Điều kiện duy nhất để cái ác ngự trị chính là khi những người tốt không làm gì cả. (The only thing necessary for the triumph of evil is for good men to do nothing.)Edmund Burke
Giữ tâm thanh tịnh, ý chí vững bền thì có thể hiểu thấu lẽ đạo, như lau chùi tấm gương sạch hết dơ bẩn, tự nhiên được sáng trong.Kinh Bốn mươi hai chương
Hương hoa thơm chỉ bay theo chiều gió, tiếng thơm người hiền lan tỏa khắp nơi nơi. Kinh Pháp cú (Kệ số 54)
Niềm vui cao cả nhất là niềm vui của sự học hỏi. (The noblest pleasure is the joy of understanding.)Leonardo da Vinci
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ, ý tạo; nếu với ý ô nhiễm, nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe, chân vật kéo.Kinh Pháp Cú (Kệ số 1)
Khởi đầu của mọi thành tựu chính là khát vọng. (The starting point of all achievement is desire.)Napoleon Hill
Sự nguy hại của nóng giận còn hơn cả lửa dữ. Kinh Lời dạy cuối cùng
Muôn việc thiện chưa đủ, một việc ác đã quá thừa.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Lại Bộ »»
(近衛政家, Konoe Masaie, 1444-1505): nhà công khanh, Quan Bạch và Thái Chính Đại Thần từ giữa thời đại Thất Đinh cho đến đầu thời đại Chiến Quốc; tên là Hà (霞); hiệu Hậu Pháp Hưng Viện (後法興院); là con trai thứ của Cận Vệ Phòng Tự (近衛房嗣, Konoe Fusatsugu). Anh là Cận Vệ Giáo Cơ (近衛敎基, Konoe Norimoto); các em trai đều là Tăng sĩ như Đạo Hưng (道興), Tăng Vận (增運), Chính Thâm (政深), Chính Biện (政辨). Vào năm 1462 (Khoan Chánh [寛正] 3), nhân khi người anh Giáo Cơ qua đời, ông kế thừa dòng họ Cận Vệ. Từ đó về sau, ông được bổ nhiệm làm các chức quan như Tùng Tam Vị (從三位), Hữu Cận Vệ Trung Tướng (右近衛中將). Đến năm 1467 (Ứng Nhân [應仁] nguyên niên), ông làm chức Quyền Đại Nạp Ngôn (權大納言); năm 1472 (Văn Minh [文明] 4) thì làm Chánh Nhị Vị Nội Đại Thần (正一位內大臣). Vào năm 1479 (Văn Minh 11), sau khi vụ Loạn Ứng Nhân chấm dứt, ông được bổ nhiệm làm Quan Bạch Tả Đại Thần (關白左大臣). Bốn năm sau, ông từ chức Quan Bạch và được thăng chức Thái Chính Đại Thần (太政大臣). Sau đó, ông lại từ quan và qua đời ở độ tuổi 62. Ông có để Lại Bộ nhật ký Hậu Pháp Hưng Viện Ký (後法興院記), rất có giá trị về mặt sử liệu để biết được những thông tin về triều đình vào giữa thời Thất Đinh như thế nào.
(近衛房嗣, Konoe Fusatsugu, 1402-1488): vị quan Quan Bạch (關白, Kampaku) sống dưới thời đại Thất Đinh; thân phụ là Cận Vệ Trung Từ (近衛忠嗣, Konoe Tadatsugu), thân mẫu là Gia Nữ Phòng (家女房); hiệu là Hậu Tri Túc Viện Quan Bạch (後知足院關白). Năm 1413 (Ứng Vĩnh [應永] 20), ông làm chức Hữu Cận Vệ Trung Tướng (右近衛中將); đến năm 1416 (Ứng Vĩnh 22), được thăng lên chức Tùng Tam Vị Phi Tham Nghị (從三位非參議). Năm sau, ông lại được bổ nhiệm làm chức Quyền Trung Nạp Ngôn (權中納言), và cứ như vậy đến tháng 12 năm 1438 (Vĩnh Hưởng [永享] 10), ông được thăng lên đến chức Tùng Nhất Vị (從一位). Vào năm 1445 (Văn An [文安] 2), ông làm chức Quan Bạch và trở thành Đằng Thị Trưởng Giả (藤氏長者, Tōshi-no-chōja, người đại diện cho dòng họ Đằng Nguyên [藤原, Fujiwara], có liên quan đến vấn đề chính trị, tài vụ cũng như tôn giáo của dòng họ). Tuy nhiên, vì quan Thái Chính Đại Thần Nhất Điều Kiêm Lương (一條兼良, Ichijō Kanera) lại ủy thác cho Nhật Dã Trùng Tử (日野重子, Hino Shigeko), người vợ hầu của Tướng Quân Túc Lợi Nghĩa Giáo (足利義敎, Ashikaga Yoshinori), rằng ông đang kỳ vọng chức Quan Bạch này; vì vậy, vào năm 1447 (Văn An 4), thể theo sắc chỉ của triều đình, Cận Vệ Phòng Tự từ chức quan này. Sau đó, vào năm 1461 (Khoan Chánh [寛正] 2), ông được bổ nhiệm làm Thái Chính Đại Thần; nhưng năm sau ông lại từ chức. Đến năm 1474 (Văn Minh [文明] 6), ông xuất gia, pháp danh là Đại Thông (大通). Ông qua đời ở độ tuổi 87, để Lại Bộ nhật ký Hậu Tri Túc Viện Phòng Tự Ký (後知足院房嗣記).
(古尊宿語錄, Kosonshukugoroku): 48 quyển, do Tăng Đĩnh Thủ Trách (僧挺守賾) nhà Tống biên tập, san hành vào năm thứ 45 (1617) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆). Bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu (古尊宿語要) 4 quyển được cư sĩ Giác Tâm (覺心) tái san hành vào năm thứ 3 (1267) niên hiệu Hàm Thuần (咸淳). Trong khoảng thời gian đó, bộ này được rất nhiều Thiền giả thuộc hệ Lâm Tế bổ sung thêm, đến khi được cho thâu lục vào Đại Tạng Kinh nhà Minh (Nam Tạng), nó trở thành bản hiện hành với 48 quyển và 35 bậc Thiền tượng và được san hành tại Hóa Thành Tự (化城寺) ở Kính Sơn (徑山) vào năm thứ 45 niên hiệu Vạn Lịch. Đây là bộ Ngữ Lục rất quan trọng để có thể biết được những lời dạy về cơ duyên, hành trạng của các bậc cao tăng thạc đức dưới thời nhà Tống. Bên cạnh các Ngữ Lục liệt kê trong bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu, có 17 Ngữ Lục của các Thiền sư khác lại được thêm vào nữa, gồm có:
(1) Nam Nhạc Đại Huệ Thiền Sư Ngữ (南嶽大慧禪師語, Nangakudaiezenjigo) của Nam Nhạc Hoài Nhượng (南嶽懷讓),
(2) Mã Tổ Đại Tịch Thiền Sư Ngữ (馬祖大寂禪師語, Basodaijakuzenjigo) của Mã Tổ Đạo Nhất (馬祖道一),
(3) Bách Trượng Hoài Hải Thiền Sư Ngữ (百丈懷海禪師語, Hakujōekaizenjigo) của Bách Trượng Hoài Hải (百丈懷海),
(4) Quân Châu Hoàng Bá Đoạn Tế Thiền Sư Ngữ (筠州黃檗斷濟禪師語, Kinshūōbakudanzaizenjigo) và Uyển Lăng Lục (苑陵錄, Enryōroku) của Hoàng Bá Hy Vận (黃檗希運),
(5) Hưng Hóa Thiền Sư Ngữ Lục (興化禪師語錄, Kōkezenjigoroku) của Hưng Hóa Tồn Tương (興化存奬),
(6) Phong Huyệt Thiền Sư Ngữ Lục (風穴禪師語錄, Fuketsuzenjigoroku) của Phong Huyệt Diên Chiểu (風穴延沼),
(7) Phần Dương Chiêu Thiền Sư Ngữ Lục (汾陽昭禪師語錄, Funyōshōzenjigoroku) của Phần Dương Thiện Chiêu (汾陽善昭),
(8) Từ Minh Thiền Sư Ngữ Lục (慈明禪師語錄, Jimyōzenjigoroku) của Thạch Sương Sở Viên (石霜楚圓),
(9) Bạch Vân Đoan Thiền Sư Ngữ (白雲端禪師語, Hakuuntanzenjigo) của Bạch Vân Thủ Đoan (白雲守端),
(10) Phật Chiếu Thiền Sư Kính Sơn Dục Vương Ngữ (佛照禪師徑山育王語, Busshōzenjikeizanikuōgo) của Chuyết Am Đức Quang (拙庵德光),
(11) Bắc Nhàn Giản Thiền Sư (北礀簡禪師, Hokkankanzenji) của Bắc Nhàn Cư Giản (北礀居簡),
(12) Vật Sơ Quán Thiền Sư (物初觀禪師, Mosshokanzenji) của Vật Sơ Đại Quán (物初大觀),
(13) Hối Cơ Thiền Sư Ngữ Lục (晦機禪師語錄, Kaikizenjigoroku) của Hối Cơ Nguyên Hy (晦機元熙),
(14) Quảng Trí Toàn Ngộ Thiền Sư (廣智全悟禪師, Kōchizengozenji) của Tiếu Ẩn Đại Hân (笑隱大訢),
(15) Trọng Phương Hòa Thượng Ngữ Lục (仲方和尚語錄, Chūhōoshōgoroku) của Trọng Phương Thiên Luân (仲方天倫),
(16) Giác Nguyên Đàm Thiền Sư (覺原曇禪師, Kakugendonzenji) của Giác Nguyên Từ Đàm (覺原慈曇), và
(17) Phật Chiếu Thiền Sư Tấu Đối Lục (佛照禪師奏對錄, Busshōzenjisōtairoku) của Chuyết Am Đức Quang (拙庵德光).
Trong khi đó, người biên tập là Định Nham Tịnh Giới (定巖淨戒, ?-1418) đã lược bớt khá nhiều, về sau trong bộ Vạn Lịch Bản Đại Tạng Kinh (萬曆版大藏經, tức Gia Hưng Tạng) đã có ý hồi phục lại nguyên hình và trở thành hình thức hiện tại. Trên đây là quá trình phát triển từ bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu cho đến Bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Lục đã trải qua như thế nào, ngoài ra Hối Thất Sư Minh (晦室師明, tiền bán thế kỷ thứ 13) còn tiếp tục biên tập Lại Bộ Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu và cho san hành vào năm 1238 ở Cổ Sơn bộ Tục Khai Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu (續開古尊宿語要, Zokukaikosonshukugoyō) gồm 80 Ngữ Lục của các Thiền sư. Dường như ông có ý muốn thâu tập cho được 100 Ngữ Lục, nhưng rốt cuộc không thành công.
(東巖慧安, Tōgan Ean, 1225-1277): vị Thiền tăng thuộc Lâm Tế Tông Nhật Bản, húy là Huệ An (慧安), hiệu là Đông Nham (東巖), thụy hiệu Hoằng Giác Thiền Sư (弘覺禪師); người vùng Bá Ma (播磨, Harima, thuộc Hyōgo-ken [兵庫縣]). Ông lên núi Thư Tả Sơn (書冩山) học giáo học Thiên Thai rồi xuất gia thọ Cụ Túc Giới, và chuyên tâm nghiên cứu trong vòng mười năm trường. Sau đó ông nghiên cứu Trí Độ Luận ở Thạch Thanh Thủy Bát Phan Cung (石清水八幡宮). Ông thường ấp ủ chí nguyện sang nhà Tống cầu pháp, rồi đến năm đầu (1257) niên hiệu Chánh Gia (正嘉), ông đến Thái Tể Phủ (太宰府, Dazaifu), thì gặp được Ngộ Không Kính Niệm (悟空敬念) và được khế ngộ với vị này. Vào năm thứ 2 (1262) niên hiệu Hoằng Trường (弘長), ông đến tham yết Ngột Am Phổ Ninh (兀菴普寧) ở Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji), và cuối cùng Ngột Am phú pháp cho. Khi Ngột Am trở về nước, ông đã tiễn chân Thầy đến tận vùng Điểu Vũ (鳥羽, Toba), và được truyền trao cho pháp y cùng đảnh tướng của vị này. Về sau, ông cung thỉnh Ngộ Không đến trú tại Phước Điền Am (福田庵). Vào năm thứ 5 (1268) niên hiệu Văn Vĩnh (文永), ông khai sáng Chánh Truyền Tự (正傳寺, Shōden-ji) và tiếp thu đồ chúng giáo hóa nơi đây. Lại nữa, ông còn đến tham vấn Đại Hưu Chánh Niệm (大休正念) ở Thọ Phước Tự (壽福寺, Jufuku-ji), rồi thể theo lời thỉnh cầu của vị quan Bình Thái Hạnh (平泰盛), ông đến trú tại Thánh Hải Tự (聖海寺). Vào ngày mồng 3 tháng 11 năm thứ 3 niên hiệu Kiến Trị (建治) thì ông thị tịch, thọ 53 tuổi. Vào ngày 23 tháng 3 năm thứ 20 niên hiệu Ứng Vĩnh (應永), ông được ban sắc thụy hiệu là Hoằng Giác Thiền Sư. Hiện vẫn còn lưu Lại Bộ Đông Nham An Thiền Sư Hành Thật (東巖安禪師行實).
(行狀): là một thể loại văn chương ghi lại sơ lược tất cả những việc làm, sinh hoạt, quê quán, ngày tháng năm sinh và năm mất của một người nào đó; còn gọi là Hành Trạng Ký (行狀記), Hành Thuật (行述), Hành Thật (行實), Hành Nghiệp (行業), Hành Nghiệp Ký (行業記). Dưới thời nhà Hán thì gọi là Trạng, và từ thời nhà Nguyên trở về sau thì gọi là Hành Trạng. Nguồn gốc của Hành Trạng khởi đầu vào thời Đông Hán (東漢, 25-220), đến thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều (魏晉南北朝, 220-589) thì bắt đầu thịnh hành; được tìm thấy trong phần trích dẫn về hành trạng của chư vị hiền đi trước của Truyện Viên Thiệu (袁紹), Ngụy Chí (魏志) 6 thuộc Tam Quốc Chí (三國志); hay trong Truyện Vương Ẩn (王隱) của Tấn Thư (晉書) quyển 82, cho biết rằng Vương Ẩn lúc nhỏ rất thích học, có chí viết ký thuật, thường ghi chép lại những sự việc nhà Tấn cũng như hành trạng của chư vị công thần. Có một số ký thuật hành trạng nổi tiếng qua các triều đại của Trung Quốc. Tỷ dụ như dưới thời nhà Đường (唐, 618-907) có Đại Đường Cố Tam Tạng Huyền Trang Pháp Sư Hành Trạng (大唐故三藏玄奘法師行狀), 1 quyển, không rõ tác giả; Đổng Tấn Hành Trạng (董晉行狀) của Hàn Dũ (韓愈, 768-824); Hàn Lại Bộ Hành Trạng (韓吏部行狀) của Lý Cao (李翱, 774-836), v.v. Thời nhà Tống (宋, 960-1279) có Tư Mã Ôn Công Hành Trạng (司馬溫公行狀) của Tô Thức (蘇軾, 1037-1101); Phó Anh Châu Khất Đan Hành Trạng (赴英州乞舟行狀) cũng của Tô Thức; Minh Đạo Tiên Sinh Hành Trạng (明道先生行狀) của Trình Di (程頤, 1033-1107); Hoàng Khảo Lại Bộ Chu Công Hành Trạng (皇考吏部朱公行狀) của Chu Hy (朱熹, 1130-1200); Trương Ngụy Công Hành Trạng (張魏公行狀) của Chu Hy; Triều Phụng Đại Phu Văn Hoa Các Đãi Chế Tặng Bảo Mô Các Trực Học Sĩ Thông Nghị Đại Phu Thụy Văn Chu Tiên Sinh Hành Trạng (朝奉大夫文華閣待制贈寶謨閣直學士通議大夫諡文朱先生行狀) của Hoàng Càn (黃乾, 1152-1221), v.v. Thời nhà Nguyên (元, 1206-1368) có Cao Phong Thiền Sư Hành Trạng (高峰禪師行狀) của Triệu Mạnh Phủ (趙孟頫, 1254-1322). Dưới thời nhà Minh (明, 1368-1662) thì có Thành Ý Lưu Công Cơ Hành Trạng (誠意伯劉公基行狀) của Hoàng Bá Sanh (黃伯生, ?-?); Tự Tự Tiên Thế Hành Trạng (自敘先世行狀) của Hoàng Tá (黃佐, 1490-1566); Viên Trung Lang Hành Trạng (袁中郎行狀) của Viên Trung Đạo (袁中道, 1570-1623), v.v. Thời nhà Thanh (清, 1616-1911) có Ngô Đồng Sơ Hành Trạng (吳同初行狀) của Cố Viêm Võ (顧炎武, 1613-1682). Về hành trạng của Phật Giáo, trong Nghệ Văn Chí (藝文志) của Tân Đường Thư (新唐書) quyển 59 có Tăng Già Hành Trạng (僧伽行狀) do Tân Sùng (辛崇) soạn, 1 quyển; trong Thiên Tăng Hành (僧行篇) của Quảng Hoằng Minh Tập (廣弘明集) quyển 23 có phần Chư Tăng Luy Hành Trạng (諸僧誄行狀). Trong Đại Tạng Kinh của Phật Giáo có Đại Đường Cố Tam Tạng Huyền Trang Pháp Sư Hành Trạng (大唐故三藏玄奘法師行狀, Taishō Vol. 50, No. 2052), 1 quyển; Huyền Tông Triều Phiên Kinh Tam Tạng Thiện Vô Úy Tặng Hồng Lô Khanh Hành Trạng (玄宗朝翻經三藏善無畏贈鴻臚卿行狀, Taishō Vol. 50, No. 2055), do Lý Hoa (李華) soạn, 1 quyển; Đại Đường Cố Đại Đức Tặng Tư Không Đại Biện Chánh Quảng Trí Bất Không Tam Tạng Hành Trạng (大唐故大德贈司空大辨正廣智不空三藏行狀, Taishō Vol. 50, No. 2056) do Triệu Thiên (趙遷) soạn, 1 quyển; Đại Đường Thanh Long Tự Tam Triều Cúng Phụng Đại Đức Hành Trạng (大唐青龍寺三朝供奉大德行狀, Taishō Vol. 50, No. 2057, không rõ tác giả), 1 quyển, v.v. Trong Kim Thạch Tụy Biên (金石萃編) quyển 134 có Truyền Ứng Pháp Sư Hành Trạng (傳應法師行狀); Tục Kim Thạch Tụy Biên (續金石萃編) quyển 17 có Chiêu Hóa Tự Chính Thiền Sư Hành Trạng (昭化寺政禪師行狀), v.v.
(溪嵐拾葉集, Keiranshūyōshū): bộ tùng thư do Quang Tông (光宗, 1276-1350) của Thiên Thai Tông thâu tập, ghi lại những sự cố của Tông phái trên Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan) thông qua truyền miệng, rồi chỉnh lý các thuyết từ xưa đến nay, và đưa vào tư tưởng của tác giả. Nguyên lai bộ này có 300 quyển, nhưng hiện tại phần được thâu lục vào trong quyển 76 của Đại Chánh Đại Tạng Kinh (大正大藏經, Taishō), chỉ có 113 quyển mà thôi. Trong đó, có hạng mục Thiền Tông Giáo Gia Đồng Dị Sự (禪宗敎家同異事), và có những ký sự liên quan đến Thiền Sư Đạo Nguyên (道元, Dōgen).
(了庵清欲, Ryōan Seiyoku, 1288-1363): vị tăng của Phái Tùng Nguyên thuộc Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Liễu Am (了庵), biệt hiệu Nam Đường (南堂), xuất thân Lâm Hải (臨海), Đài Châu (台州, Tỉnh Triết Giang). Ông vốn là pháp từ của Cổ Lâm Thanh Mậu (古林清茂), đã từng sống qua một số chùa như Khai Phước Tự (開福寺) vùng Lật Thủy (溧水, Tỉnh Giang Tô), Bổn Giác Tự (本覺寺) vùng Gia Hưng (嘉興, Tỉnh Triết Giang), Linh Nham Tự (靈巖寺) Tô Châu (蘇州). Ông được ban tặng hiệu là Từ Vân Phổ Tế Thiền Sư (慈雲普濟禪師). Vào ngày 25 tháng 8 năm thứ 23 niên hiệu Chí Chánh (至正), ông thị tịch, hưởng thọ 76 tuổi. Ông có để Lại Bộ Liễu Am Hòa Thượng Ngữ Lục (了庵和尚語錄) 9 quyển. Tống Liêm (宋濂) soạn ra Hành Đạo Ký (行道記), viết về hành trạng của ông.
(密雲圓悟, Mitsuun Engo, 1566-1642): vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, hiệu là Mật Vân (密雲), người Huyện Nghi Hưng (宜興縣), Phủ Thường Châu (常州府, Tỉnh Giang Tô), họ Tương (蔣), sinh tháng 11 năm thứ 45 niên hiệu Gia Tĩnh (嘉靖) nhà Minh, tánh tình ngay thẳng, chuyên làm nghề nông. Khi nhìn thấy cuốn Lục Tổ Đàn Kinh (六祖壇經), ông bắt đầu hiểu được tông môn, có hôm nọ khi nhìn thấy người ta chất củi, chợt tỉnh ngộ. Năm 29 tuổi, ông xuống tóc xuất gia với Huyễn Hữu Chánh Truyền (幻有正傳). Đến năm thứ 30 (1602) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆), ông đi theo thầy đến Yến Đô (燕都, Tỉnh Hà Bắc) và làm Giám Viện của Long Trì Viện (龍池院) ở Thường Châu (常州). Một ngày kia, khi đi ngang qua Đồng Quan Sơn (銅棺山), ông hoát nhiên đại ngộ. Đến tháng 2 năm thứ 39, lúc 46 tuổi, ông được truyền thừa y bát của Chánh Truyền. Đến tháng 2 năm thứ 42, gặp lúc thầy qua đời, ông chuyên hầu hạ bên tháp thầy suốt 3 năm và đến tháng 4 năm thứ 45 thì kế thừa trú trì Long Trì Viện. Vào năm thứ 3 (1623) niên hiệu Thiên Khải (天啓), ông chuyển đến Thông Huyền Tự (通玄寺) ở Thiên Thai Sơn (天台山), rồi đến tháng 3 năm sau thì dời sang Quảng Huệ Tự (廣慧寺) ở Hải Diêm (海塩), Gia Hưng (嘉興, Tỉnh Phúc Kiến). Đến tháng 3 năm thứ 3 (1630) niên hiệu Sùng Trinh (崇禎), ông xây dựng Vạn Phước Tự (萬福寺) ở Hoàng Bá Sơn (黃檗山), Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến), rồi đến làm trú trì Quảng Lợi Tự (廣利寺) ở Dục Vương Sơn (育王山), Minh Châu (明州, Tỉnh Triết Giang) và chuyển sang Cảnh Đức Tự (景德寺) trên Thiên Đồng Sơn (天童山). Vào năm thứ 14 (1641) niên hiệu Sùng Trinh, ông đến trú trì Đại Báo Ân Tự (大報恩寺) ở Kim Lăng (金陵). Năm sau ông trở về Thông Huyền Tự và vào ngày 7 tháng 7 thì thị tịch, hưởng thọ 77 tuổi. Ông có để Lại Bộ Mật Vân Thiền Sư Ngữ Lục (密雲禪師語錄) 12 quyển.
(桂殿): có ba nghĩa khác nhau. (1) Từ mỹ xưng các ngôi điện vũ của Đạo Giáo cũng như Phật Giáo. Như trong bài Túc Diệu Đình Quán Thứ Đông Pha Cựu Vận (宿妙庭觀次東坡舊韻) của Phạm Thành Đại (范成大, 1126-1193) nhà Tống có câu: “Quế điện xuy sanh dạ bất quy, Tô tiên thi bảng quải không bi (桂殿吹笙夜不歸、蘇仙詩板掛空悲, điện quế kèn vang đêm chẳng về, Đông Pha thơ bảng vọng không buồn).” (2) Chỉ cho chốn thâm cung, nơi ở của các Hậu Phi. Như trong bài Thượng Lại Bộ Thị Lang Đế Kinh Thiên (上吏部侍郎帝京篇) của Lạc Tân Vương (駱賓王, 640-684) nhà Đường có câu: “Quế điện âm sầm đối ngọc lâu, tiêu phòng yểu điệu liên kim ốc (桂殿陰岑對玉樓、椒房窈窕連金屋, điện quế thâm u đối ngọc lầu, Hậu Phi yểu điệu bao nhà vắng).” Hay trong bài Trường Môn Oán (長門怨) của Lý Bạch (李白, 701-762) nhà nhà Đường lại có câu: “Quế điện trường sầu bất ký xuân, hoàng kim tứ ốc khởi thu trần (桂殿長愁不記春、黃金四屋起秋塵, điện quế mãi sầu chẳng biết xuân, vàng ròng nhà cửa dậy bụi trần).” (3) Chỉ cho Nguyệt Cung (月宮), tức cung trăng. Như trong bài Hòa Mã Bá Dung Trừ Nam Đài Trung Thừa Dĩ Thi Tặng Biệt (和馬伯庸除南台中丞以詩贈別) của Tát Đô Thích (薩都剌, khoảng 1272-1355) nhà Nguyên có câu: “Quế điện thả lưu tu nguyệt phủ, Ngân Hà vị hứa độ tinh diêu (桂殿且留修月斧、銀河未許度星軺, cung Quảng còn lưu búa sửa trăng, Ngân Hà chưa hẹn xe chở sao).” Từ đó, có thuật ngữ quế điện lan cung (桂殿蘭宮, điện quế cung lan) để chỉ cho những cung điện quý phái, hoa mỹ, tráng lệ. Trong Ngu Am Trí Cập Thiền Sư Ngữ Lục (愚菴智及禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1421) quyển 7, bài Ngoại Đạo Vấn Phật (外道問佛), có đoạn: “Hạo nguyệt đương không tợ giám viên, trần mao sát hải chiếu vô thiên, mê vân tán tận bác tang hiểu, quế điện Thường Nga oán vị miên (皓月當空似鑑圓、塵毛剎海照無偏、迷雲散盡搏桑曉、桂殿嫦娥怨未眠, trăng tỏ trên không tợ gương soi, chiếu soi muôn vật khắp mọi nơi, mây mù bủa khắp trời mờ sáng, cung Quảng Hằng Nga oán mãi hoài).”
(癡絕道沖, Chizetsu Dōchū, 1169-1250): vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, tự là Si Tuyệt (癡絕), xuất thân Trường Giang (長江), Võ Tín (武信, Tỉnh Tứ Xuyên), họ là Tuân (荀, hay Cẩu [苟]). Ông đến tham học với Tùng Nguyên Sùng Nhạc (松源崇岳) ở Tiến Phước Tự (薦福寺) và làm Thủ Tòa, rồi sau đó khế ngộ huyền chỉ của Tào Nguyên Đạo Sanh (曹源道生). Sau một thời gian đi tham vấn khắp chốn tùng lâm, vào năm thứ 12 (1219) niên hiệu Gia Định (嘉定), ông bắt đầu tuyên thuyết Thiền phong của mình ở Thiên Ninh Tự (天寧寺) vùng Gia Hưng (嘉興, Tỉnh Triết Giang), rồi lại chuyển sang Tương Sơn (蔣山). Đến năm thứ 3 (1239) niên hiệu Gia Hy (嘉熙), ông lên Tuyết Phong Sơn (雪峰山) ở Phúc Châu (福州, Tỉnh Phúc Kiến), rồi sau chuyển đến Thiên Đồng Sơn (天童山) vùng Tứ Minh (四明, Tỉnh Triết Giang). Vào năm thứ 4 (1244) niên hiệu Thuần Hựu (淳祐), ông đến trú trì Linh Ẩn Tự (靈隱寺) ở Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang). Đến năm thứ 9 cùng năm này, Kinh Triệu Duẫn (京兆尹) quy y theo ông, cho nên ông khai sáng ra Pháp Hoa Tự (法華寺) ở vùng Ngô Hưng (呉興, Tỉnh Triết Giang). Cùng năm đó, ông đến trú tại Kính Sơn (徑山) thuộc vùng Lâm An (臨安, Tỉnh Triết Giang). Vào ngày 13 tháng 5 năm thứ 10 niên hiệu Thuần Hựu (淳祐), ông thị tịch, hưởng thọ 82 tuổi đời và 61 hạ lạp. Ông có để Lại Bộ Si Tuyệt Đạo Xung Thiền Sư Ngữ Lục (癡絕道沖禪師語錄) 2 quyển.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập