Chúng ta phải thừa nhận rằng khổ đau của một người hoặc một quốc gia cũng là khổ đau chung của nhân loại; hạnh phúc của một người hay một quốc gia cũng là hạnh phúc của nhân loại.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Kẻ hung dữ hại người cũng như ngửa mặt lên trời mà phun nước bọt. Nước bọt ấy chẳng lên đến trời, lại rơi xuống chính mình.Kinh Bốn mươi hai chương
Hãy tự mình làm những điều mình khuyên dạy người khác. Kinh Pháp cú
Điều kiện duy nhất để cái ác ngự trị chính là khi những người tốt không làm gì cả. (The only thing necessary for the triumph of evil is for good men to do nothing.)Edmund Burke
Khi gặp phải thảm họa trong đời sống, ta có thể phản ứng theo hai cách. Hoặc là thất vọng và rơi vào thói xấu tự hủy hoại mình, hoặc vận dụng thách thức đó để tìm ra sức mạnh nội tại của mình. Nhờ vào những lời Phật dạy, tôi đã có thể chọn theo cách thứ hai. (When we meet real tragedy in life, we can react in two ways - either by losing hope and falling into self-destructive habits, or by using the challenge to find our inner strength. Thanks to the teachings of Buddha, I have been able to take this second way.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Hãy sống như thể bạn chỉ còn một ngày để sống và học hỏi như thể bạn sẽ không bao giờ chết. (Live as if you were to die tomorrow. Learn as if you were to live forever. )Mahatma Gandhi
Người ta trói buộc với vợ con, nhà cửa còn hơn cả sự giam cầm nơi lao ngục. Lao ngục còn có hạn kỳ được thả ra, vợ con chẳng thể có lấy một chốc lát xa lìa.Kinh Bốn mươi hai chương
Chiến thắng hàng ngàn quân địch cũng không bằng tự thắng được mình. Kinh Pháp cú
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù! Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!Kinh Pháp Cú (Kệ số 197)
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Liên Đăng Hội Yếu »»
(晦翁悟明, Kaiō Gomyō, ?-?): vị tăng của Phái Đại Huệ (大慧派) thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Hối Ông (晦翁), tự xưng là Chơn Lãn Tử (眞懶子), xuất thân Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến), pháp từ của Mộc Am An Vĩnh (木庵安永) ở Cổ Sơn (鼓山). Ông đã từng trú trì các nơi như Sùng Phước Tự (崇福寺) ở Tuyền Châu (泉州, Tỉnh Phúc Kiến), Tịnh Từ Tự (淨慈寺) ở Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang), v.v. Chính ông biên tập bộ Tông Môn Liên Đăng Hội Yếu (宗門聯燈會要, 30 quyển), và năm thứ 10 (1183) niên hiệu Hưởng Hy (淳熙), ông ghi thêm lời tựa cho bộ này tại Tiềm Quang Đường (潛光堂). Các cổ tắc công án của Phái Đại Huệ đều do ông biên tập nên, và sau này được dùng rất rộng rãi trong Thiền lâm. Cuốn Hối Ông Minh Thiền Sư Ngữ Yếu (晦翁明禪師語要, 1 quyển) được thâu lục vào trong Tục Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu (續古尊宿語要).
(會要, Eyō): xem Tông Môn Liên Đăng Hội Yếu (宗門聯燈會要, Shūmonrentōeyō) bên dưới.
(慧嚴宗永, Egon Sōei, ?-?): người biên tập bộ Tông Môn Thống Yếu (宗門統要, Shūmontōyō, hay Tông Môn Thống Yếu Tập [宗門統要集], 10 quyển). Ông đã từng hoạt động bố giáo tại Kiến Cốc (建谿, Tỉnh Phúc Kiến). Vào năm thứ 3 (1133) niên hiệu Thiệu Hưng (紹興), Thống Yếu Tập được san hành, rồi hai năm sau được san hành tiếp. Vào năm thứ 6 (1179) niên hiệu Thuần Hy (淳熙) có san hành bản nhà Tống và nó là tác phẩm lớn nhất có ảnh hưởng của tập công án, nên sau này đã tạo ảnh hưởng không ít cho Liên Đăng Hội Yếu (聯燈會要). Đến thời nhà Nguyên, Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂) có biên tập bộ Tông Môn Thống Yếu Tục Tập (宗門統要續集).
(五燈錄, Gotōroku): tên gọi chung của 5 bộ sách truyền đăng gồm Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, Keitokudentōroku), Thiên Thánh Quảng Đăng Lục (天聖廣燈錄, Tenshōkōtōroku), Kiến Trung Tĩnh Quốc Tục Đăng Lục (建中靖國續燈錄, Kenchūseikokuzokutōroku), Tông Môn Liên Đăng Hội Yếu (宗門聯燈會要, Shūmonrentōeyō) và Gia Thái Phổ Đăng Lục (嘉泰普燈錄, Kataifutōroku), mỗi bộ đều 30 quyển.
(拈花、拈華): đưa cành hoa lên. Từ này thường đi theo cụm từ niêm hoa vi tiếu (拈花微笑, đưa cành hoa và mĩm miệng cười); như trong Liên Đăng Hội Yếu (聯燈會要, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 79, No. 1557) quyển 1 có ghi rõ điển tích rằng: “Thế Tôn tại Linh Sơn Hội thượng, niêm hoa thị chúng, chúng giai mặc nhiên, duy Ca Diếp phá nhan vi tiếu. Thế Tôn vân: 'Ngô hữu Chánh Pháp Nhãn Tạng, Niết Bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, phú chúc Ma Ha Ca Diếp' (世尊在靈山會上、拈華示眾、眾皆默然、唯迦葉破顏微笑、世尊云、吾有正法眼藏、涅槃妙心、實相無相、微妙法門、不立文字、敎外別傳、付囑摩訶迦葉, đức Thế Tôn trên Hội Linh Sơn, đưa hoa ra dạy chúng, đại chúng đều im lặng, chỉ có Ca Diếp chuyển mặt mĩm cười. Thế Tôn bảo rằng: 'Ta có Chánh Pháp Nhãn Tạng, tâm vi diệu Niết Bàn, thật tướng không tướng, pháp môn vi diệu, chẳng lập cước trên chữ nghĩa, truyền riêng ngoài giáo lệ, nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp').” Gọi cho đủ là niêm hoa thuấn mục phá nhan vi tiếu (拈華瞬目破顏微笑, đưa hoa ra, trong chớp mắt thì chuyển mặt mĩm cười). Từ thời nhà Tống trở đi, trong Thiền Tông rất thịnh hành câu chuyện này, vốn căn cứ vào Phẩm Phạm Vương Quyết Nghi (梵王決疑品) thứ 2 của Đại Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi Kinh (大梵天王問佛決疑經, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 1, No. 26), cũng như nương vào thuyết cho rằng Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp (s: Mahākāśyapa, p: Mahākassapa, 摩訶迦葉) là sơ Tổ của Thiền Tông Tây Trúc. Tuy nhiên, thuyết niêm hoa vi tiếu này vẫn còn nhiều vấn đề khả nghi, chưa giải quyết rõ. Còn sự kiện Tôn Giả Ma Ha Ca Diếp thọ nhận phó chúc chánh pháp thì được nêu rõ trong Bắc Bản Niết Bàn Kinh (北本涅槃經) quyển 2. Trong Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập (禪宗頌古聯珠通集, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 65, No. 1295) quyển 6 có câu rằng: “Niêm hoa ngã Phật tại Linh Sơn, Ca Diếp Đầu Đà hốt phá nhan, kim khẩu mật ngôn thân phú chúc, bất duy thiên thượng dữ nhân gian (拈花我佛在靈山、迦葉頭陀忽破顏、金口密言親付囑、不唯天上與人間, đưa hoa đức Phật tại Linh Sơn, Đầu Đà Ca Diếp chợt hiểu ràng, lời vàng mật ngôn nay phú chúc, đâu chỉ trên Trời với nhân gian).” Hay trong Tông Thống Biên Niên (宗統編年, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 86, No. 1600) quyển 2 lại có câu: “Thế Tôn phi thử nhãn, bất năng biện Ca Diếp chi nhất tiếu; Ca Diếp phi thử nhãn, bất năng khế Thế Tôn chi niêm hoa (世尊非此眼、不能辨迦葉之一笑、迦葉非此眼、不能契世尊之拈花, Thế Tôn không có con mắt này, chẳng thể nào hiểu được nụ cười của Ca Diếp; Ca Diếp không có con mắt này, chẳng thể nào lãnh hội được Thế Tôn đưa hoa ra).” Trong Thiền Môn có bài Tán Tổ Sư rằng: “Niêm hoa ngộ chỉ, Tổ đạo sơ hưng, miên diên tứ thất diễn chơn thừa, lục đại viễn truyền đăng, dịch diệp tương thừa, chánh pháp vĩnh xương minh (拈花悟旨、祖道初興、緜延四七演眞乘、六代遠傳燈、奕葉相承、正法永昌明, đưa hoa ngộ ý, Tổ đạo hưng long, dài lâu hai tám diễn chơn thừa, sáu đời xa truyền đăng, nối dõi kế thừa, chánh pháp mãi rạng ngời).”
(宗門統要集, Shūmontōyōshū): hay Tông Môn Thống Yếu (宗門統要, Shūmontōyō), 10 quyển, Tông Vĩnh (宗永) nhà Tống biên, san hành năm thứ 3 (1133) niên hiệu Thiệu Hưng (紹興). Đây là tác phẩm thâu tập những cổ tắc cơ duyên của chư vị thánh hiền ứng hóa từ đức Thế Tôn trở xuống cũng như của chư vị tổ sư Tây Thiên, Đông Độ để làm cho đàn hậu học thông đạt tông chỉ của các vị này. Bộ này nêu lên 1107 tắc công án từ 11 đời thuộc môn hạ của Nam Nhạc (南岳) cho đến 10 đời thuộc môn hạ của Thanh Nguyên (青原), tạo ảnh hưởng vô cùng to lớn cho tác phẩm Tông Môn Liên Đăng Hội Yếu (宗門聯燈會要) ra đời. Hiện tại Đông Dương Văn Khố (東洋文庫, Tōyō-bunko) của Nhật Bản đang tàng trữ bản nhà Tống được san hành vào năm thứ 6 (1179) niên hiệu Thuần Hy (淳熙). Tiếp theo tập này có Tục Tập (續集) do Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂) nhà Nguyên soạn.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập