Hãy sống tốt bất cứ khi nào có thể, và điều đó ai cũng làm được cả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Cỏ làm hại ruộng vườn, si làm hại người đời. Bố thí người ly si, do vậy được quả lớn.Kinh Pháp Cú (Kệ số 358)
Cơ hội thành công thực sự nằm ở con người chứ không ở công việc. (The real opportunity for success lies within the person and not in the job. )Zig Ziglar
Mặc áo cà sa mà không rời bỏ cấu uế, không thành thật khắc kỷ, thà chẳng mặc còn hơn.Kinh Pháp cú (Kệ số 9)
Do ái sinh sầu ưu,do ái sinh sợ hãi; ai thoát khỏi tham ái, không sầu, đâu sợ hãi?Kinh Pháp Cú (Kệ số 212)
Để có đôi mắt đẹp, hãy chọn nhìn những điều tốt đẹp ở người khác; để có đôi môi đẹp, hãy nói ra toàn những lời tử tế, và để vững vàng trong cuộc sống, hãy bước đi với ý thức rằng bạn không bao giờ cô độc. (For beautiful eyes, look for the good in others; for beautiful lips, speak only words of kindness; and for poise, walk with the knowledge that you are never alone.)Audrey Hepburn
Điều kiện duy nhất để cái ác ngự trị chính là khi những người tốt không làm gì cả. (The only thing necessary for the triumph of evil is for good men to do nothing.)Edmund Burke
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Có hai cách để lan truyền ánh sáng. Bạn có thể tự mình là ngọn nến tỏa sáng, hoặc là tấm gương phản chiếu ánh sáng đó. (There are two ways of spreading light: to be the candle or the mirror that reflects it.)Edith Wharton
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Liên phòng »»
(惠信, Eshin, 1182-?): vị Ni sống vào khoảng đầu và giữa thời đại Liêm Thương, vợ của Thân Loan (親鸞, Shinran), xuất thân vùng Việt Hậu (越後, Echigo, thuộc Niigata-ken [新潟縣]); con của Binh Bộ Đại Phụ Tam Thiện Vi Giáo (三善爲敎, Miyoshi Tamenori). Bà kết hôn với Thân Loan trong thời gian vị này bị lưu đày ở vùng Việt Hậu, và hạ sanh được 3 trai và 3 gái, trong đó có Thiện Loan (善鸞, Zenran), Tín Liên phòng (信蓮房), v.v. Sau bà cùng với Thân Loan chuyển đến sống ở vùng Quan Đông (關東, Kantō), và đã cùng chồng mình tích cực bố giáo cho đến khi trở về kinh đô. Đến cuối đời, bà quay trở về quê của mình, rồi sau khi Thân Loan qua đời thì bà đã ghi lại tất cả hành trạng cuộc đời của ông và trao lại cho người con gái của mình đang sống ở kinh đô là Ni Giác Tín (覺信, Kakushin). Trước tác của bà để lại có Huệ Tín Ni Văn Thư (惠信尼文書), 10 bức.
(靈隱寺, Rinnin-ji, Reiin-ji): hiện tọa lạc tại Linh Ẩn Sơn (靈隱山), Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang), gọi đủ là Bắc Sơn Cảnh Đức Linh Ẩn Tự (北山景德靈隱寺). Ban đầu vị tăng Huệ Lý (慧理) dựng am tu tập và dịch kinh. Sau đó, Ngô Việt Vương (呉越王) cho xây dựng Ngũ Bách La Hán Đường (五百羅漢堂), chỉnh trang lại các đường vũ, cung thỉnh Vĩnh Minh Diên Thọ (永明延壽) đến khai đường thuyết giáo. Dưới thời nhà Tống, chùa được liệt vào hàng thứ 2 trong Ngũ Sơn. Minh Giáo Khế Tung (明敎契嵩), Phật Hải Huệ Viễn (佛海慧遠), Phật Chiếu Đức Quang (佛照德光), Tùng Nguyên Sùng Nhạc (松源崇岳), v.v., đã từng chấn tích giáo hóa tại đây. Hơn nữa, dưới thời Nam Tống, Đại Xuyên Phổ Tế (大川普濟) đã từng soạn bộ Ngũ Đăng Hội Nguyên (五燈會元) tại chùa này. Đến thời nhà Thanh, chùa được đổi tên thành Vân Lâm Tự (雲林寺). Trong Sơn Môn có các thắng địa như Phi Lai Phong (飛來峰, tức Tiểu Đóa Phong [小朶峰]), Trực Chỉ Đường (直指堂), Lãnh Tuyền Đình (冷泉亭), Bắc Cao Phong (北高峰), Hô Viên Động (呼猿洞, hay Bạch Viên Động [白猿洞]), Thạch Liên Phong (石蓮峰), Hợp Giản Kiều (合澗橋), Thứu Lãnh (鷲嶺), Cửu Lý Tùng Kính (九里松徑), Hác Lôi Đình (壑雷亭), Liên Phong Đường (蓮峰堂), Chiên Đàn Lâm (栴檀林), v.v.
(榴火): hoa Thạch Lựu; vì màu hồng của loại hoa này rực rỡ như lửa nên có tên gọi như vậy. Trong bài từ Hoán Khê Sa Mạn (浣溪沙慢) của Chu Bang Ngạn (周邦彥, 1056-1121) nhà Tống có câu: “Nộn anh thúy ác, hồng hạnh giao Lựu hỏa (嫩英翠幄、紅杏交榴火, hoa non phủ màn biếc, mơ hồng cùng lựu đỏ).” Hay trong bài thơ Tạ Chu Hạc Cao Chiêu Ẩm (謝朱鶴皋招飲) của Tào Bá Khải (曹伯啟, ?-?) nhà Nguyên có câu: “Mãn viện trúc phong xuy tửu diện, lưỡng châu Lựu hỏa phát thi sầu (滿院竹風吹酒面、兩株榴火發詩愁, đầy nhà gió trúc thổi mặt rượu, hai hàng hoa Lựu phát thơ buồn).” Trong Chánh Nguyên Lược Tập (正源略集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 85, No. 1587) quyển 9, phần Cô Tô Di Hiền Liên Phong Nguyên Thiền Sư (姑蘇怡賢蓮峰源禪師) có đoạn: “Tạc tiêu phong vũ quá viên lâm, tẩy xuất Uy Âm na bạn xuân, vô vị chân nhân mao cốt lãnh, liễu yên lựu hỏa nhất thời tân (昨宵風雨過園林、洗出威音那畔春、無位眞人毛骨冷、柳煙榴火一時新, đêm qua mưa gió đến rừng hoang, rửa sạch Oai Âm mấy kiếp xuân, vô vị chân nhân lông cốt lạnh, lựu hoa khói liễu vẫn mới toanh).”
(費隱通容, Hiin Tsūyō, 1593-1661): vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Phí Ẩn (費隱), sinh ngày mồng 8 tháng 12 năm thứ 21 niên hiệu Vạn Lịch (萬曆), xuất thân Huyện Phúc Thanh (福清縣), Mân (閩, Tỉnh Phúc Kiến), họ Hà (何). Năm lên 7 tuổi, ông đã chịu tang cha, đến năm 12 tuổi thì để tang mẹ. Năm 14 tuổi, ông xuất gia tu học với Huệ Sơn (慧山) ở Tam Bảo Tự (三寳寺), sau đó đến tham yết một số cao tăng như Trạm Nhiên Viên Trừng (湛然圓澄), Vô Minh Huệ Kinh (無明慧經) và Vô Dị Nguyên Lai (無異元來). Vào năm thứ 2 (1622) niên hiệu Thiên Khải (天啓), trên đường dự định đi từ Giang Tây (江西) đến Thiên Thai (天台), giữa đường dừng chân tại Hống Sơn (吼山), tham yết Mật Vân Viên Ngộ (密雲圓悟), cơ duyên khế ngộ và cuối cùng kế thừa dòng pháp của vị này. Đến năm thứ 5 (1632) niên hiệu Sùng Trinh (崇禎), ông vào Dục Vương Sơn (育王山), và sau đó chuyển đến sống một số nơi như Hoàng Bá Sơn Vạn Phước Thiền Tự (黃檗山萬福禪寺) ở Huyện Phúc Thanh, Liên Phong Viện (蓮峰院) ở Phủ Kiến Ninh (建寧府, Tỉnh Phúc Kiến), Thiên Ninh Tự (天寧寺) ở Hải Diêm (海塩, Tỉnh Triết Giang), Siêu Quả Tự (超果寺) ở Phủ Tùng Giang (松江府, Tỉnh Giang Tô), Phước Nghiêm Thiền Tự (福嚴禪寺) ở Huyện Sùng Đức (崇德縣, Tỉnh Triết Giang), Kính Sơn Hưng Thánh Vạn Thọ Thiền Tự (徑山興聖萬壽寺) ở Phủ Hàng Châu (杭州府, Tỉnh Triết Giang), Duy Ma Tự (維摩寺), và Nghiêu Phong Sơn Hưng Phước Viện (堯峰山興福院), v.v. Vào ngày 29 tháng 3 năm thứ 18 niên hiệu Thuận Trị (順治), ông thị tịch, hưởng thọ 69 tuổi đời và 56 hạ lạp. Ông soạn các bộ Ngũ Đăng Nghiêm Thống (五燈嚴統) 25 quyển, Ngũ Đăng Nghiêm Thống Giải Hoặc Biên (五燈嚴統解惑編) 1 quyển, Tổ Đình Kiềm Chùy Lục (祖庭鉗鎚錄) 2 quyển, Bát Nhã Tâm Kinh Trác Luân Giải (般若心經斲輪解), Ngư Tiều Tập (漁樵集). Môn nhân Hoàng Bá Ẩn Nguyên (黃檗隱元) biên tập bộ Phí Ẩn Thiền Sư Ngữ Lục (費隱禪師語錄) 14 quyển, Cư Sĩ Vương Cốc (王谷) soạn bản Phước Nghiêm Phí Ẩn Dung Thiền Sư Kỷ Niên Lục (福嚴費隱容禪師紀年錄), Thủy Giám Huệ Hải (水鑑慧海) soạn cuốn Phí Ẩn Dung Hòa Thượng Hành Trạng (費隱容和尚行狀).
(信空, Shinkū, 1146-1228): vị Tăng của Tịnh Độ Tông sống vào khoảng cuối thời Bình An và đầu thời Liêm Thương, húy là Tín Không (信空), thường được gọi là Bạch Xuyên Thượng Nhân (白川上人), tự là Xưng Biện (稱辨), hiệu Pháp Liên phòng (法蓮房), xuất thân vùng Kyoto, con của vị Tả Đại Biện Diệp Thất Hành Long (左大辨葉室行隆). Năm 1157, ông xuất gia với Duệ Không (叡空) ở vùng Hắc Cốc (黑谷, Kurodani) trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), rồi sau khi thầy qua đời, ông theo học Tịnh Độ Giáo với Nguyên Không (源空, Genkū, tức Pháp Nhiên) và được truyền thừa Viên Đốn Giới. Năm 1204, vâng mệnh Nguyên Không, ông viết bản Thất Cá Điều Chế Giới (七箇條制誡, Bảy Điều Răn Dạy, 1 quyển) để đối trị với sự đàn áp mãnh liệt của đồ chúng trên Tỷ Duệ Sơn. Ông được Nguyên Không phó chúc cho các thư tịch Thánh Giáo và nỗ lực lãnh đạo duy trì giáo đoàn Chuyên Tu Niệm Phật. Môn lưu của ônh thì gọi là Môn Đồ Bạch Xuyên (白川門徒).
(靜遍, Jōhen, 1166-1224): vị học tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào khoảng đầu thời Liêm Thương, húy là Tĩnh Biến (靜遍), hay Tịnh Biến (淨遍), thông xưng là Thiền Lâm Tự Pháp Ấn (禪林寺法印), Đại Nạp Ngôn Pháp Ấn (大納言法印), hiệu là Tâm Viên Phòng (心圓房), Chơn Liên phòng (眞蓮房), Chơn Vấn Phòng (眞問房); con của quan Đại Nạp Ngôn Bình Lại Thạnh (大納言平賴盛). Ông xuất gia tại Nhân Hòa Tự (仁和寺, Ninna-ji), rồi thọ nhận Dòng Tiểu Dã (小野流) từ Thắng Hiền (勝賢) của Đề Hồ Tự (醍醐寺, Daigo-ji), Dòng Quảng Trạch (廣澤) từ Nhân Long (仁隆) của Nhân Hòa Tự. Sau đó, ông đến trú trì Thiền Lâm Tự (禪林寺, Zenrin-ji). Ông được bộ Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集) của Nguyên Không (源空, Genkū) cảm hóa, bèn đến tham bái mộ của vị này, lễ bái làm đệ tử và quy y theo Tịnh Độ Giáo. Ông truyền trao các pháp của mật giáo cho Dòng Tam Bảo Viện (三寶院), và chuyển đến trú tại Vãng Sanh Viện (徃生院) trên Cao Dã Sơn. Đệ tử phú pháp của ông có Đạo Phạm (道範), Thật Hiền (實賢), v.v.
(淨土宗, Jōdo-shū): tông phái tin vào bản nguyện của đức Phật A Di Đà (s: Amitābha, 阿彌陀佛), và tuyên thuyết rằng nhờ xưng danh hiệu của đức Phật ấy mà tất cả chúng sanh đều được vãng sanh về thế giới Cực Lạc Tịnh Độ (極樂淨土). Vị tông tổ là Pháp Nhiên Phòng Nguyên Không (法然房源空, Hōnenbō Genkū). Tổng Bản Sơn (ngôi chùa tổ) của tông phái này là Tri Ân Viện (知恩院, Chion-in), hiện tọa lạc tại Higashiyama-ku (東山區), Kyōto-shi (京都市). Vào tháng 3 năm đầu (1175) niên hiệu An Nguyên (安元), khi đang tu hành trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan), Nguyên Không nhân đọc được bản Quán Vô Lượng Thọ Kinh Sớ (觀無量壽經疏) của Thiện Đạo (善導), có được niềm tin sâu xa, nên ông quay về với pháp môn Chuyên Tu Niệm Phật. Sau đó, ông hạ sơn, chuyển đến Tây Sơn Quảng Cốc (西山廣谷), nhưng không bao lâu sau lại dời về vùng Cát Thủy (吉水, Yoshimuzu), Lạc Đông (洛東, Rakutō) và chuyên tâm bố giáo tại đây. Đến năm thứ 9 (1198) niên hiệu Kiến Cửu (建久), ông soạn bộ Tuyển Trạch Bổn Nguyện Niệm Phật Tập (選擇本願念佛集) để thể hiện lập trường cứu độ kẻ phàm phu, lấy 3 bộ Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經), Quán Vô Lượng Thọ Kinh (觀無量壽經), A Di Đà Kinh (阿彌陀經) cũng như Vãng Sanh Luận (徃生論) của Thế Thân (s: Vasubandhu, 世親) làm kinh luận y cứ cho tông phái, và chọn việc an tâm, khởi hành, tác nghiệp làm phương pháp tu hành. Tư tưởng của ông đã tạo ảnh hưởng to lớn đối với xã hội đương thời. Đặc biệt, nó đã kích động các tông phái của Phật Giáo cũ, làm gia tăng số lượng người ủng hộ pháp môn Niệm Phật và tạo ác cảm không ít. Sự đàn áp từ sự kiện của Trú Liên (住蓮) cũng như An Lạc Phòng Tuân Tây (安樂房遵西) ngày càng trở nên mãnh liệt, dẫn đến đình chỉ Niệm Phật; vì vậy vào năm đầu (1207) niên hiệu Thừa Nguyên (承元), từ Nguyên Không trở xuống cho đến nhóm đệ tử Thân Loan (親鸞, Shinran) đều bị lưu đày (gọi là Pháp Nạn Thừa Nguyên); nhưng từ đó số lượng người ủng hộ như hàng võ sĩ, nông dân lại tăng lên cao hơn. Vào năm thứ 2 (1212) niên hiệu Kiến Lịch (建曆), khi Nguyên Không qua đời, vị môn hạ trưởng lão Pháp Liên phòng Tín Không (法蓮房信空) lên kế thừa, muốn thống lãnh giáo đoàn, nên về mặt đối ngoại ông đã tạo sự luận tranh đối kháng với vị tổ của Trường Lạc Tự (長樂寺, Chōraku-ji) là Long Khoan (隆寬). Chính vì vậy, giáo đoàn gặp Pháp Nạn Gia Lộc (嘉祿法難), miếu thờ của Nguyên Không bị phá hoại, Long Khoan thì bị lưu đày đến địa phương Lục Áo (陸奥, Mutsu); nhưng kết quả việc này đã tạo sự khích lệ vô cùng to lớn cho sự phát triển Tịnh Độ Giáo ở vùng Quan Đông (關東, Kantō). Dòng phái của Long Khoan vốn chủ trương Đa Niệm Nghĩa (多念義) thì được nhóm Trí Khánh (智慶) thọ dung; riêng Hạnh Tây (幸西), người chủ trương Nhất Niệm Nghĩa (一念義), thì bị lưu đày đến Nhất Khi (壱岐), nhưng lại được nhóm Minh Tín (明信) ủng hộ. Dòng phái của Trường Tây (長西), người chủ trương Chư Hạnh Bổn Nguyện Nghĩa (諸行本願義) cũng hưng thạnh một thời, nhưng dần dần suy tàn. Mặt khác, vị tổ của môn đồ vùng Tử Dã (紫野, Murasakino) là Nguyên Trí (源智) lại khuyến khích triển khai hoạt động báo ân cho Nguyên Không, tạc bức tượng Phật A Di Đà (hiện an trí tại Ngọc Quế Tự [玉桂寺] thuộc Shiga-ken) để kết duyên với mọi người, nỗ lực phục hưng Tri Ân Viện và có được số lượng tín đồ khá đông. Bên cạnh đó, Chứng Không (証空), vị tổ của Tây Sơn Nghĩa (西山義), thì hoạt động dựa trên bối cảnh thế lực của Từ Viên (慈圓), làm cho Tịnh Độ Giáo thẩm thấu vào trong tầng lớp võ sĩ và quý tộc. Như vậy, sau khi Nguyên Không qua đời, giáo đoàn Chuyên Tu Niệm Phật đã phân hóa thành từng nhóm khác nhau và trở thành thời đại không thống nhất về mặt chính trị cũng như tổ chức giáo đoàn. Lương Trung (良忠), đệ tử của Biện Trường (辨長)—vị tổ của Trấn Tây Nghĩa (鎭西義) vốn hoạt động ở vùng Cửu Châu (九州, Kyūshū), đã đi qua vùng kinh đô Kyōto, Tín Nùng (信濃, Shinano), xuống Quan Đông (關東, Kantō), được cả dòng họ Thiên Diệp (千葉, Chiba) quy y theo và giáo hóa khắp các nơi; nhưng trở thành bất hòa từ vấn đề kinh tế tại đây nên ông tiến về vùng Liêm Thương (鎌倉, Kamakura), được Đại Phật Triêu Trực (大佛朝直) quy y theo, sáng lập Ngộ Chơn Tự (悟眞寺) và xác lập cơ sở ở địa phương này. Ngay như tu sĩ của các tông phái khác cũng tín nhiệm ông, nên ông rất nổi tiếng; nhưng vì cao tuổi và để sửa đổi lại những điều không thống nhất trong giáo nghĩa Tịnh Độ Tông, ông xuống Kyōto và cùng hòa hợp với Tín Huệ (信慧), đệ tử của Nguyên Trí (源智). Từ đó, ông thống nhất với môn đồ vùng Tử Dã, tạo thành cứ địa cho Dòng Trấn Tây Chánh Thống. Sau khi Lương Trung qua đời, Lương Hiểu (良曉) của Bạch Kỳ Phái (白旗派), Tánh Tâm (性心, tức Tánh Chơn [性眞]) của Đằng Điền Phái (藤田派), Tôn Quán (尊觀) của Danh Việt Phái (名越派, cả ba được gọi là Ba Phái Quan Đông), Nhiên Không (然空) của Nhất Điều Phái (一條派), Đạo Quang (道光) của Tam Điều Phái (三條派), Từ Tâm (慈心) của Mộc Phan Phái (木幡派, cả ba được gọi là Ba Phái Kinh Đô) phân hóa rõ rệt, mỗi người tự nỗ lực mở rộng giáo tuyến cho giáo phái mình. Khi chủ trương này càng lúc càng mạnh mẽ, ba đời của Tịnh Độ Tông gồm Nguyên Không, Biện Trường, Lương Trung càng được xác định rõ và Dòng Trấn Tây trở thành dòng phái chính của Tịnh Độ Tông. Riêng cuộc luận tranh giữa Danh Việt Phái và Bạch Kỳ Phái vẫn tiếp diễn cho đến thời đại Minh Trị (明治, Meiji). Danh Việt Phái lấy Fukushima-ken (福島縣) làm cứ địa để mở rộng giáo tuyến ở vùng đông bắc, còn Bạch Kỳ Phái thì mở rộng bố giáo ở trung tâm vùng Quan Đông. Đặc biệt, đến thời đại Thất Đinh (室町, Muromachi), có vị học tăng Tây Liên Xã Liễu Dự Thánh Quynh (西蓮社了譽聖冋) xuất hiện, đưa ra thuyết Ngũ Trùng Tương Truyền (五重相傳) để hệ thống hóa lại toàn bộ huyết mạch cũng như giáo nghĩa và tạo quyền uy đối với các tông phái khác. Sau đó, đệ tử ông là Đại Liên Xã Tây Dự Thánh Thông (大蓮社西譽聖聰) đã sáng lập Tăng Thượng Tự (増上寺) để nuôi dưỡng nhân tài. Hành Liên Xã Đại Dự Khánh Trúc (行蓮社大譽慶竺), đệ tử của Thánh Thông, tiến về kinh đô Kyōto và trú tại Tri Ân Tự (知恩寺, Chion-ji). Nhóm đệ tử của Thông Liên Xã Thán Dự Lương Triệu (聰蓮社嘆譽良肇), người khai sáng Hoằng Kinh Tự (弘經寺) ở Phạn Chiểu (飯沼), tiến về địa phương Tam Hà (三河, Mikawa), sáng lập Đại Ân Tự (大恩寺, Daion-ji), Đại Thọ Tự (大樹寺, Daijū-ji), Tín Quang Minh Tự (信光明寺, Shinkōmyō-ji), lấy những nơi này làm bàn đạp tiến về kinh đô Kyōto; cuối cùng Bạch Kỳ Phái làm chủ thế lực chiếm cứ toàn bộ vùng này. Sau đó, Tri Ân Viện và Tri Ân Viện tranh giành ngôi vị chủ tôn. Tịnh Hoa Viện (淨華院), căn cứ địa của Dòng Nhất Điều, được sự hộ trì của dòng họ Vạn Lý Tiểu Lộ (萬里小路) và trở nên hưng thịnh, nhưng lại bị quý tộc hóa. Trong lúc đó, Lương Như (良如)—đệ tử của Kính Pháp (敬法)—cũng tận lực giáo hóa hàng thứ dân ở địa phương Việt Tiền (越前, Echizen), còn Long Nghiêu (隆堯)—đệ tử của Định Huyền (定玄)—thì giáo hóa tại vùng Cận Giang (近江, Ōmi) và mở rộng giáo tuyến của họ. Như vậy, Tịnh Độ Tông đã được tổ chức hóa về mặt giáo nghĩa, tại các địa phương đều hình thành cơ sở hoạt động, nhưng không thống nhất. Nhân vật tổng hợp thống nhất toàn bộ những thế lực phân tán như vậy là Trinh Liên Xã Nguyên Dự Tồn Ứng (貞蓮社源譽存應), người từng lấy quyền lực của Tướng Quân Đức Xuyên Gia Khang (德川家康, Tokugawa Ieyasu) làm thế lực. Tồn Ứng chế ra Chế Độ Đàn Lâm (檀林制度), dựa trên Pháp Độ Nguyên Hòa (元和法度, các pháp độ của Tịnh Độ Tông) để xác lập Chế Độ Bản Mạt (本末制度, chế độ chùa tổ chùa con) và lập ra giáo đoàn mang tính hữu cơ. Tuy nhiên, dần dần nảy sinh hiện tượng sa đọa, phóng túng và thế tục hóa trong giáo đoàn. Đến thời Trung Kỳ của thời đại Giang Hộ (江戸, Edo), lại xuất hiện những vị tăng xa lìa thế tục như Đàn Thệ (彈誓), Tồn Dịch (存易), cuộc vận động hành trì giới luật của nhóm Linh Đàm (靈潭) cũng bộc phát và đã đem lại tính cách cách tân cho giáo đoàn. Về mặt giáo học, có nhóm Lương Định (良定), Văn Hùng (文雄) xuất hiện, tạo sự chú tâm của mọi người, nhưng cuối cùng cũng không có ảnh hưởng nào. Khi chính phủ Duy Tân (維新) ra đời, giáo đoàn đã gặp phải làn sóng Phế Phật Hủy Thích. Chế Độ Tri Ân Viện Môn Tích (知恩院門跡制度) bị phế chỉ và phải chịu biết bao thử thách đồng dạng với các tông phái khác. Tuy nhiên, nhờ sự hoạt động mạnh mẽ của nhóm Phước Điền Hành Giới (福田行誡), giáo đoàn đã vượt qua thời kỳ hỗn loạn. Đến hậu bán thời đại Minh Trị (明治, Meiji), Tịnh Độ Tông đã xác lập thể chế với tư cách là giáo đoàn cận đại. Về mặt học vấn, có những học giả lãnh đạo giới Phật Giáo Học như Vọng Nguyệt Tín Hanh (望月信亨), Độ Biên Hải Húc (渡邊海旭) xuất hiện, đã tạo nên thời đại hoàng kim của Tịnh Độ Tông từ niên hiệu Đại Chánh (大正, Taishō, 1912-1926) đến Chiêu Hòa (昭和, Shōwa, 1926-1989). Ngoài ra, cuộc vận động tín ngưỡng bắt đầu dấy khởi như Cọng Sanh Hội (共生會) của Chuy Vĩ Biện Khuông (椎尾辨匡), Quang Minh Hội (光明會) của Sơn Khi Biện Vinh (山崎辨榮), v.v., tập trung sự quan tâm của đa số quần chúng. Sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ II, phát sanh vấn đề độc lập phân phái trong Tịnh Độ Tông và cuối cùng vào năm thứ 36 (1961) niên hiệu Chiêu Hòa thì tông phái này đã thống nhất thành một thể. Hiện tại theo bản Tôn Giáo Niên Giám (宗敎年鑑, năm 1997) của Bộ Văn Hóa Nhật Bản, còn lại các phái như sau: Tịnh Độ Tông (淨土宗) có 7080 ngôi chùa, Tịnh Độ Tông Trấn Tây Thâm Thảo Phái (淨土宗鎭西深草派) có 283 ngôi chùa, Tịnh Độ Tông Tây Sơn Thiền Lâm Tự Phái (淨土宗西山禪林寺派) có 372 ngôi chùa, và Tây Sơn Tịnh Độ Tông (西山淨土宗) có 603 ngôi chùa. Một số ngôi tự viện trung tâm, nổi tiếng của tông phái này có Tri Ân Viện (知恩院, Chion-in, Kyōto-shi); Tăng Thượng Tự (增上寺, Zōjō-ji, Kyōto-to); Kim Giới Quang Minh Tự (金戒光明寺, Konkaikōmyō-ji, Kyōto-shi); Bách Vạn Biến Tri Ân Tự (百萬遍知恩寺, Hyakumanbenchion-ji, Kyōto-shi); Thanh Tịnh Hoa Viện (清淨華院, Shōjōkein, Kyōto-shi); Thiện Đạo Tự (善導寺, Zendō-ji, Fukuoka-ken); Quang Minh Tự (光明寺, Kōmyō-ji, Kanagawa-ken); Thiện Quang Tự (善光寺, Zenkō-ji, Nagano-ken); Thiền Lâm Tự (禪林寺, Zenrin-ji, Kyōto-shi); Thệ Nguyện Tự (誓願寺, Seigan-ji, Kyōto-shi), v.v.
(雲騈): có hai nghĩa khác nhau.
(1) Loại cỗ xe của tiên nhân trong truyền thuyết. Như trong bài Hoa Dương Tiên Sinh Đăng Lâu Bất Phục Hạ Tặng Trình (華陽先生登樓不復下贈呈) của Thẩm Ước (沉約, 441-513) của nhà Lương thời Nam Triều có câu: “Vân biền bất triển địa, tiên cư đa lệ tiều (雲騈不展地、仙居多麗譙, xe mây chẳng chấm đất, cõi tiên nhiều lầu xinh).” Hay như trong bài tựa Dong Thành Tập Tiên Lục (墉城集仙錄) của Đỗ Quang Đình (杜光庭, 850-933) nhà Tiền Thục có đoạn: “Hoặc vi chân nhân chi hữu, hoặc vi Thiên Đế chi tân, thúc hốt nhi long giá lai nghênh, tham sai nhi vân biền hà mại (或爲眞人之友、或爲天帝之賓、倏忽而龍駕來迎、參差而雲騈遐邁, hoặc là bạn của chân nhân, hoặc là khách của Thiên Đế, bỗng chốc mà xe rồng đến đón, dần dần mà xe tiên xa tít).”
(2) Mây lành tụ tập. Như trong Lễ Xá Lợi Tháp Nghi Thức (禮舍利塔儀式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1491) có câu: “Đại địa chúng sơn kỳ thắng xứ, Đỉnh Hồ tú xuất bảo liên phong, vân biền thọ vũ phù đồ hiện, vạn cổ thư quang phước Việt trung (大地眾山奇勝處、鼎湖秀出寶蓮峰、雲騈樹舞浮圖現、萬古舒光福粵中, đại địa núi non kỳ lạ chốn, Đỉnh Hồ xuất hiện báu non sen, mây vờn cây múa chùa tháp hiện, vạn cổ sáng ngời đất Việt trong).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập