vọng chi tai, giải thích túc ương, thoát sanh tử chi thú, cứu bạt u khổ, quần sanh thị lại, xuẩn động hàm khang, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Thượng Nguyên Cửu Khí, Tứ Phước Thiên Quan, Diệu Linh nguyên Dương Đại Đế, Tử Vi Đế Quân (志心皈命禮、玄都元陽、紫微宮中、部三十六曹、偕九千萬眾、考較大千世界之內、錄籍十方國土之中、福被萬靈、主兼生善惡之籍、恩覃三界、致諸仙升降之司、除無妄之災、解釋宿殃、脫生死之趣、救拔幽苦、群生是賴、蠢動咸康、大悲大願、太聖大慈、上元九氣、賜福天官、曜靈元陽大帝、紫微帝君, Một lòng quy mạng lễ: Huyền Đô Nguyên Dương, trong Tử Vi Cung, cai quản 36 bộ quan, nhiếp chín ngàn vạn chúng, giám sát trong khắp thế giới đại thiên, xét hồ sơ mười phương quốc độ, chủ quản hồ sơ thiện ác con người, phước nhuần vạn sinh, chủ kiểm soát hồ sơ thiện ác; ơn ban Ba Cõi, quản lý chư tiên lên xuống, trừ các tai họa, giải trừ oan khiên đời trước, thoát khỏi đường sanh tử, cứu bạt khổ ách, chúng sanh nương tựa, động vật đều yên, đại bi đại nguyện, đại thánh đại từ, Thượng Nguyên Cửu Khí, Tứ Phước Thiên Quan, Diệu Linh nguyên Dương Đại Đế, Tử Vi Đế Quân).”
(水月): có mấy nghĩa. (1) Nước và trăng. Như trong bài Động Đình Thu Nguyệt Hành (洞庭秋月行) của Lưu Vũ Tích (劉禹錫, 772-842) nhà Đường có câu; “Sơn thành thương thương dạ tịch tịch, thủy nguyệt uy di nhiễu thành bạch (山城蒼蒼夜寂寂、水月逶迤繞城白, thành núi xanh xanh đêm vắng vẻ, trăng nước lượn quanh thành trắng xóa).” (2) Chỉ mặt trăng trong sáng vằng vặc như nước. Như trong bài thơ Nam Khang Quận Mục Lục Quăng Lang Trung Tích Hứa Đường Tiên Bối Vi Quận Tùng Sự Hữu Ký Tặng (南康郡牧陸肱郎中辟許棠先輩爲郡從事有寄贈) của Trịnh Cốc (鄭谷, 849-911) nhà Đường có câu: “Dạ thanh tăng bán túc, thủy nguyệt tại tùng tiêu (夜清僧伴宿、水月在松梢, đêm thanh tăng chưa ngũ, trăng sáng trên ngọn tùng).” (3) Thủy nguyệt (s: udaka-candra), chỉ mặt trăng hay bóng trăng trong nước, là một trong 10 ví dụ của Phật Giáo Đại Thừa. Mặt trăng ở trong nước là bóng hiện ra, không phải là thật thể của mặt trăng; nên được dùng làm ví dụ cho cái không có tự tánh của các pháp. Kẻ phàm phu lầm chấp trong lòng nước tâm có hiện hữu các tướng tôi và của tôi, rồi bám chặt vào các pháp; nhưng thật ra các pháp không có thật thể của chúng, hết thảy đều do nhân duyên mà sanh diệt. Như trong bài thơ Tặng Tuyên Châu Linh nguyên Tự Trọng Tuấn Công (贈宣州靈源寺仲濬公) của Lý Bạch (李白, 710-762) nhà Đường có câu: “Quán tâm đồng thủy nguyệt, giải lãnh đắc minh châu (觀心同水月、解領得明珠, quán tâm cùng trăng nước, lãnh ngộ được minh châu).” Hay trong Kiềm Nam Hội Đăng Lục (黔南會燈錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1591) quyển 5, phần Xích Tùng Lãnh Thiền Sư Pháp Từ (赤松領禪師法嗣), Mi Đàm Phụng Hoàng Đại Chuyết Tịnh Hà Thiền Sư (眉潭鳳凰大拙淨霞禪師), lại có đoạn: “Pháp Thân thanh tịnh đẳng hư không, ứng vật hiện hình thủy nguyệt đồng, mạc đạo tha sơn phương thảo lục, xuân lai xữ xứ bách hoa hồng (法身清淨等虛空、應物現形水月同、莫道他山芳草綠、春來處處百花紅, Pháp Thân thanh tịnh tợ hư không, theo vật hiện hình trăng nước cùng, chớ bảo núi kia cỏ thơm lục, xuân về chốn chốn trăm hoa hồng).” Hoặc trong Cổ Tôn Túc Ngữ Lục (古尊宿語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 68, No. 1315) quyển 21, phần Thư Châu Bạch Vân Sơn Hải Hội Diễn Hòa Thượng Ngữ Lục (舒州白雲山海會演和尚語錄), cũng có câu: “Cúc thủy nguyệt tại thủ, lộng hoa hương mãn y (掬水月在手、弄花香滿衣, vớt nước trăng trên tay, đùa hoa hương đầy áo).” Trong Tăng Bảo Chánh Tục Truyện (僧寶正續傳, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 79, No. 1561) quyển 1, phần La Hán Nam Thiền Sư (羅漢南禪師), lại có đoạn khác: “Yến tọa thủy nguyệt đạo tràng, hàng phục kính lí ma quân, thành tựu mộng trung Phật quả, kim triêu pháp tuế dĩ viên (宴坐水月道塲、降伏鏡裏魔軍、成就夢中佛果、今朝法歲已圓, ngồi Thiền trăng nước đạo tràng, hàng phục trong kính ma quân, thành tựu trong mộng quả Phật, sáng nay tuổi pháp đã tròn).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập