Hạnh phúc chân thật là sự yên vui, thanh thản mà mỗi chúng ta có thể đạt đến bất chấp những khó khăn hay nghịch cảnh. Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Người thành công là người có thể xây dựng một nền tảng vững chắc bằng chính những viên gạch người khác đã ném vào anh ta. (A successful man is one who can lay a firm foundation with the bricks others have thrown at him.)David Brinkley
Một người sáng tạo được thôi thúc bởi khát khao đạt đến thành công, không phải bởi mong muốn đánh bại người khác. (A creative man is motivated by the desire to achieve, not by the desire to beat others.)Ayn Rand
Không trên trời, giữa biển, không lánh vào động núi, không chỗ nào trên đời, trốn được quả ác nghiệp.Kinh Pháp cú (Kệ số 127)
Nếu không yêu thương chính mình, bạn không thể yêu thương người khác. Nếu bạn không có từ bi đối với mình, bạn không thể phát triển lòng từ bi đối với người khác.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nên biết rằng tâm nóng giận còn hơn cả lửa dữ, phải thường phòng hộ không để cho nhập vào. Giặc cướp công đức không gì hơn tâm nóng giận.Kinh Lời dạy cuối cùng
Điều quan trọng không phải vị trí ta đang đứng mà là ở hướng ta đang đi.Sưu tầm
Sự hiểu biết là chưa đủ, chúng ta cần phải biết ứng dụng. Sự nhiệt tình là chưa đủ, chúng ta cần phải bắt tay vào việc. (Knowing is not enough; we must apply. Willing is not enough; we must do.)Johann Wolfgang von Goethe
Ta sẽ có được sức mạnh của sự cám dỗ mà ta cưỡng lại được. (We gain the strength of the temptation we resist.)Ralph Waldo Emerson
Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Liễu Tông Nguyên »»
(韓愈, 768-824): văn hào thời Trung Đường, một trong 8 nhân vật nổi tiếng thời Đường Tống, tự là Thối Chi (退之), xuất thân vùng Xương Lê (昌黎), Tỉnh Hà Nam (河南省), nên được gọi là Xương Lê Tiên Sinh, bút hiệu là Văn Công (文公). Ông đã cùng với Liễu Tông Nguyên (柳宗元) nỗ lực phục hưng nền cổ văn. Tác phẩm của ông có Hàn Xương Lê Văn Tập (韓昌黎文集) 50 quyển.
(坤道): có 3 nghĩa. (1) Chỉ thuộc tánh của đại địa. Như trong Dịch Kinh có câu: “Khôn dạo kỳ thuận hồ, thừa thiên nhi thời hành (坤道其順乎、承天而時行, tánh của đất vâng thuận vậy, theo mệnh trời mà thi hành đúng lúc).” Khổng Dĩnh Đạt (孔穎達, 574-648) nhà Đường giải thích rằng: “Ngôn Khôn đạo nhu thuận, thừa phụng ư thiên dĩ lượng thời nhi hành (言坤道柔順、承奉於天以量時而行, bảo rằng tánh của đất là nhu thuận, có nghĩa rằng vâng theo mệnh trời để tính thời gian mà thi hành).” (2) Chỉ cho đức của người nữ. Như trong bài Lễ Bộ Hạ Sách Thái Thượng Hoàng Hậu Biểu (禮部賀冊太上皇后表) của Liễu Tông Nguyên (柳宗元, 773-819) nhà Đường có câu: “Mẫu nghi hữu quang, Khôn đạo khắc thuận (母儀有光、坤道克順, mẫu nghi tỏa sáng, đức nữ vâng thuận).” (3) Chỉ cho đạo của người nữ, hay chỉ cho phụ nữ.
(靈澈, Reitetsu, 746-816): họ Thang (湯), tự Trừng Nguyên (澄源), xuất thân vùng Cối Kê (會稽, Tỉnh Triết Giang), đệ tử của Thần Ung (神邕), nổi tiếng với tư cách là thi tăng, vị tăng đại biểu cho sự giao bộ giữa Thiền và Luật. Ông thị tịch vào năm thứ 11 niên hiệu Nguyên Hòa (元和), hưởng thọ 71 tuổi. Ông có mối thân giao bằng hữu với Liễu Tông Nguyên và Lưu Vũ Tích qua cuộc Cách Tân Vĩnh Trinh (永貞革新), và cũng có giao lưu với Kiểu Nhiên (皎然) cũng như Quyền Đức Hưng (權德興). Người ta cho rằng có thể ông cùng tên với Linh Triệt (靈徹), người viết lời tựa cho Bảo Lâm Truyện (寳林傳).
(南嶽承遠, Nangaku Jōon, 712-802): vị tăng sống dưới thời nhà Đường, vị tổ thứ 3 của Tịnh Độ Tông Trung Quốc, xuất thân Hán Châu (漢州, Quảng Hán, Tứ Xuyên), họ Tạ (謝). Ban đầu ông sống dưới tảng đá phía Tây Nam Hành Sơn (衡山), người ta cho thức ăn thì ăn, không cho thì ăn bùn đất mà sống, nên thân hình gầy gò, mặt lọ lem, làm tiều phu đốn củi và túp lều tranh nơi ông trú ngụ gọi là Di Đà Đài, chuyên tâm Niệm Phật Tam Muội. Lâu sau, tiếng tăm của ông vang khắp, nên người ta đến xin thọ giáo rất đông, lên đến vạn người. Chính Quốc Sư Pháp Chiếu (法照國師) dưới thời vua Đại Tông cũng xuất phát từ môn phong của ông. Ngay như vua Đại Tông cũng đã từng đến tham lễ ông và ban cho sắc hiệu Bát Nhã Đạo Tràng (般若道塲) và tên chùa Di Đà Tự (彌陀寺). Vào năm thứ 18 (802) niên hiệu Trinh Nguyên (貞元), ông thị tịch, hưởng thọ 91 tuổi. Liễu Tông Nguyên (柳宗元) soạn bia văn cho ông, dựng bia đá bên phải chùa. Môn nhân đệ tử của ông có đến hơn ngàn người, trong số đó có Pháp Chiếu (法照), Nhật Ngộ (日悟), Huệ Thuyên (慧詮), Tri Minh (知明), Siêu Minh (超明), v.v., là những nhân vật kiệt xuất nhất.
(廣寒宮): trong tác phẩm Long Thành Lục (龍城錄), phần Minh Hoàng Mộng Du Quảng Hàn Cung (明皇夢游廣寒宮), của Liễu Tông Nguyên (柳宗元, 773-819) nhà Đường cho biết rằng tương truyền vào ngày Rằm tháng 8, khi vua Huyền Tông (玄宗, tại vị 712-756) nhà Đường ngao du trên mặt trăng, chợt thấy một cung phủ lớn, có tấm bảng ghi là: “quảng hàn thanh hư chi phủ (廣寒清虛之府, phủ lạnh lẽo trống không).” Về sau, người ta gọi cung tiên trên mặt trăng là Quảng Hàn Cung. Như trong bài thơ Túc Thủy Đình (宿水亭) của Bảo Dung (鮑溶, ?-?) nhà Đường có câu: “Dạ thâm tinh nguyệt bạn Phù Dung, như tại Quảng Hàn Cung lí túc (夜深星月伴芙蓉、如在廣寒宮裏宿, trăng sao đêm nữa bạn hoa sen, như ở Cung Quảng Hàn tá túc).” Hay trong tác phẩm Liêu Trai Chí Dị (聊齋志异), chương Bạch Vu Ngọc (白于玉), của Bồ Tùng Linh (蒲松齡, 1640-1715) nhà Thanh, lại có đoạn: “Đồng đạo nhập Quảng Hàn Cung, nội dĩ thủy tinh vi giai, hành nhân như tại kính trung (童導入廣寒宮、內以水晶爲階、行人如在鏡中, đồng đạo vào Cung Quảng Hàn, bên trong lấy thủy tinh làm bực thềm, người đi như ở trong kính).” Hoặc trong Thiền Tông Tạp Hải Độc (禪宗雜毒海, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1278) quyển 8, phần Sơn Cư (山居), lại có bài thơ rằng: “Thảo đường thu tợ Quảng Hàn Cung, kim sắc hoa khai bích ngọc tùng, tọa cửu bất tri phàm cốt hoán, thiên hương thanh tán nguyệt minh trung (草堂秋似廣寒宮、金色花開碧玉叢、坐久不知凡骨換、天香清散月明中, nhà tranh thu tựa Quảng Hàn Cung, hoa nở sắc vàng ngọc biếc tùng, chẳng biết ngồi lâu phàm cốt đổi, hương trời tỏa ngát trăng sáng trong).”
(依稀、依希、依俙): có ba nghĩa. (1) Lờ mờ, mơ hồ, không sáng tỏ. Như trong bào thơ Hành Điền Đăng Hải Khẩu Bàn Tự Sơn (行田登海口盤嶼山) của Tạ Linh Vận (謝靈運, 385-433) nhà Tống thời Nam Triều có câu: “Y hi thái lăng ca, phảng phất hàm tần dung (依稀採菱歌、彷彿含嚬容, mơ hồ ca hái ấu, phảng phất dáng u sầu).” Hay trong bài thơ Chí Hòa Nguyên Niên Tứ Nguyệt Nhị Thập Nhật Dạ Mộng Giác Nhi Lục Chi (至和元年四月二十日夜夢覺而錄之) cũng có câu: “Hoảng lãng thiên khai Vân Vụ Các, y hi thân tại Phụng Hoàng Trì (滉朗天開雲霧閣、依稀身在鳳皇池, rực rỡ trời bày Mây Sương Gác, mơ hồ thân tại Phụng Hoàng Hồ).” (2) Tương tự, giống như. Như trong bài Di Tống Tiểu Trứ Thư (貽宋小著書) của Điền Tích (田錫, 940-1004) nhà Tống có câu: “Vi văn vi thi, vi minh vi tụng, vi châm vi tán, vi phú vi ca, nhân ôn vẫn hợp, tâm dữ ngôn hội, nhậm kỳ hoặc loại ư Hàn, hoặc tiêu ư Liễu, hoặc y hi ư Nguyên Bạch, hoặc phảng phất ư Lý Đỗ (爲文爲詩、爲銘爲頌、爲箴爲贊、爲賦爲歌、氤氳吻合、心與言會、任其或類於韓、或肖於柳、或依稀於元白、或髣髴於李杜, là văn là thơ, là bài minh là bài tụng, là bài châm là bài tán, là bài phú là bài ca, như khí trời đất hòa hợp, tâm và lời gặp nhau, cho dù nó hoặc giống với Hàn Dũ [768-824], hoặc như Liễu Tông Nguyên [773-819], hay tương tự với Nguyên Chẩn [779-813] và Bạch Cư Dị [772-846], hay giống với Lý Bạch [701-762] và Đỗ Phủ [712-770]).” (3) Nhỏ mọn, chút ít. Như trong bài Tế Trần Tiên Bối (祭陳先輩) của Hoàng Thao (黃滔, 840-911) nhà Đường có câu: “Cẩn dĩ y hi sơ quả, nhất nhị tinh thành, nguyện minh phù ư hật hưởng, thân vĩnh quyết ư u minh (謹以依稀蔬果、一二精誠、願冥符於肹蠁、申永訣於幽明, xin lấy rau quả ít ỏi, một hai tấc thành, nguyện thầm chứng thảy cùng khắp, mong trối trăn chốn âm dương).” Trong Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Đại Trai Phổ Lợi Đạo Tràng Tánh Tướng Thông Luận (法界聖凡水陸大齋普利道塲性相通論, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1498) quyển 9 có đoạn: “Nhân thiên hình tượng, diện mục y hi, y thường đạm bạc, thần tình phiêu động, tợ vô sở y, tợ hữu sở y (人天形像、面目依稀、衣裳淡白、神情飄動、似無所依、似有所依, hình tượng trời người, mặt mày giống hệt, áo quần đạm bạc, tinh thần lay động, như không chỗ nương, như có chỗ nương).” Hay trong Trạm Nhiên Viên Trừng Thiền Sư Ngữ Lục (湛然圓澄禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 72, No. 1444) quyển 8, phần Ưng Khòa Đảnh Vân Tụ Am Vô Hoại Quan Chủ (鷹窠頂雲岫菴無壞關主), lại có đoạn: “Tích nhật văn danh vị kiến y, kim triêu dung mạo thượng y hi, thiên nhai hải giác tầm tương tợ, nhược cá mi mao bất hạ thùy (昔日聞名未見伊、今朝容貌尚依稀、天涯海角尋相似、若個眉毛不下垂, ngày xửa nghe danh chẳng thấy hình, sáng nay dung mạo lại mờ thinh, bờ trời góc bể tìm tương tự, giống mấy lông mày chẳng rũ hàng).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập