Mạng sống quý giá này có thể chấm dứt bất kỳ lúc nào, nhưng điều kỳ lạ là hầu hết chúng ta đều không thường xuyên nhớ đến điều đó!Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Sống chạy theo vẻ đẹp, không hộ trì các căn, ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần; ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió.Kinh Pháp cú (Kệ số 7)
Hãy làm một người biết chăm sóc tốt hạt giống yêu thương trong tâm hồn mình, và những hoa trái của lòng yêu thương sẽ mang lại cho bạn vô vàn niềm vui và hạnh phúc.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Hãy dang tay ra để thay đổi nhưng nhớ đừng làm vuột mất các giá trị mà bạn có.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hạnh phúc đích thực không quá đắt, nhưng chúng ta phải trả giá quá nhiều cho những thứ ta lầm tưởng là hạnh phúc. (Real happiness is cheap enough, yet how dearly we pay for its counterfeit.)Hosea Ballou
Không thể dùng vũ lực để duy trì hòa bình, chỉ có thể đạt đến hòa bình bằng vào sự hiểu biết. (Peace cannot be kept by force; it can only be achieved by understanding.)Albert Einstein
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Sự kiên trì là bí quyết của mọi chiến thắng. (Perseverance, secret of all triumphs.)Victor Hugo
Tôi tìm thấy hy vọng trong những ngày đen tối nhất và hướng về những gì tươi sáng nhất mà không phê phán hiện thực. (I find hope in the darkest of days, and focus in the brightest. I do not judge the universe.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tôi không thể thay đổi hướng gió, nhưng tôi có thể điều chỉnh cánh buồm để luôn đi đến đích. (I can't change the direction of the wind, but I can adjust my sails to always reach my destination.)Jimmy Dean
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Liên Hoa »»
(s: Vakkula, Bakkula, Bakula, Vakula, p: Bakkula, Bākula, 薄拘羅): còn gọi là Bạc Cự La (薄炬羅), Bạc Câu La (薄俱羅), Ba Cưu Lãi (波鳩蠡), Bà Câu La (婆拘羅), Ba Câu Lô (波拘盧), Phược Củ La (縛矩羅), v.v. Hán dịch là Thiện Dung (善容), Vĩ Hình (偉形), Trùng Tánh (重姓). Pháp Hoa Văn Cú (法華文句, tức Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú [妙法蓮華經文句, Taishō No. 1718]) quyển 2 cho biết rằng: “Bạc Câu La giả, thử phiên Thiện Dung, hoặc Vĩ Hình, hoặc Đại Phì Thịnh, hoặc Lăng Đặng, hoặc Mại Tánh; nhiên nhi sắc mạo đoan chánh cố ngôn Thiện Dung dã; niên nhất bách lục thập tuế vô bệnh vô yểu, hữu ngũ bất tử báo (薄拘羅者、此翻善容、或偉形、或大肥盛、或楞鄧、或賣性、然而色貌端正故言善容也、年一百六十歲無病無夭、有五不死報, Bạc Câu La, Tàu dịch là Thiện Dung, hoặc Vĩ Hình, hoặc Đại Phì Thịnh, hoặc Lăng Đặng, hoặc Mại Tánh; tuy nhiên vì có sắc mạo đoan chánh nên gọi là Thiện Dung; sống đến 160 tuổi, không bệnh, không chết yểu, nhờ quả báo của 5 điều bất tử).” Huyền Ứng Âm Nghĩa (玄應音義) quyển 22 lại giải thích rằng: “Bạc Câu La, Trung Quốc dịch là Thiện Dung, do trì giới không sát sanh mà được 5 điều bất tử.” Kinh Bạc Câu La (薄拘羅經) của Trung A Hàm Kinh (中阿含經, Taishō No. 26) quyển 8 cho hay rằng: “Ngã ư thử chánh pháp, Luật trung học đạo dĩ lai bát thập niên, vị tằng hữu bệnh, nãi chí đàn chỉ đầu thống giả, vị tằng ức phục dược, nãi chí nhất phiến Ha Lê Lặc (我於此正法、律中學道已來八十年、未曾有病、乃至彈指頃頭痛者、未曾憶服藥、乃至一片訶梨勒, ta ở trong chánh pháp, Luật, học đạo đến nay đã 80 năm, mà chưa từng có bệnh, cho dù là đau đầu trong khoảng thời gian một cái khảy móng tay; chưa từng uống thuốc dù là một miếng Ha Lê Lặc).” Vì trong thời quá khứ của Tỳ Bà Thi Phật (s: Vipaśyin-buddha, p: Vipassin-buddha, 毘婆尸佛), Tôn Giả đã từng lấy thuốc Ha Lê Lặc dâng cúng cho một vị tăng chứng quả Bích Chi Phật. Từ đó đến nay, trãi qua 91 kiếp, ông đều được phước báo không bệnh tật, và không chết yểu. Hơn nữa, nhân hành trì giới không sát sanh, ông được quả báo 5 điều bất tử (không bị lửa thiêu đốt cháy chết, nước sôi không làm cho phỏng chín thân, không bị chết chìm trong nước, không bị cá cắn, không bị đao chém thây). Tương truyền lúc nhỏ, bà kế mẫu đã từng rắp tâm sát hại ông 5 lần mà không thành (tức 5 điều bất tử), do vì đời trước ông đã từng tinh tấn hành trì giới không sát sanh. Sau khi lớn lên xuất gia, chỉ trong 3 ngày, ông chứng quả A La Hán. Ông không bị quả báo khổ đau vì bệnh tật, thọ 160 tuổi, được xưng tụng là Trường Thọ Đệ Nhất. Theo A Dục Vương Kinh (阿育王經), A Dục Vương (s: Aśoka, p: Asoka, 阿育王) là người thâm tín Phật pháp, thi hành nhân chính, thống nhất thiên hạ, kiến lập vương triều Khổng Tước (孔雀). Có hôm nọ, nhà vua cùng với Tôn Giả Ưu Ba Cấp Đa (s: Upagupta, 優波笈多) tham bái các ngôi tháp, tiến hành bố thí cúng dường. Khi đến bên tháp của Bạc Câu La, Tôn Giả Ưu Ba Cấp Đa thưa nhà vua rằng đây là tháp của Bạc Câu La, nhà vua nên cúng dường. A Dục Vương bèn hỏi rằng vị Tôn Giả này có công đức thù thắng nào mà đáng cúng dường như vậy ? Ưu Ba Cấp Đa trả lời rằng vị Tôn Giả này là người không có bệnh tật số một trong các đệ tử của Phật, yên lặng tu hành, thiểu dục tri túc. Nghe vậy, nhà vua lấy một đồng tiền cúng dường nơi tháp. Tuy nhiên, đồng tiền kia lại bay đi, trở lại bên chân của A Dục Vương. Khi ấy, nhà vua bảo rằng: “Vị A La Hán này có năng lực công đức thiểu dục, cho đến khi chứng quả Niết Bàn mà vẫn không thọ nhận một đồng tiền.”
(北條經時, Hōjō Tsunetoki, 1224-1246): nhà chấp quyền của chính quyền Mạc Phủ Liêm Thương; thân phụ là Bắc Điều Thời Thị (北條時氏, Hōjō Tokiuji), thân mẫu là Tùng Hạ Thiền Ni (松下禪尼, Matsushitazenni); cải danh là Tảo Thượng Ngự Tiền (藻上御前), An Lạc (安樂); biệt danh là Thái Lang (太郎), Tả Cận Đại Phu (左近大夫); giới danh là Liên Hoa Tự An Lạc (蓮華寺安樂). Sau khi Bắc Điều Thái Thời (北條泰時, Hōjō Yasutoki) qua đời, với tư cách là cháu đích tôn, ông kế thừa chức vị của người này. Chính ông đã cưỡng chế giải nhiệm chức Tướng Quân Cửu Điều Lại Kinh (九條賴經, Kujō Yoritsune, tức Đằng Nguyên Lại Kinh [藤原賴經, Fujiwara-no-Yoritsune]) và đưa người con 6 tuổi là Lại Tự (賴嗣, Yoritsugu) lên nắm quyền.
(s, p: puṇḍarīka, 白蓮): âm dịch là Phân Đà Lợi Ca (分陀利迦), Bôn Trà Lợi Ca (奔茶利迦), Phân Trà Lợi Ca (分茶利迦); là một loại hoa sen màu trắng. Theo Đại Nhật Kinh Sớ (大日經疏) quyển 15 cho biết rằng loại hoa này tuyết trắng như bạc, sáng rực có thể làm hoa mắt, hương của nó rất thơm, chủ yếu sống trong hồ A Nậu Đạt (阿耨達); con người ít khi thấy được nó, vốn sanh từ trong bùn ra, nhưng không nhiễm ô mùi bùn; vì vậy hoa này thường được ví cho Phật tánh, tuy ở trong phiền não nhưng không bị phiền não làm cho ô nhiễm. Như trong phần bạt hậu của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka, 妙法蓮華經) có giải thích rằng loại hoa này khi chưa nở thì gọi là Khuất Ma La (屈摩羅), khi sắp rụng cánh là Ca Ma La (迦摩羅) và khi đang nở rộ là Phân Đà Lợi (分陀利). Kinh này ví diệu pháp của Phật như là hoa sen trắng lớn. Quẻ bói thứ 22, Bính Ất (丙乙), loại thượng cát (上吉, rất tốt) của Đạo Giáo, tên là Lý Thái Bạch Ngộ Đường Minh Hoàng (李太白遇唐明皇) có câu: “Bích ngọc trì trung khai bạch liên, trang nghiêm sắc tướng tự thiên nhiên, sanh lai cốt cách siêu phàm tục, chánh thị nhân gian đệ nhất tiên (碧玉池中開白蓮、莊嚴色相自天然、生來骨骼超凡俗、正是人間第一仙, bích ngọc hồ trong nở trắng sen, trang nghiêm sắc tướng tự thiên nhiên, sanh ra cốt cách siêu phàm tục, quả đúng trên đời đệ nhất tiên).” Thi sĩ Lục Quy Mông (陸龜蒙, ?-881) nhà Đường có làm bài thơ tựa đề Bạch Liên như sau: “Tố hoa đa mông biệt diễm khi, thử hoa đoan hợp tại Diêu Trì, vô tình hữu hận hà nhân kiến, nguyệt hiểu phong thanh dục đọa thì (素花多蒙別艷欺、此花端合在瑤池、無情有恨何人見、月曉風清欲墮時, hoa thẹn thùng che đẹp chớ khi, hoa này rất hợp ở Diêu Trì, vô tình mang hận không người thấy, gió mát trăng thanh lại rụng đi).”
(白象): voi trắng toàn thân, vì con voi có uy lực lớn nhưng tánh tình nhu thuận, cho nên khi vị Bồ Tát vào mẫu thai thường cỡi con voi trắng có sáu ngà hay hiện thân hình con voi trắng, biểu thị tánh của vị Bồ Tát khéo nhu hòa nhưng có oai lực vĩ đại. Bên cạnh đó, 6 ngà voi thể hiện tinh thần Lục Độ (六度), 4 chân là Tứ Như Ý (四如意). Bồ Tát Phổ Hiền (s: Samantabhadra, 普賢) cỡi con voi trắng 6 ngà cũng thí dụ cho oai lực vô song như vậy. Như trong Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Khuyến Phát (普賢菩薩勸發品) thứ 28 của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka,妙法蓮華經) có giải thích rằng: “Thị nhân nhược tọa, tư duy thử kinh, nhĩ thời ngã phục thừa bạch tượng vương, hiện kỳ nhân tiền, kỳ nhân nhược ư Pháp Hoa Kinh, sở hữu vong thất nhất cú nhất kệ, ngã đương giáo chi, dữ cọng độc tụng, hoàn linh thông lợi (是人若坐、思惟此經、爾時我復乘白象王、現其人前、其人若於法華經、有所忘失一句一偈、我當敎之、與共讀誦、還令通利, người ấy nếu ngồi, suy nghĩ kinh này, lúc bấy giờ ta lại cỡi vua voi trắng, hiện trước mặt người đó, nếu người đó đối với Kinh Pháp Hoa, bị sai mất một câu một bài kệ, ta sẽ chỉ cho, cùng với người đó đọc tụng, khiến được thông lợi).” Quá Khứ Hiện Tại Nhân Quả Kinh (過去現在因果經, Taishō 3, 624) quyển 1 có đoạn rằng: “Nhĩ thời, Bồ Tát quán giáng thai thời chí, tức thừa lục nha bạch tượng phát Đâu Suất cung; vô lượng chư thiên tác chư kỷ nhạc, thiêu chúng danh hương, tán thiên diệu hoa, tùy tùng Bồ Tát (爾時、菩薩觀降胎時至、卽乘六牙白象發兜率宮、無量諸天作諸伎樂、燒眾名香、散天妙花、隨從菩薩, lúc bấy giờ, Bồ Tát quán sát đã đến lúc giáng xuống bào thai, liền cỡi con voi trắng sáu ngà từ trên cung trời Đâu Suất xuống; vô lượng các vị trời trỗi những thứ âm nhạc, đốt các loại hương thơm, rãi hoa trời tuyệt diệu, theo Bồ Tát xuống)”. Bên cạnh đó, Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀, Taishō 46, 14) quyển 2 có giải thích rằng: “Ngôn lục nha bạch tượng giả, thị Bồ Tát vô lậu lục thần thông; nha hữu lợi dụng như thông chi tiệp tật, tượng hữu đại lực, biểu pháp thân hà phụ, vô lậu vô nhiễm, xưng chi vi bạch (言六牙白象者、是菩薩無漏六神通、牙有利用如通之捷疾、象有大力、表法身荷負、無漏無染、稱之爲白, voi trắng sáu ngà là vị Bồ Tát có sáu thần thông vô lậu; ngà có mũi nhọn có thể xuyên qua rất nhanh; voi có sức mạnh phi thường, thể hiện cho pháp thân gánh vác nặng; không bị rỉ ra, không bị nhiễm ô, cho nên gọi nó là trắng)”.
(寶杵): chày báu, tên gọi khác của Kim Cang Chử (s: varja, 金剛杵), Hàng Ma Chử (降魔杵); âm dịch là Phược Nhật Ra (縛日囉), Phạt Chiết Ra (伐折囉), Bạt Chiết Ra (跋折囉), Phạt Xà Ra (伐闍囉). Loại pháp khí này nguyên xưa kia là vũ khí của cổ đại Ấn Độ, do vì nó cứng rắn, có thể đột phá các thứ vật chất khác, nên gọi là Kim Cang Chữ. Trong Mật Giáo, Kim Cang Chử tượng trưng cho Bồ Đề Tâm có thể phá tan phiền não, được dùng như là đạo cụ hay vật dụng đặc biệt để tu pháp. Các đấng chủ tôn trong Hải Hội Mạn Trà La (曼荼羅海會) đều có cầm cây Bảo Chử này. Hành giả của Chơn Ngôn Tông cũng thường mang theo đạo cụ này bên mình. Nó còn tượng trưng cho trí tuệ đại dụng của Như Lai Kim Cang (如來金剛), có thể phá trừ nội ma của ngu si, vọng tưởng cũng như ma chướng của ngoại đạo. Ban đầu, Kim Cang Chữ có mũi nhọn, rất bén; về sau khi nó được dùng làm pháp khí thì hình thức có thay đổi khá nhiều. Có rất nhiều loại Kim Cang Chử với các chất liệu khác nhau như vàng, bạc, đồng, sắt, đá, thủy tinh, gỗ đàn, xương người, v.v. Chiều dài của Kim Cang Chữ cũng khác nhau như loại dài 8 ngón tay, 10 ngón, 12 ngón, 16 ngón, 20 ngón, v.v. Với tư cách là một loại pháp khí của Phật Giáo, Kim Cang Chử có nhiều hình dáng khác nhau: Độc Cổ (獨股, một đầu), Nhị Cổ (二股, hai đầu), Tam Cổ (三股, ba đầu), Tứ Cổ (四股, bốn đầu), Ngũ Cổ (五股, năm đầu), Cửu Cổ (九股, chín đầu), Tháp Chử (塔杵, chày hình tháp), Bảo Chữ (寶杵), v.v. Trong số đó, loại Độc Cổ, Tam Cổ và Ngũ Cổ là thường gặp nhất; tượng trưng cho pháp giới độc nhất, Tam Mật Tam Thân (三密三身) và Ngũ Trí Ngũ Phật (五智五佛). Độc Cổ, Tam Cổ, Ngũ Cổ, Bảo Chử và Tháp Chử được gọi là Ngũ Chủng Chử (五種杵, năm loại chày). Trong đó, Độc Cổ là loại có hình thức tối cổ, mũi nhọn dài, là vật cầm tay của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ (密迹金剛力士). Trong đó, loại Độc Cổ Chử có hình thức cổ nhất, là vật thường cầm trên tay của Mật Tích Kim Cang Lực Sĩ (密跡金剛力士). Ngoài ra, Kim Cang Thủ (金剛手) trong 40 tay của Thiên Thủ Quan Âm (千手觀音), một trong 108 bàn tay của Kim Cang Vương Bồ Tát (金剛王菩薩) đều cầm loại Độc Cổ này. Trong 5 loại này, Độc Cổ Chử tương ứng với Liên Hoa Bộ (蓮華部), đặt ở phương Tây của đại đàn. Tam Cổ Chử tương ứng với Yết Ma Bộ (羯磨部), đặt ở phương Bắc của đại đàn. Về cách dùng của Kim Cang Chử, khi cầu thành tựu sự vật, tu pháp của Kim Cang Bộ thì dùng loại Ngũ Cổ Chữ; khi gia trì thì dùng Tam Cổ Chử; khi hành đạo niệm tụng, tu pháp của Phật Bộ, Liên Hoa Bộ thì dùng Độc Cổ Chử; khi tu pháp Đại Uy Đức Minh Vương (大威德明王) thì dùng loại Cửu Cổ Chử. Ngũ Cổ Chử còn gọi là Ngũ Trí Kim Cang Chử (五智金剛杵), Ngũ Phong Kim Cang Chử (五峰金剛杵), Ngũ Phong Quang Minh (五峰光明), Ngũ Cổ Kim Cang (五股金剛); 5 thân hay 5 đỉnh nhọn của loại này tượng trưng cho Ngũ Trí Ngũ Phật (五智五佛). Hình tượng của Bồ Tát Vi Đà (s: Skanda, p: Khanda, 韋馱) thường có cầm trên tay cây Kim Cang Chử hay Bảo Chử để hàng phục ma quân, dẹp yên tà ma, bảo vệ chánh pháp. Cho nên, trong Thiền môn vẫn thường tụng bài xưng tán Bồ Tát Vi Đà rằng: “Vi Đà Thiên Tướng, Bồ Tát hóa thân, ủng hộ Phật pháp thệ hoằng thâm, Bảo Chử trấn ma quân, công đức nan luân, kỳ đảo phó quần tâm (韋馱天將、菩薩化身、擁護佛法誓弘深、寶杵鎮魔軍、功德難倫、祈禱副群心, Vi Đà Thiên Tướng, Bồ Tát hóa thân, ủng hộ Phật pháp thệ nguyện thâm, Chày Báu nhiếp ma quân, công đức khó lường, cầu nguyện khắp nhân tâm).” Trong Trùng Biên Chư Tôn Truyện (重編諸天傳, CBETA No. 1658) có câu: “Đế Thích Kim Cang Bảo Chữ, năng diệt A Tu La (帝釋金剛寶杵、能滅阿修羅, Chày Báu Kim Cang của Đế Thích có thể diệt trừ A Tu La).” Hay như trong Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du Tập (憨山老人夢遊集, CBETA No. 1456) quyển 34 của Hám Sơn Đức Thanh (憨山德清, 1546-1623) có bài tán về Tứ Tý Quan Âm Đại Sĩ (四臂觀音大士) rằng: “Thông thân thủ nhãn, hà chỉ hữu tứ, ư vô tận trung, liêu nhĩ như thị, Bảo Chữ không ma, chơn kinh vô tự, tổng thị thần thông, bất tư nghì sự (通身手眼、何只有四、於無盡中、聊爾如是、寶杵空魔、眞經無字、總是神通、不思議事, khắp mình tay mắt, sao chỉ có bốn, trong vô tận ấy, vẫn cứ như vậy, Chày Báu dẹp ma, chơn kinh không chữ, thảy là thần thông, chuyện chẳng nghĩ bàn).”
(寶塔): tháp báu, từ mỹ xưng của tháp Phật, cũng chỉ cho ngôi tháp được trang sức bằng các thứ trân bảo; sau này chỉ chung cho các ngôi tháp. Như trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) quyển 4, Phẩm Kiến Bảo Tháp (見寶塔品) thứ 11, có câu: “Nhĩ thời Đa Bảo Phật, ư bảo tháp trung phân bán tòa dữ Thích Ca Mâu Ni Phật (爾時多寶佛、於寶塔中分半座與釋迦牟尼佛, lúc bấy giờ đức Phật Đa Bảo, ở trong tháp báu chia nữa tòa ngồi cho đức Phật Thích Ca Mâu Ni).” Hay trong bài Vi Thuấn Xà Lê Tạ Ngự Đề Đại Thông Đại Chiếu Hòa Thượng Tháp Ngạch Biểu (爲舜闍黎謝御題大通大照和尚塔額表) của Vương Duy (王維, 692-761) nhà Đường có câu: “Giáng xuất thiên môn, thăng ư bảo tháp (降出天門、升於寶塔, giáng xuống cổng trời, bay lên bảo tháp).” Hoặc trong Quảng Thanh Lương Truyện (廣清涼傳, Taishō Vol. 51, No. 2099) quyển 2, phần Vô Tước Hòa Thượng Nhập Hóa Bát Nhã Tự (無著和尚入化般若寺) 13, có bài kệ rằng: “Nhược nhân tĩnh tọa nhất tu du, thắng tạo Hằng sa thất bảo tháp, bảo tháp tất cánh hoại vi trần, nhất niệm tịnh tâm thành chánh giác (若人靜坐一須臾、勝造恆沙七寶塔、寶塔畢竟壞微塵、一念淨心成正覺, nếu người tĩnh tọa trong khoảnh khắc, hơn tạo Hằng sa tháp bảy báu, tháp báu cuối cùng thành cát bụi, một niệm lắng tâm thành chánh giác).”
(本能寺, Honnō-ji): một trong 4 ngôi chùa trung tâm của Dòng Bổn Môn (本門流) thuộc Pháp Hoa Tông; hiện tọa lạc tại Teramachidōri (寺町通), Chūkyō-ku (中京區), Kyoto-shi (京都市); hiệu là Mão Mộc Sơn (卯木山). Tượng thờ chính là bức đồ hình Mạn Trà La Nam Mô Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (南無妙法蓮華經). Đây là ngôi chùa rất nổi tiếng mà ai ai cũng biết đến như là nơi cuối đời của Tướng Quân Chức Điền Tín Trưởng (織田信長, Oda Nobunaga) dưới thời đại Chiến Quốc. Tên cũ của chùa là Bổn Ứng Tự (本應寺). Chùa được Nhật Long Thượng Nhân (日隆上人) sáng lập vào năm 1415 (Ứng Vĩnh [應永] 22), nhưng không bao lâu sau đó thì bị phá tan tành do cuộc tranh giành trong cùng môn phái. Đến năm 1433 (Vĩnh Hưởng [永享] 5), chùa được Như Ý Vương Hoàn (如意王丸) tái kiến lại, và đổi tên chùa như hiện tại. Vào năm 1535 (Đại Vĩnh [大永] 5), chùa lại bị đồ chúng Sơn Môn đốt cháy lần nữa. Quần thể kiến trúc đương thời khi xảy ra Vụ Biến Động Bổn Năng Tự là kiến trúc vô cùng to lớn do Nhật Thừa (日承), vị Tổ đời thứ 8 của chùa, di dời đến vào năm 1545 (Thiên Văn [天文] 14). Thế nhưng vào ngày mồng 2 tháng 6 năm 1582 (Thiên Chánh [天正] 10), Chức Điền Tín Trưởng bị Minh Trí Quang Tú (明智光秀, Akechi Mitsuhide) tấn công bất ngờ và đốt cháy toàn bộ kiến trúc chùa. Địa vức hiện tại của chùa là vị trí được di chuyển đến vào năm 1591 (Thiên Chánh 17), được dòng họ Đức Xuyên hộ trì đắc lực, nhưng cũng đã mấy lần bị hỏa tai. Bổn Năng Tự hiện tại là kiến trúc được xây dựng vào năm 1928 (Chiêu Hòa [昭和] 3), có tháp cúng dường cho Chức Điền Tín Trưởng, mộ của vị quan sủng mộ của ông là Sum Lan Hoàn (森蘭丸), v.v.
(眞興, Shingō, 935-1004): vị học tăng của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, sống vào giữa thời Bình An, Tổ của Dòng Tử Đảo (子島流), húy là Chơn Hưng (眞興), thông xưng là Tử Đảo Tăng Chánh (子島僧正), Tử Đảo Tiên Đức (子島先德); xuất thân vùng Hà Nội (河內, Kawachi, thuộc Osaka). Vào năm 949, ông vào tu ở Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji), theo hầu Trọng Toán (仲算), chuyên tu học về Duy Thức, Nhân Minh. Sau đó, ông theo học Mật Giáo với Nhân Hạ (仁賀) ở vùng Cát Dã (吉野, Yoshino), và đến năm 983 thì thọ phép Quán Đảnh. Ông đến trú tại Nam Pháp Hoa Tự (南法華寺, tức Hồ Phản Tự [壺阪寺]), sau lại chuyển về Tử Đảo Tự (子島寺, Koshima-dera) và bắt đầu khai mở pháp diên tại đây; cho nên dòng pháp của ông được gọi là Dòng Tử Đảo. Đến năm 1003, ông làm Giảng Sư cho Duy Ma Hội của Hưng Phước Tự (興福寺, Kōfuku-ji), rồi năm sau cũng làm Giảng Sư cho Ngự Trai Hội (御齋會), và được bổ nhiệm làm Quyền Thiếu Tăng Đô. Trước tác của ông có Duy Thức Nghĩa Tư Ký (唯識義私記) 12 quyển, Nhân Minh Toản Lược Ký (因明纂略記) 1 quyển, Pháp Hoa Kinh Huyền Tán Nhất Thừa Nghĩa Tư Ký (法華經玄讚一乘私記) 1 quyển, Liên Hoa Thai Tạng Giới Nghi Quỹ Giải Thích (蓮華胎藏界儀軌解釋) 3 quyển, v.v.
(s: Cundi, t: bskul-bye-kma, 準提): âm dịch là Chuẩn Đề (准提、准胝), Chuẩn Nê (准泥), ý dịch là thanh tịnh, còn gọi là Chuẩn Đề Quan Âm (准提觀音), Chuẩn Đề Phật Mẫu (准提佛母), Phật Mẫu Chuẩn Đề (佛母准提), Thiên Nhân Trượng Phu Quan Âm (天人丈夫觀音), Thất Câu Chi Chuẩn Đề Đại Phật Mẫu (七俱胝準提大佛母); là vị Bồ Tát thường xuyên hộ trì Phật pháp, hộ mạng và làm cho những người đoản mạng được sống lâu; có sự cảm ứng rất lớn, trí tuệ cũng như phước đức của Ngài thì vô lượng. Bên cạnh đó, Ngài còn được sùng tín để cầu tiêu trừ tai nạn, cầu con, trừ tật bệnh, v.v., tùy duyên hóa hiện để cứu độ chúng sanh, làm cho thế gian và xuất thế gian tròn đầy hết thảy sự cầu nguyện. Trong Thiền Tông của Trung Quốc và Nhật Bản, Ngài được xem như là một trong những đấng chủ tôn của Quan Âm Bộ. Đặc biệt Thai Mật của Nhật Bản lấy Chuẩn Đề nhập vào Phật Mẫu, trở thành một trong những đối tượng tôn thờ của Phật bộ. Còn Đông Mật của Nhật Bản xem Chuẩn Đề là một trong 6 Quan Âm (Thiên Thủ Quan Âm, Thánh Quan Âm, Mã Đầu Quan Âm, Thập Nhất Diện Quan Âm, Chuẩn Đề Quan Âm, Như Ý Luân Quan Âm) của Liên Hoa Bộ. Ngài là thân ứng hóa của Quan Âm, phân nhập vào trong Sáu Đường để cứu độ chúng sanh. Ngài được an trí tại Biến Tri Viện (遍知院) của Hiện Đồ Thai Tạng Giới, hình tượng thường có 3 mắt với 2 tay, 4 tay, 6 tay, 8 tay, hay 18 tay, v.v. Trong Phật Thuyết Thất Câu Chi Phật Mẫu Đại Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh (佛說七俱胝佛母心大准提陀羅尼經) có thuật lại rằng khi ở tại Vườn Cấp Cô Độc (給孤獨園), thuộc nước Xá Vệ (s: Śrāvastī, p: Sāvatthī, 舍衛), đức Phật tư duy quán sát, thương tưởng các chúng sanh trong đời tương lai, nên tuyên thuyết “Thất Câu Chi Phật Mẫu Tâm Chuẩn Đề Đà La Ni Pháp (七俱胝佛母心准提陀羅尼法)”, tức là Chuẩn Đề Chú (準提咒) được các tín đồ Phật Giáo thường trì tụng. Bản tiếng Sanskrit của thần chú này là: “Namaḥ saptānāṃ samyaksaṃbuddha-koṭīnāṃ tad yathā. Oṃ cale cule cundi svāhā.”; âm Hán dịch theo bản Thất Câu Chi Phật Mẫu Sở Thuyết Chuẩn Đề Đà La Ni Kinh (七倶胝佛母所說准提陀羅尼經) của Bất Không (不空) dịch là: “Na mạc tát đa nam tam miệu tam một đà cu chi nam đát nhĩ dã tha, án, giả lễ chủ lễ chuẩn nê ta phạ ha (娜莫颯多南三藐三没駄倶胝南怛儞也他唵者禮主禮准泥娑嚩訶)”; nghĩa là “Con xin quy y theo đức Phật Chánh Đẳng Giác Thất Câu Chi (vạn ức). Tức là, Oṃ (Án). Hỡi đấng chuyển động quanh ! Hỡi đấng trên đảnh đầu ! Hỡi đức Chuẩn Đề ! Svāhā (ta phạ ha) !” Thần chú này được xem như là vua trong các thần chú, vì uy lực gia trì của nó không thể nghĩ bàn, sự cảm ứng của nó thì rất nhanh và mãnh liệt. Người trì tụng thần chú này có thể cầu được thông minh, trí tuệ, biện luận lanh lợi; chồng vợ thương kính nhau, khiến cho người khác sanh tâm kính mến; cầu được con nối dõi, kéo dài mạng sống, trị lành các bệnh tật, diệt trừ tội chướng; cầu được trời mưa, rời xa giam cầm, thoát khỏi nạn ác quỷ, ác tặc, v.v. Chuẩn Đề Phật Mẫu còn có 8 vị Bồ Tát là quyến thuộc, như Quán Tự Tại Bồ Tát (觀自在菩薩), Di Lặc Bồ Tát (彌勒菩薩), Hư Không Tạng Bồ Tát (虛空藏菩薩), Phổ Hiền Bồ Tát (普賢菩薩), Kim Cang Thủ Bồ Tát (金剛手菩薩), Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát (文殊師利菩薩), Trừ Cái Chướng Bồ Tát (除蓋障菩薩) và Địa Tạng Bồ Tát (地藏菩薩).
(鼓): trống; tên loại nhạc khí, được chế tạo bằng vàng, ngọc, gỗ, đá, v.v. Đối với Phật Giáo, trống cũng là một trong những pháp khí quan trọng trong các tự viện. Vào thời cổ đại của Trung Quốc, trống được dùng như là vật môi giới thông với chư vị thần linh, là vật tượng trưng giao lưu với thế giới tự nhiên, có sắc thái thần bí, được lịch sử rất xem trọng. Trong các thư tịch cổ có liệt kê hơn 300 loại trống, tùy theo hình chế mà có phân chia thành 7 loại khác nhau như: Đại Cổ (大鼓), Kiến Cổ (建鼓), Cổ (鼓), Huyền Cổ (懸鼓, trống treo), Thủ Cổ (手鼓, trống cầm tay), Trượng Cổ (杖鼓, trống có dây thắt ở hai đầu), Đồng Thạch Cổ (銅石鼓, trống bằng đồng, đá). (1) Đại Cổ (Trống Lớn) là trống có ngoại hình lớn nhất, loại đại biểu nhất cho trống cổ đại Trung Quốc, được đặt trên giá, dùng đùi lớn để đánh. Trong Lã Thị Xuân Thu (呂氏春秋), Thiên Xỉ Lạc (侈樂篇) có đoạn rằng: “Hạ Kiệt, Ân Trụ tác vi Xỉ Nhạc, Đại Cổ, Chung, Khánh, Quản, Tiêu lục âm, dĩ cự vi mỹ, dĩ chúng vi quan (夏傑、殷紂作爲侈樂,大鼓、鐘、磬、管、簫六音,以鉅爲美,以眾爲觀, vua Hạ Kiệt, vua Ân Trụ làm thành sáu loại âm thanh là Xỉ Nhạc, Trống Lớn, Chuông, Khánh, Sáo, Tiêu; lấy móc sắt treo lên cho đẹp, để mọi người chiêm ngưỡng).” Như vậy, trống đã có mặt hơn 17 thế kỷ trước công nguyên, thường được sử dụng trong các nhạc đội của cung đình. Loại Trống Lớn thời Cổ Đại có công năng rất rộng lớn, được dung để tế tự, cúng tế, nghi tiết trọng đại, quân sự, báo thì giờ; hoặc dùng cho việc khánh chúc hôn lễ, thông báo tang lễ, v.v. Khi trống được dùng trong các buổi yến tiệc của cung đình thì có khí thế hùng tráng. Như trong của Cựu Đường Thư (舊唐書), phần Âm Nhạc (音樂), cho biết rằng: “Huyền Tông tại vị đa niên, thiện âm nhạc; nhược yến thiết phủ hội, tức ngự Cần Chính Lâu, … thái thường đại cổ, nhạc công tề kích, thanh chấn thành khuyết (玄宗在位多年、善音樂、若宴設甫會、卽御勤政樓、…太常大鼓、樂工齊擊、聲震城關, Huyền Tông tại vị nhiều năm, có tài về âm nhạc; nếu có thiết bày yến tiệc, liền đến ngự tại Lầu Cần Chính, trống lớn khác thường, nhạc công cùng đánh, âm thanh vang chấn động khắp thành quách).” Dưới thời nhà Chu (1046-256 ttl.), trống lớn được dùng làm hiệu lệnh chỉ huy chiến tranh. (2) Kiến Cổ, về ngoại hình thì tượng tợ với Trống Lớn, cũng dùng 2 đùi trống để đánh; chỉ có khác là giá treo bọc quanh trống. Sau này trống cũng được lưu nhập vào trong Phật Giáo, sử dụng để tụng kinh, lễ bái, hành đại lễ, v.v. Như vào những dịp lễ chính trong năm như Tết, Rằm Tháng Giêng, Lễ Phật Đản, Vu Lan, v.v.; hay vào những dịp ngày Rằm, 30 hàng tháng, các ngày vía của chư Phật, Bồ Tát; hoặc nhân dịp lễ húy kỵ chư vị cao tăng, hay đón rước các cao tăng, v.v. Từ “trống” được tìm thấy khá nhiều trong các kinh điển Phật Giáo, như Khổ Ấm Kinh (苦陰經) của Trung A Hàm Kinh (中阿含經, Taishō Vol. 1, No. 26) quyển 25, Mộng Kiến Kim Cổ Sám Hối Phẩm (夢見金鼓懺悔品) của Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh (金光明最勝王經, Taishō Vol. 16, No. 665) quyển 2, Phẩm Đề Bà Đạt Đa (提婆達多品) của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (妙法蓮華經, Taishō Vol. 9, No. 262) quyển 4, Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 374) quyển Thượng, v.v. Như trong Phẩm Tựa của Kinh Pháp Hoa có đoạn: “Kim Phật Thế Tôn dục thuyết đại pháp, vũ đại pháp vũ, xuy đại pháp loa, kích đại pháp cổ diễn đại pháp nghĩa (今佛世尊欲說大法、雨大法雨、吹大法螺、擊大法鼓、演大法義, nay đức Phật Thế Tôn muốn thuyết pháp lớn, mưa trận mưa pháp lớn, thổi ốc pháp lớn, đánh trống pháp lớn, diễn nghĩa pháp lớn).” Trong Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Kinh (佛說無量壽經, Taishō Vol. 12, No. 360) quyển Thượng cũng có câu: “Khấu pháp cổ, xuy pháp loa, chấp pháp kiếm, kiến pháp tràng, chấn pháp lôi, diệu pháp điện, chú pháp vũ, diễn pháp thí (扣法鼓、吹法螺、執法劍、建法幢、震法雷、曜法電、澍法雨、演法施, gõ trống pháp, thổi ốc pháp, cầm kiếm pháp, chấn động sấm pháp, tỏa sáng điện pháp, mưa trận mưa pháp, diễn bày bố thí pháp).” Hay như Đại Phương Đẳng Đại Tập Kinh (大方等大集經, Taishō Vol. 13, No. 397) quyển 56 có dạy rằng: “Pháp tràng đương tồi chiết, pháp cổ thanh diệc tuyệt (法幢當摧折、法鼓聲亦絕, cờ pháp bị gãy đứt, trống pháp tiếng cũng dứt).” Trong Mộng Kiến Kim Cổ Sám Hối Phẩm của Kim Quang Minh Tối Thắng Vương Kinh quyển 2, có kể câu chuyện Diệu Tràng Bồ Tát (妙幢菩薩), sau khi nghe pháp xong, tâm sanh hoan hỷ, trở về chỗ của mình, đến đêm mộng thấy cái trống vàng lớn, ánh sáng rực rỡ, như vòng mặt trời. Trong ánh sáng ấy, Bồ Tát thấy có mười phương vô lượng các đức Phật, ngồi trên tòa Lưu Ly dưới cây báu; thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn chúng đang vây quanh chư Phật. Bồ Tát lại thấy có một vị Bà La Môn lấy dùi trống đánh chiếc trống bằng vàng, phát ra âm thanh lớn; trong âm thanh ấy diễn thuyết các câu kệ của pháp sám hối vi diệu. Nghe xong, Diệu Tràng Bồ Tát nhớ kỹ, đến sáng mai mang các vật phẩm cúng dường, đến Linh Thứu Sơn, nơi đức Phật đang an trú, thuật lại câu chuyện trên, được đức Phật tán thán, khen ngợi là người có nhân duyên lớn mới nghe được tiếng trống đó. Pháp Cổ là Trống Pháp, thí dụ khi đánh trống để khuyên răn, cảnh tỉnh binh lính, sách tấn mọi người; cho nên, tiếng trống cũng ví dụ cho sự thuyết pháp của chư Phật giúp cảnh tỉnh, khuyên răn mọi người trở về với con đường thiện. Xưa kia, trống được chế tạo bằng kim thuộc, ngọc, gỗ, đá, v.v. Cho đến hiện tại, phần lớn trống được làm bằng gỗ hay các loại da trâu, ngựa, heo, v.v.; cho nên có các tên gọi khác nhau tùy theo chất liệu như trống kim loại, trống đá, trống da. Về cách dùng trống, trong Thích Thị Yếu Lãm (釋氏要覽, Taishō Vol. 54, No. 2127) có đoạn: “Ngũ Phần Luật vân: 'Chư Tỳ Kheo Bố Tát, chúng bất thời tập, Phật ngôn, hoặc đả kiền chùy, hoặc đả cổ xuy bối' (五分律云、諸比丘布薩、眾不時集、佛言、或打犍椎、或打鼓吹貝, Ngũ Phần Luật dạy rằng: 'Khi các Tỳ Kheo Bố Tát, hay chúng tăng tập trung bất thường, đức Phật dạy hoặc đánh kiền chùy [chuông], hoặc đánh trống, thổi ốc').” Khi ăn cũng đánh trống báo hiệu tập trung, như Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh (大佛頂如來密因修證了義諸菩薩萬行首楞嚴經, Taishō Vol. 19, No. 945) có dạy rằng: “Thực biện kích cổ, chúng tập chàng chung (食辦擊鼓、眾集撞鐘, khi ăn cơm thì đánh trống, khi tập trung đại chúng thì đánh chuông).” Hay khi thuyết pháp cũng phải đánh trống thông báo, như trong Ma Ha Tăng Kỳ Luật (摩訶僧祇律, Taishō Vol. 22, No. 1425) quyển 1 có đoạn rằng: “Chư thiên hữu tam thời cổ, chư thiên A Tu La cọng chiến thời đả đệ nhất cổ, Câu Tỳ La viên chúng hoa khai phu thời đả đệ nhị cổ, tập Thiện Pháp Giảng Đường thính thiện pháp thời đả đệ tam cổ (諸天有三時鼓、諸天阿修羅共戰時打第一鼓、俱毘羅園眾花開敷時打第二鼓、集善法講堂聽善法時打第三鼓, chư thiên có ba loại trống, khi chư thiên và A Tu La cùng nhau giao chiến thì đánh trống thứ nhất, khi các hoa trong vườn Câu Tỳ La bắt đầu nở thì đánh cái thứ hai, khi tập trung tại Thiện Pháp Giảng Đường để nghe thiện pháp thì đánh cái thứ ba).” Như vậy, khi đức Phật còn tại thế, trống được dùng để báo hiệu tập trung đại chúng hành lễ Bố Tát (tụng giới), ăn cơm, nghe pháp, v.v. Về sau, trống được dùng trong Thiền môn với ý nghĩa làm hiệu lịnh báo thức đại chúng thức khuya, dậy sớm; đặc biệt được dùng trong các nghi lễ, phối hợp xướng niệm, phổ thành khúc điệu để cúng dường và trang nghiêm đạo tràng, giúp cho đại chúng phát khởi tâm kính thành hơn. Tùy theo mục đích sử dụng, hiện tại trong các tự viện Phật Giáo có một số tên gọi khác nhau về trống như: (1) Pháp Cổ (法鼓), Trống Pháp, thí dụ khi đánh trống để khuyên răn, cảnh tỉnh binh lính, sách tấn mọi người; cho nên, tiếng trống cũng ví dụ cho sự thuyết pháp của chư Phật giúp cảnh tỉnh, khuyên răn mọi người trở về với con đường thiện. (2) Đăng Tòa Cổ (登座鼓), dùng để cung thỉnh pháp sư thăng tòa thuyết pháp. (3) Trà Cổ (茶鼓), loại trống được thiết trí ở phía Tây Bắc Pháp Đường của các Thiền viện, được dùng để tập trung tăng chúng dùng trà nóng. Như trong bài thơ Tây Hồ Xuân Nhật (西湖春日) của Lâm Bô (林逋, 967-1028) nhà Tống có câu: “Xuân yên tự viện cảo Trà Cổ, tịch chiếu lâu đài trác tửu kỳ (春煙寺院敲茶皷、夕照樓台卓酒旗, khói xuân tự viện gióng Trà Cổ, đêm chiếu lâu đài nhắp rượu say).” (4) Trai Cổ (齋鼓), dùng tập trung tăng chúng thọ trai. (5) Vấn Tấn Cổ (問訊鼓), trống đánh để thăm hỏi, học đạo, tham Thiền, v.v. (6) Phóng Tham Cổ (放參鼓), loại đánh báo hiệu đại chúng dùng cháo buổi chiều. Nguyên lai từ “Phóng Tham (放參)” nghĩa là ăn cháo hay bánh bao buổi chiều. Đức Phật chế chư tăng xuất gia chỉ được ăn mỗi ngày một bữa cơm, quá giờ ngọ (sau 1 giờ chiều) thì không được ăn. Trước thời nhà Đường, chư tăng Trung Quốc tuân thủ nghiêm minh nguyên tắc này; về sau trải qua diễn biến của thời gian, tăng chúng phần lớn sinh hoạt theo hình thức tự canh tác tự nuôi sống, lao động thể lực rất lớn, dần dần nguyên tắc này được thay đổi để tồn tại và phù hợp với môi trường sống. Các tự viện bắt đầu quy định cho ăn chiều (vãn xan [晚餐]), được gọi là Dược Thực (藥食, món ăn như là thuốc để cứu chữa căn bệnh khô gầy), hay Dược Thạch (藥石), có nghĩa là ăn cháo nhẹ; và có tên gọi khác là Vãn Chúc (晚粥, cháo chiều). (7) Hôn Cổ (昏鼓): trống đánh vào buổi chiều. (8) Hiểu Cổ (曉鼓): dùng vào buổi sáng sớm. (9) Canh Cổ (更鼓): trống đánh vào các canh buổi khuya. (10) Dục Cổ (浴鼓): dùng báo hiệu giờ tắm của tăng chúng. (11) Phổ Thỉnh Cổ (普請鼓): dùng để cung thỉnh toàn thể đại chúng cùng tham gia lao tác việc chùa.(12) Hỏa Cổ (火鼓): dùng báo hiệu khi có hỏa hoạn. Vào các buổi lễ lớn, các tự viện thường thỉnh Chuông Trống Bát Nhã theo bài kệ: “Bát Nhã hội, Bát Nhã hội, Bát Nhã hội, thỉnh Phật thượng đường, đại chúng đồng văn, Bát Nhã âm, phổ nguyện pháp giới, đẳng hữu tình, nhập pháp giới, Ba La Mật môn (般若會、般若會、般若會、請佛上堂、大衆同聞、般若音、普願法界、等有情、入法界、波羅蜜門, Bát Nhã hội, Bát Nhã hội, Bát Nhã hội, thỉnh Phật thượng đường, đại chúng cùng nghe, Bát Nhã âm, nguyện khắp pháp giới, chúng hữu tình, nhập pháp giới, cửa Ba La Mật).” Trong Chinh Phụ Ngâm Khúc (征婦吟曲), nguyên tác của Ðặng Trần Côn (鄧陳琨, 1715?-1745), do Ðoàn Thị Ðiểm (段氏點, 1705-1748) dịch, có câu: “Trống Tràng Thành lung lay bóng nguyệt, khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.” Tại Long Tế Tự (龍濟寺) ở Cát Thủy (吉水), Giang Tây (江西), Trung Quốc, còn lưu lại hai câu thơ tương truyền của Thi sĩ Tô Đông Pha (蘇東坡, 1036-1101) nhà Tống: “Thiên thượng lâu đài sơn thượng tự, vân biên chung cổ nguyệt biên tăng (天上樓臺山上寺、雲邊鐘鼓月邊僧, trên trời lâu đài chùa trên núi, bên mây chuông trống tăng bên trăng).”
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập