Để có đôi mắt đẹp, hãy chọn nhìn những điều tốt đẹp ở người khác; để có đôi môi đẹp, hãy nói ra toàn những lời tử tế, và để vững vàng trong cuộc sống, hãy bước đi với ý thức rằng bạn không bao giờ cô độc. (For beautiful eyes, look for the good in others; for beautiful lips, speak only words of kindness; and for poise, walk with the knowledge that you are never alone.)Audrey Hepburn
Chớ khinh thường việc ác nhỏ mà làm; đốm lửa nhỏ có thể thiêu cháy cả núi rừng làng mạc. Chớ chê bỏ việc thiện nhỏ mà không làm, như giọt nước nhỏ lâu ngày cũng làm đầy chum vại lớn.Lời Phật dạy
Cho dù không ai có thể quay lại quá khứ để khởi sự khác hơn, nhưng bất cứ ai cũng có thể bắt đầu từ hôm nay để tạo ra một kết cuộc hoàn toàn mới. (Though no one can go back and make a brand new start, anyone can start from now and make a brand new ending. )Carl Bard
Lấy sự nghe biết nhiều, luyến mến nơi đạo, ắt khó mà hiểu đạo. Bền chí phụng sự theo đạo thì mới hiểu thấu đạo rất sâu rộng.Kinh Bốn mươi hai chương
Như đá tảng kiên cố, không gió nào lay động, cũng vậy, giữa khen chê, người trí không dao động.Kinh Pháp cú (Kệ số 81)
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Cái hại của sự nóng giận là phá hoại các pháp lành, làm mất danh tiếng tốt, khiến cho đời này và đời sau chẳng ai muốn gặp gỡ mình.Kinh Lời dạy cuối cùng
Lo lắng không xua tan bất ổn của ngày mai nhưng hủy hoại bình an trong hiện tại. (Worrying doesn’t take away tomorrow’s trouble, it takes away today’s peace.)Unknown
Sự vắng mặt của yêu thương chính là điều kiện cần thiết cho sự hình thành của những tính xấu như giận hờn, ganh tỵ, tham lam, ích kỷ...Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Gặp quyển sách hay nên mua ngay, dù đọc được hay không, vì sớm muộn gì ta cũng sẽ cần đến nó.Winston Churchill
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Kim Luân »»
(曇花): từ gọi tắt của hoa Ưu Đàm Bạt La (s: udumbara, udumbara, p: udumbara, 優曇跋羅), hay Ô Đàm Bát La Hoa (烏曇盋羅花), Ô Đàm Bát La Hoa (鄔曇鉢羅花), Ưu Đàm Ba Hoa (優曇波花), Ưu Đàm Hoa (優曇花), Uất Đàm Hoa (鬱曇花); ý dịch là Linh Thoại Hoa (靈瑞花), Không Khởi Hoa (空起花), Khởi Không Hoa (起空花). Nó là loại thực vật có hoa ẩn tàng thuộc khoa Dâu, tên khoa học là Ficus glomerata, sanh sản ven chân núi Hỷ Mã Lạp Nhã Sơn (喜馬拉雅山, Himalaya), cao nguyên Đức Can (德干), Tư Lí Lan Tạp (斯里蘭卡), v.v. Thân cây cao hơn 3 tấc, lá có hai loại: phẳng trơn và thô nhám, đầu nhọn, thon dài, đều có chiều dài từ 10-18 phân. Nó có 2 loại hoa đực và cái, hoa xòe to như đấm tay, hoa búp như ngón tay cái, nở ra từ cành cây hơn 10 bông; tuy có thể ăn được nhưng mùi vị không ngon. Căn cứ vào Huệ Lâm Âm Nghĩa (慧琳音義) quyển 8 cho biết rằng: “Ưu Đàm Hoa, Phạn ngữ cổ dịch ngoa lược dã; Phạn ngữ chánh vân Ô Đàm Bạt La, thử vân Tường Thoại Linh Dị, thiên hoa dã; thế gian vô tỉ hoa; nhược Như Lai hạ sanh, Kim Luân Vương xuất hiện thế gian, dĩ đại phước đức lực cố, cảm đắc thử hoa xuất hiện (優曇花、梵語古譯訛略也、梵語正云烏曇跋羅、此云祥瑞靈異、天花也、世間無此花、若如來下生、金輪王出現世間、以大福德力故、感得此花出現, Hoa Ưu Đàm là từ dịch tắt sai lầm ngày xưa của tiếng Phạn, tiếng Phạn đúng là Ô Đàm Bạt La, Tàu gọi là Tường Thoại Linh Dị [loại hoa mang lại điềm lành linh dị], là hoa Trời, loại hoa trên đời không gì sánh bằng; nếu Như Lai hạ sanh, bậc Kim Luân Vương [Chuyển Luân Thánh Vương] sẽ xuất hiện trên thế gian; vì Ngài có oai lực phước đức to lớn, nên có thể cảm ứng loài hoa này xuất hiện).” Hơn nữa, do vì nó hiếm có và khó gặp, trong kinh điển Phật Giáo thường ví hoa Ưu Đàm với việc khó gặp được đức Phật xuất hiện giữa đời. Như Vô Lượng Thọ Kinh (無量壽經, Taishō 12, 266) quyển thượng có giải thích rằng: “Vô lượng ức kiếp nan trị nan kiến, do linh thoại hoa thời thời nãi xuất (無量億劫難值難見、猶靈瑞華時時乃出, vô lượng ức kiếp khó gặp, khó thấy, giống như hoa Linh Thoại thỉnh thoảng mới xuất hiện)”. Hay như Pháp Hoa Văn Cú (法華文句, Taishō No. 1718) cũng cho rằng: “Ưu Đàm Hoa giả, thử ngôn Linh Thoại, tam thiên niên nhất hiện, hiện tắc Kim Luân Vương xuất (優曇花者、此言靈瑞、三千年一現、現則金輪王出, Hoa Ưu Đàm, Tàu gọi là Linh Thoại, ba ngàn năm mới xuất hiện một lần, hiện tất Kim Luân Vương ra đời).” Tại Ấn Độ, từ thời đại Phệ Đà (s: Veda, 吠陀) cho đến ngày nay, lá của nó được dùng làm cây bảo vệ trừ tà ma, hay làm củi đốt trong lúc tế tự. Trong Phật Giáo, cây Bồ Đề thành đạo của 7 đức Phật thời quá khứ đều khác nhau, riêng cây Ưu Đàm Bạt La là cây Bồ Đề thành đạo của vị Phật thứ 5, Câu Na Hàm Mâu Ni (s: Kanakamuni, p: Konāgamana, 拘那含牟尼). Hoa Ưu Đàm là loại hoa ngàn năm mới nở một lần; cho nên nó có mùi thơm tuyệt diệu hơn tất cả loài hoa khác. Cũng vậy, giáo Pháp của Đức Phật luôn tỏa sáng và thơm ngát đến mọi người. Những ai lắng nghe và thực hành giáo pháp ấy thì sẽ có được an lạc, giải thoát nhờ hương thơm đó. Và từ đó vị ấy có thể đem hương thơm ấy ban phát, chia xẻ với mọi người chung quanh. Như trong Phẩm Phương Tiện (方便品) của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh (s: Saddharma-puṇḍarīka,妙法蓮華經) có câu: “Phật cáo Xá Lợi Phất, như thị diệu pháp, chư Phật Như Lai, thời nãi thuyết chi, như Ưu Đàm Bát Hoa, thời nhất hiện nhĩ (佛告舍利佛、如是妙法、諸佛如來、時乃說之、如優曇缽花、時一現耳, Phật bảo Xá Lợi Phất rằng pháp mầu như vậy, chư Phật Như Lai, chỉ thuyết một lần; như Hoa Ưu Đàm, chỉ xuất hiện một lần thôi).” Hoặc như trong Đại Trí Độ Luận (大知度論) cũng khẳng định rõ rằng: “Phật thế nan trị, như Ưu Đàm Ba La thọ hoa, thời thời hữu nhất, kỳ nhân bất kiến (佛世難值、如優曇波羅樹華、時時一有、其人不見, trên đời khó gặp được Phật, như hoa cây Ưu Đàm Ba La, thỉnh thoảng mới có một lần, người thường không thấy được).” Vì vậy trong dân gian cũng như văn học xuất hiện thuật ngữ “Đàm Hoa Nhất Hiện (曇花一現, Hoa Ưu Đàm chỉ xuất hiện một lần).” Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa Kinh (大般若波羅蜜多經, Taishō No. 220) cho chúng ta biết rõ thêm rằng: “Nhân thân vô thường, phú quý như mộng, chư căn bất khuyết, chánh tín thượng nan, huống trị Như Lai đắc văn diệu pháp, bất vi hy hữu như Ưu Đàm Hoa (人身無常、富貴如夢、諸根不缺、正信尚難、況值如來得聞妙法、不爲稀有如優曇花, thân người vô thường, giàu sang như mộng, các căn đầy đủ, chánh tín lại khó, huống chi gặp Như Lai được nghe pháp mầu, không phải hy hữu như Hoa Ưu Đàm sao ?).” Trong bài thơ Na Tra (那吒), Tô Triệt (蘇轍, 1039-1112) nhà Tống có nêu rõ giá trị tối thượng của loại hoa này: “Phật như Ưu Đàm nan trị ngộ, kiến giả văn đạo xuất sanh tử (佛如優曇難值遇、見者聞道出生死, Phật như Ưu Đàm khó gặp được, người thấy nghe đạo thoát sanh tử).” Hay như trong bài thơ Kỷ Hợi Tạp Thi (己亥雜詩) của Củng Tự Trân (龔自珍, 1792-1841) nhà Thanh cũng có câu rằng: “Nan bằng nhục nhãn thức thiên nhân, khủng thị Ưu Đàm thị hiện thân (難憑肉眼識天人、恐是優曇示現身, khó nương mắt thịt biết trời người, e chính Ưu Đàm thị hiện thân).” Trong dân gian Trung Quốc, vẫn có những truyền thuyết về giấc mộng thấy Hoa Ưu Đàm, như trường hợp Tề Võ Đế Tiêu Trách (齊武帝蕭賾, tại vị 482-493) bị bệnh, nằm mộng thấy Hoa Ưu Đàm và được lành bệnh; cho nên, trong chiêm tinh bói toán, người ta thường xem giấc mộng Hoa Ưu Đàm là có điềm lành. Như trong Uyên Giám Loại Hàm (淵鑑類函) do nhóm Trương Thanh (張英, ?-1708) nhà Thanh biên soạn có đoạn: “Tề Cảnh Lăng Vương Tử Lương, đốc tín Thích thị, Võ Đế bất dự, Tử Lương khải tấn Sa Môn ư điện tiền tụng kinh, Võ Đế cảm mộng, kiến Ưu Đàm Bát Hoa ư Tử Lương án (齊竟陵王子良、篤信釋氏、武帝不豫、子良啟進沙門於殿前誦經、武帝感夢、見優曇缽花於子良案, vua Cảnh Lăng Vương nhà Tề tên Tử Lương, thâm tín Phật pháp, Võ Đế chẳng vui lòng; Tử Lương cung thỉnh Sa Môn tụng kinh trước điện; Võ Đế cảm ứng mộng thấy Hoa Ưu Đàm nơi án của Tử Lương).”
(醍醐寺, Daigo-ji): ngôi chùa trung tâm của Phái Đề Hồ (醍醐派) thuộc Chơn Ngôn Tông, hiệu núi là Thâm Tuyết Sơn (深雪山), hiện tọa lạc tại Daigo (醍醐), Fushimi-ku (伏見區), Kyoto-shi (京都市). Theo truyền ký của chùa cho biết, Thánh Bảo (聖寶) là người khai sáng chùa vào năm 874 (niên hiệu Trinh Quán [貞觀] thứ 16). Ban đầu ông trú tại Tây Nam Viện của Đông Đại Tự (東大寺, Tōdai-ji), vùng đất chùa này là khoảng giữa của Thạch Sơn Tự (石山寺) và Đông Đại Tự. Ông điêu khắc hai bức tượng Chuẩn Đề và Quan Âm, rồi an trí trên núi. Người con gái của nhà hào tộc vùng Sơn Khoa (山科, Yamashina) là Dận Tử (胤子) theo làm cung phi của Vũ Đa Thiên Hoàng (宇多天皇, Uda Tennō, tại vị 887-897) và hạ sanh Đề Hồ Thiên Hoàng (醍醐天皇, Daigo Tennō, tại vị 897-930). Hay đời sau Châu Tước Thiên Hoàng (朱雀天皇, Suzaku Tennō, tại vị 930-946) hạ sanh cũng nhờ cầu nguyện đức Chuẩn Đề. Với mối quan hệ dó, chùa được tầng lớp Hoàng Thất quy y theo. Vì thế, năm 904 (niên hiệu Diên Hỷ [延喜] thứ 4), Thích Ca Đường; rồi đến năm 907 thì Dược Sư Đường, Ngũ Đại Dường lần lượt được kiến lập, và đến năm 913 thì nơi đây trở thành chùa được cấp định ngạch của Hoàng triều. Vào năm 949 (niên hiệu Thiên Lịch [天曆] thứ 3), Pháp Hoa Tam Muội Đường được kiến lập dưới chân núi; đến năm 952, ngôi tháp 5 tầng hiện tồn được tạo dựng và coi như ngôi già lam được hoàn bị. Đối với các công trình kiến trúc này, hệ thống của Đề Hồ Thiên Hoàng đã có nỗ lực rất lớn; nhưng đến khi dòng họ Đằng Nguyên (藤原, Fujiwara) nắm chính quyền thì sự ngoại hộ từ phía Hoàng Thất trở nên thưa thớt dần, song đến thời Viện Chính thì chùa lại được phục hưng nhờ vị Tọa Chủ xuất thân dòng họ Nguyên (源, Minamoto). Tức là các vị Tọa Chủ đời thứ 13 là Giác Nguyên (覺源, con thứ 4 của Hoa Sơn Thiên Hoàng [花山天皇, Kazan Tennō, tại vị 984-986]), đời thứ 14 là Định Hiền (定賢, con của Nguyên Long Quốc [源隆國]), đời thứ 15 là Thắng Giác (勝覺) cũng như đời thứ 18 là Thật Vận (實運, con của Nguyên Tuấn Phòng [源俊房]), đời thứ 16 là Định Hải (定海, con của Nguyên Hiển Phòng Tử [源顯房子]), đời thứ 17 là Nguyên Hải (元海, con của Nguyên Nhã Tuấn [源雅俊]), v.v. Thêm vào đó, nhờ có các danh tăng xuất hiện nên mọi người đều quy ngưỡng về chùa này. Vốn là con cháu đích truyền của Dòng Tiểu Dã (小野流), là trung tâm nghiên cứu dòng pháp, hiện tại Đề Hồ Tự vẫn bảo quản khá nhiều sách khẩu truyền, nghiên cứu, đặc biệt là các đồ hình, tượng, v.v. Vào năm 1115 (niên hiệu Vĩnh Cửu [永久] thứ 3), tiếp theo việc kiến lập Tam Bảo Viện của Thắng Giác, Kim Cang Vương Viện của Thánh Hiền (聖賢), Lý Tánh Viện của Hiền Giác (賢覺), Vô Lượng Thọ Viện của Nguyên Hải, Báo Ân Viện của Thành Hiền (成賢), Địa Tạng Viện của Đạo Giáo (道敎) lần lượt xuất hiện, hình thành nên 6 dòng phái Đề Hồ. Về mặt chính trị, dưới thời đại Liêm Thương (鎌倉, Kamakura) thì không có can hệ gì, chùa trở thành trung tâm nghiên cứu sự tướng, đồ tượng cho các tông phái. Về sau, chùa bị cháy hơn phân nữa trong vụ loạn Ứng Nhân (應仁). Đến thời Nghĩa Diễn (義演) làm Tọa Chủ nơi đây, nhờ sự hỗ trợ của dòng họ Phong Thần (豐臣, Toyotomi), ông tiến hành phục hưng chùa. Đến thời đại Giang Hộ (江戸, Edo), nhờ sự bảo hộ phái Tân Nghĩa Chơn Ngôn Tông (新義眞言宗), nên chùa không bị dao động gì cả. Chùa hiện tồn rất nhiều quần thể kiến trúc cũng như bảo vật có giá trị cấp quốc bảo như Dược Sư Đường, Khai Sơn Đường, Như Ý Luân Đường, Kim Đường, 5 bức Ngũ Đại Tôn Tượng, Diêm Ma Thiên Tượng, Đại Nhật Kim Luân, A Di Đà Tam Tôn, v.v.
(s: sīmā-bandha, bandhaya-sīman, 結界): âm dịch là Bạn Đà Dã Tử Mạn (畔陀也死曼), tức nương vào tác pháp mà quy hoạch một khu vực nhất định nào đó; hay y cứ vào pháp gọi là Bạch Nhị Yết Ma (白二羯磨), tùy nơi chỗ mà hoạch định giới vức để giúp cho tăng chúng không vi phạm lỗi biệt chúng (別眾, tách khỏi chúng), ly túc (離宿, lìa xa 3 y và nghĩ lại qua đêm ở một nơi nào đó), túc chử (宿煮, ở lại qua đêm và nấu ăn), v.v. Về phạm vi kết giới, các bộ Luật đều thuyết khác nhau; nay theo Tứ Phần Luật (四分律) thì đại thể có 3 loại: Nhiếp Tăng Giới (攝僧界), Nhiếp Y Giới (攝衣界) và Nhiếp Thực Giới (攝食界). (1) Nhiếp Tăng Giới nghĩa là chư Tỳ Kheo tập trung tại một nơi để tiến hành Bố Tát (s: poṣadha, upavasatha, upoṣadha, upavāsa; p: uposatha, posatha, 布薩), v.v.; được phân thành Tự Nhiên Giới (自然界) và Tác Pháp Giới (作法界). Tự Nhiên Giới, còn gọi là Bất Tác Pháp Giới (不作法界), là khu vực không cần phải quy định đặc biệt nào, mà chỉ căn cứ vào địa hình để hoạch định. Trong Tự Nhiên Giới lại được chia thành 4 loại là: (a) Tụ Lạc Giới (聚落界, khu vực làng xóm, tụ lạc), tụ lạc (làng xóm) ở đây có hai loại là tụ lạc có thể phân biệt và tụ lạc không thể phân biệt. Theo thuyết của Thập Tụng Luật (十誦律), trường hợp tụ lạc có thể phân biệt thì lấy một tụ lạc làm giới vức. Trong khi đó, theo thuyết của Ma Ha Tăng Kỳ Luật (摩訶僧祇律), trường hợp tụ lạc không thể phân biệt thì lấy 63 bộ (một bộ là 6 thước) làm giới vức. (b) Lan Nhã Giới (蘭若界). Nếu không có người mắng pháp phản đối, thì đây là giới vức của nơi nhàn tĩnh, yên lắng; cách cự ly với tụ lạc là một Câu Lô Xá (s: krośa, p: kosa, 拘盧舍, có thuyết cho là tương đương với 600 bộ; Tạp Bảo Tạng Kinh [雜寶藏經] cho là 5 dặm). Trường hợp nếu có người mắng pháp phản đối, thì giới hạn trong vòng 58 bộ (Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa [善見律毘婆沙] cho là tương đương với 7 Bàn Đà [槃陀, đơn vị đo lường của Ấn Độ, một Bàn Đà tương đương 28 khuỷu tay]). Những người phản đối thì tự tác pháp Yết Ma ngoài phạm vi này. (c) Đạo Hành Giới (道行界), khi vị tỳ kheo đi du hành, có thể tùy theo nơi mình ở mà lấy ngang dọc một Câu Lô Xá làm giới vức. Trong phạm vi này thì không được ăn riêng, Bố Tát riêng. (d) Thủy Giới (水界), tức là kết giới trên tàu thuyền khi rời khỏi đất liền. Tác Pháp Giới thì được phân thành 3 loại: (a) Đại Giới (大界), có các trường hợp người và pháp cùng nhau, pháp và thức ăn cùng nhau, pháp giống mà thức ăn khác. Trong đó, trường hợp người và pháp cùng nhau làm chủ, còn hai loại kia tùy duyên mà khai mở riêng. Người cùng nhau nghĩa là cùng chung một trú xứ, cùng chung một khu vực thuyết giới. Pháp cùng nhau nghĩa là mỗi nữa tháng cùng nhau tập trung tại một trú xứ để tiến hành pháp Bố Tát, thuyết giới. Phạm vi của Đại Giới lấy ngoại giới của một ngôi già lam nào đó làm giới hạn nhỏ nhất, rộng đến 10 dặm cho đến 100 dặm. Kết Đại Giới này với mục đích vào lúc chư tăng thuyết giới, v.v., khiến cho tăng chúng trong một khu vực rộng lớn tập trung lại, không ai trái phạm. Phàm Đại Giới nên lấy những sự vật có thể thấy rõ ở địa phương đó như núi, sông, cây cối, v.v., làm ranh giới; đó gọi là giới tướng (界相). Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa (善見律毘婆沙, Taishō Vol. 24, No. 1462) quyển 17 có nêu ra 8 loại giới tướng là sơn tướng (山相, hình dạng núi), thạch tướng (石相, hình dạng tảng đá), lâm tướng (林相, hình dạng khu rừng), thọ tướng (樹相, hình dạng cây), lộ tướng (路相, hình dạng con đường), giang tướng (江相, hình dạng dòng sông), nghị phong tướng (蟻封相, hình dạng ranh giới đàn kiến), thủy tướng (水相, hình dạng dòng nước). Về hình trạng của Đại Giới, các bộ Luật thuyết bất đồng. Thiện Kiến Luật Tỳ Bà Sa quyển 17 lấy 5 loại hình vuông, hình tròn, hình trống, hình bán nguyệt và hình tam giác làm 5 tướng kết giới. Ngoài ra, khi kết Đại Giới, sau khi chúng tăng tập trung trong phạm vi giới tướng, vị tăng sống lâu tại đó nên tuyên xướng giới tướng của bốn phương mà tuyên bố rằng: “Đồng nhất trú xứ, đồng nhất thuyết giới để làm kết giới.” Nghi thức này được gọi là xướng giới tướng. (b) Giới Trường (戒塲), trường hợp trong tăng chúng có người phạm giới, tiến hành pháp sám hối, hay thọ giới, v.v., cần phải hợp đủ chúng 4 người cho đến 20 người; để tránh làm cho tăng mệt mỏi, đặc biệt kết Giới Trường hình 4 phương, gọi là tứ phương giới tướng (四方界相, giới tướng bốn phương). Giới Trường này có thể chứa tối thiểu 20 người. Theo Giới Trường của Ấn Độ, nguyên là nơi vùng đất trống; trong phạm vi ấy không được lập phòng tăng, nhưng có thể dựng điện Phật cũng như cây Bồ Đề. Hơn nữa, vì Giới Trường là nơi truyền trao giới pháp, nên chủ yếu cần phải thô sơ, đơn giản. Ban đầu, Giới Trường được kết ở ngoài Đại Giới, về sau, do vì nạn cướp bóc, nên được phép kết trong phạm vi Đại Giới. Về thứ tự kết giới, trước kết Giới Trường, sau kết Đại Giới. Nếu như đã kết Đại Giới rồi, thì phải giải bỏ Đại Giới, kết lại Giới Trường, rồi mới kết Đại Giới. Nếu Đại Giới và Giới Trường cùng kết, khi giải giới thì phải trước giải Đại Giới rồi kế đến Giới Trường; không được đảo lộn thứ tự. (c) Tiểu Giới (小界), sợ các Tỳ Kheo ác ở trong gây trở ngại mà rút lui, phế bỏ pháp sự, nên đặc biệt giới hạn trong thời gian nào đó, kết một giới vức tạm thời. Loại này được chia thành 3 tùy theo trường hợp thọ giới, thuyết giới, Tự Tứ. Bên cạnh đó, Tiểu Giới còn được kết tạm thời khi gặp già nạn, không có giới hạn về phạm vi, hình trạng, v.v. Cho nên, không giống như tác pháp lâu dài của Đại Giới và Giới Trường, mà khi việc hoàn thành thì tiến hành giải giới ngay. Nói chung, trong phần Tự Nhiên Giới của Nhiếp Tăng Giới, tùy theo xứ sở mà nói, có 4 loại bất đồng; tùy theo phạm vi lớn nhỏ mà nói, có 6 loại khác nhau. Đại Giới, Tiểu Giới trong Tác Pháp Giới đều có 3 loại, lại cọng thêm Giới Trường, thành 7 giới. (2) Nhiếp Y Giới, còn gọi là Bất Thất Y Giới (不失衣界), Bất Ly Y Túc Giới (不離衣宿界); tức là hoạch định một phạm vi nào đó để tránh cho các Tỳ Kheo vi phạm sai lầm về việc ly túc (離宿). Ly túc ở đây có nghĩa là chỉ việc Tỳ Kheo xa lìa 3 y của mình mà trú qua đêm ở nơi khác. Nếu đã hoạch định một phạm vi nào đó, trong phạm vi ấy vị Tỳ Kheo có thể khôn cần phải mang theo 3 y thường xuyên. Điều thứ 2 trong 30 pháp Xả Đọa (s: naiḥsargika-prāyaścittika,p: nissaggiya pācittiya, 捨墮, âm dịch là Ni Tát Kì Ba Dạ Đề [尼薩耆波夜提]) của Ba La Đề Mộc Xoa (s: prātimokṣa, pratimokṣa,p: pātimokkha, pāṭimokkha, 波羅提木叉, ý dịch là Tùy Thuận Giải Thoát [隨順解脫], Xứ Xứ Giải Thoát [處處解脫], v.v.) có quy định về việc ly túc này. Loại Nhiếp Y Giới này cũng được phần thành 2 loại là Tự Nhiên Giới và Tác Pháp Giới. (3) Nhiếp Thực Giới, tức quy định kết giới nơi cất chứa thức ăn, là giới vức có thể nấu nướng thức ăn, giúp cho vị Tỳ Kheo không phạm phải lỗi gọi là túc chử. Vùng đất được quy định được gọi là tịnh địa (淨地), hay tịnh trù (淨廚). Nếu trong phạm vi này mà nấu nướng thì không phạm tội này. Thực tế tác pháp của Nhiếp Thực Giới được chia thành hai loại là Thông Kết (通結, kết giới chung) và Biệt Kết (別結, kết giới riêng). Như muốn giải trừ kết giới nói trên, thì khi kết giới, cũng phải nên trãi qua tác pháp gọi là Bạch Nhị Yết Ma (s: jñaptidvitiyā-karmavacanā, 白二羯磨, tức một lần thưa bạch và một lần Yết Ma) rồi mới có thể giải trừ. Tứ Phần Luật Hành Sự Sao Tư Trì Ký (四分律行事鈔資持記, Taishō Vol. 40, No. 1805) quyển Thượng giải thích rằng: “Y Giới giả, nhiếp y dĩ thuộc nhân, linh vô ly túc tội; Thực Giới giả, nhiếp thực dĩ chướng tăng, linh vô túc chử tội; Tăng Giới giả, nhiếp nhân dĩ đồng xứ, linh vô biệt chúng tội (衣界者、攝衣以屬人、令無離宿罪、食界者、攝食以障僧、令無宿煮罪、僧界者、攝人以同處、令無別眾罪, Nhiếp Y Giới là giữ gìn y luôn đi theo bên người, khiến cho không phạm tội ly túc; Nhiếp Thực Giới là giữ gìn thức ăn để ngăn chận chư tăng [khỏi sai phạm], khiến cho không phạm tội túc chử; Nhiếp Tăng Giới là giữ gìn mọi người cùng một trú xứ, khiến cho không phạm tội biệt chúng).” Trong Luật Học Phát Nhận (律學發軔, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 60, No. 1125) quyển Trung, phần Kết Giới (結界), có đoạn: “Tỳ Kheo trú xứ, tiên đương kết giới, cái Yết Ma, thuyết giới, thọ giới, trị tội đẳng sự, tất y giới lập; nhược vô giới, tắc chư pháp giai bất năng thành tựu dã (比丘住處、先當結界、蓋羯磨、說戒、授戒、治罪等事、悉依界立、若無界、則諸法皆不能成就也, trú xứ của Tỳ Kheo, trước phải kết giới, phàm các việc như Yết Ma, thuyết giới, truyền trao giới, trị tội, v.v., đều nương vào giới vức mà lập; nếu không giới vức, thì các pháp đều không thể thành tựu vậy).” Bên cạnh đó, kết giới còn có nghĩa là nữ nhân kết giới (女人結界), tức cấm chỉ người nữ ra vào khu vực quy định. Kết giới cũng chỉ cho phạm vi nội trận (內陣, bộ phận chính giữa an trí tượng Phật) và ngoại trận (外陣, chỉ chu vi của nội trận, hay phần bên ngoài khu vực tham bái) trong Chánh Điện thờ Phật. Ngoài ra, đây cũng chỉ cho pháp kết giới của Mật Giáo. Đối với Mật Giáo, khi tu pháp, để phòng ngừa ma chướng xâm nhập, một địa khu được hoạch định để bảo vệ cho đạo tràng và hành giả; đó gọi là kết giới hay kết hộ (結護, ý là kết giới hộ thân). Pháp kết giới của Mật Giáo có nhiều loại khác nhau. Theo Bất Không Quyên Sách Thần Biến Chơn Ngôn Kinh (不空罥索神變眞言經, Taishō Vol. 20, No. 1092) quyển 2, Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō Vol. 18, No. 901) quyển 1, v.v., có thể lấy hạt cải trắng, rãi bốn phương trên dưới để kết giới. Tô Tất Địa Yết La Kinh (蘇悉地羯羅經, Taishō Vol. 18, No. 893b) quyển Hạ, Phẩm Cúng Dường (供養品), thì lấy giới vức địa phương, hư không, tường Kim Cang, thành Kim Cang, v.v., mà kết giới chơn ngôn. Thông thường, kết giới thường dùng của pháp tu Mật Giáo phần lớn y cứ chuẩn vào thuyết của Đà La Ni Tập Kinh (陀羅尼集經, Taishō Vol. 18, No. 901) quyển 3, Cam Lộ Quân Trà Lợi Bồ Tát Cúng Dường Niệm Tụng Thành Tựu Nghi Quỹ (甘露軍荼利菩薩供養念誦成就儀軌, Taishō Vol. 21, No. 1211), v.v., được phân thành 5 loại như sau: (1) Địa Kết (地結), còn gọi là Kim Cang Quyết (金剛橛), tức là dựng một cây cọc nơi đại địa, gốc cọc đó hoặc bảo là đến tận cùng Kim Luân (s: kāñcana-maṇḍala, 金輪), hay đến tận cùng Thủy Luân (s: jala-maṇḍala, 水輪), v.v., là pháp thứ 6 trong 18 đạo Khế Ấn (契印). (2) Tứ Phương Kết (四方結), còn gọi là Kim Cang Tường (金剛牆), tức lấy bốn phương làm giới vức để kết giới, là pháp thứ 7 trong 18 đạo Khế Ấn. (3) Hư Thất Võng (虛室網), còn gọi là Kim Cang Võng (金剛網); tức lấy lưới Kim Cang giăng ra giữa hư không, mép lưới rũ lên đàn Kim Cang, là pháp thứ 14 trong 18 đạo Khế Ấn. (4) Hỏa Viện (火院), còn gọi là Kim Cang Viêm (金剛炎), lấy lửa cháy rực xoay nhiễu quanh bốn góc hư không, có thể giúp đuổi lui chướng nạn của ma Ba Tuần (s: Māra-pāpman, 波旬), là pháp thứ 15 trong 18 đạo Khế Ấn. (5) Đại Tam Muội Da (大三昧耶), là tổng kết giới ngoại trừ Hỏa Viện vừa nêu trên.
(玉燭): có 3 nghĩa chính. (1) Chỉ cho bốn mùa khí tiết điều hòa, thông suốt; hình dung cuộc sống thái bình, thịnh vượng. Như trong Nhĩ Nhã (爾雅), chương Thích Thiên (釋天) có câu: “Tứ khí hòa, chánh quang chiếu, thử chi vị ngọc chúc (四氣和、正光照、此之謂玉燭, bốn mùa điều hòa, ánh sáng chiếu tỏ, đây gọi là ngọc chúc).” Học giả trứ danh Quách Phác (郭璞, 276-324) nhà Tây Tấn chú thích là: “Đạo quang chiếu (道光照, bảo là ánh sáng chiếu tỏ).” Hình Bỉnh (邢昺, 932-1010) nhà Bắc Tống lại giải thích rõ thêm rằng: “Đạo quang chiếu giả, đạo, ngôn dã; ngôn tứ thời hòa khí, ôn nhuận minh chiếu, cố viết ngọc chúc (道光照者、道、言也、言四時和氣、溫潤明照、故曰玉燭, đạo quang chiếu, đạo có nghĩa là nói, nói rõ bốn mùa khí tiết điều hòa, ấm áp, ẩm ướt, chiếu sáng, nên gọi là ngọc chúc).” Trong bài Thượng Chấp Chính Tứ Thập Vận (上執政四十韻) của Nhã Hổ (雅琥, ?-?) nhà Nguyên có câu: “Ngọc chúc điều nguyên khí, kim xu vận đại quân (玉燭調元氣、金樞運大鈞, nến ngọc điều khí tiết, đức vua vận muôn dân).” (2) Từ mỹ xưng của cây nến. Như trong bài thơ Kim Tỏa (金鎖) của cung nhân thời vua Hy Tông (僖宗, tại thế 862-888) nhà Đường có câu: “Ngọc chúc chế bào dạ, kim đao ha thủ tài (玉燭製袍夜、金刀呵手裁, đèn ngọc suốt đêm chế áo bào, đao vàng tay cắt than buốt đau).” (3) Tỷ dụ cho ánh sáng con mắt. Như trong bài thơ Bệnh Mã (病馬) của Tào Đường (曹唐, ?-?) nhà Đường có câu: “Tứ đề bất tạc kim châm liệt, song nhãn dong khai ngọc chúc tà (四蹄不鑿金砧裂、雙眼慵開玉燭斜, bốn móng chẳng đục chày vàng nẻ, hai mắt lững lờ ánh sáng mờ).” Trong Liễu Đường Duy Nhất Thiền Sư Ngữ Lục (了堂惟一禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1417) quyển 1 có đoạn: “Cung nguyện, Kim Luân thống ngự, thọ đẳng càn khôn, ngọc chúc quân điều, minh du nhật nguyệt (恭願、金輪統御、壽等乾坤、玉燭均調、明踰日月, kính mong đức vua ngự mãi, thọ bằng càn khôn, đèn ngọc thường soi, sáng hơn nhật nguyệt).” Hay trong Lễ Phật Nghi Thức (禮佛儀式, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1492) cũng có đoạn: “Duy nguyện hoàng đồ củng cố, đế đạo hà xương, văn võ lộc tăng, hưng long Tam Bảo, ngọc chúc thường điều, sĩ dân lạc nghiệp, đàn na diễn khánh, bất phùng Tam Tai Bát Nạn, chí thành vô thượng bồ đề (惟願皇圖鞏固、帝道遐昌、文武祿增、興隆三寶、玉燭常調、士民樂業、檀那衍慶、不逢三災八難、至成無上菩提, cúi mong cơ đồ củng cố, đạo vua sáng ngời, văn võ lộc thêm, hưng thịnh Tam Bảo, đèn ngọc thường soi, muôn dân lạc nghiệp, thí chủ vui mừng, chẳng gặp Ba Tai Tám Nạn, chứng quả vô thượng bồ đề).”
(玉曆、玉歷): có mấy nghĩa khác nhau. (1) Chỉ cho ngày đầu tiên của năm Âm Lịch, tức mồng 1 Tết. Như trong bài Kiến Bình Vương Khánh Cải Hiệu Khải (建平王慶改號啟) của Lương Giang Yêm (梁江淹, ?-?) thời Nam Triều có đoạn “Thiết dĩ hoàng cù vĩnh mật, tắc ngọc lịch duy trinh (竊以皇衢永謐、則玉歷惟禎, nép nghĩ đường vua mãi yên, tất đầu năm tốt đẹp).” (2) Lịch thư do nhà vua ban cho vào mỗi đầu năm. Như trong bài thơ Quận Trung Xuân Yến Nhân Tặng Chư Khách (郡中春宴因贈諸客) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường có câu: “Thị thời tuế nhị nguyệt, ngọc lịch bố Xuân Phân (是時歲二月、玉歷布春分, lúc bấy giờ nhằm tháng hai, lịch ngọc ban bố dịp Xuân Phân).” Hay trong bài thơ Nhâm Tý Thu Quá Cố Cung (壬子秋過故宮) của Tống Nột (宋訥, 1311-1390) nhà Minh cũng có câu: “Triêu hội bảo đăng trầm chuyển lậu, thọ thời ngọc lịch bãi ban xuân (朝會寶燈沉轉漏、授時玉歷罷班春, sáng gặp đèn báu thầm khắc đếm, truyền cho lịch ngọc thôi ban [bố] xuân).” (3) Loại dầu cao quý giá, tức là thuốc tiên trong truyền thuyết. Như trong bài thơ Mông Tứ Tửu (蒙賜酒) của Dữu Tín (庾信, 513-581) nhà Bắc Chu có câu: “Kim cao hạ đế đài, ngọc lịch tại bồng lai (金膏下帝臺、玉歷在蓬萊, thuốc vàng dưới bệ vua, cao ngọc chốn bồng lai).” Trong Liệt Tổ Đề Cương Lục (列祖提綱錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 64, No. 1260) quyển 23, phần Niêm Công Thiếp Pháp Ngữ (拈公帖法語), có câu: “Kim Luân thống ngự tam thiên giới, ngọc lịch diên hồng ức vạn xuân (金輪統御三千界、玉曆延洪億萬春, xe vàng thống lãnh ba ngàn cõi, lịch ngọc kéo dài ức vạn xuân).” Hay trong Chương Sở Tri Luận (彰所知論, Taishō Vol. 32, No. 1645) quyển Hạ cũng có đoạn: “Huống Chánh Biến Tri chi diệu dụng, kỳ thục năng ngộ ư thử; thạnh hỉ Ưu Đàm thụy thế, thiên khai ngọc lịch chi kỳ; Tượng Giáo trung hưng, thời tế Kim Luân chi trị (況正遍知之妙用、其孰能語於此、盛矣優曇瑞世、天開玉曆之期、像教中興、時際金輪之治, huống chi sự diệu dụng của Chánh Biến Tri, liệu ai có thể ngộ được điều này; hưng thịnh thay hoa Ưu Đàm hiện thế, trời mở lịch ngọc thời kỳ; Tượng Giáo chấn hưng, gặp lúc xe vàng cai trị).”
(神機): có hai nghĩa chính. (1) Chỉ máy dệt vải. (2) Chỉ cho cơ vận, thời cơ. Như trong Đáp Phục Hy Thư (答伏羲書) của Nguyễn Tịch (阮籍, 210-263) nhà Ngụy thời Tam Quốc có câu: “Nhược lương vận vị hiệp, thần cơ vô chuẩn (若良運未協、神機無准, nếu vận tốt không gặp thì thời cơ không đúng).” Hay trong truyện Tái Sanh Duyên (再生緣), hồi thứ 63 lại có câu: “Ngộ triệt thần cơ nhất niệm chơn, tiện tùng Cực Lạc chuyển Kim Luân (悟徹神機一念眞、便從極樂轉金輪, rõ biết thần cơ một niệm chơn, bèn từ Cực Lạc chuyển pháp luân).” Trong Sở Thạch Phạn Kỳ Thiền Sư Ngữ Lục (楚石梵琦禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1420) quyển 1, phần Phật Nhật Phổ Chiếu Huệ Biện Sở Thạch Thiền Sư Lục Hội Ngữ Lục Tự (佛日普照慧辯楚石禪師六會語錄序) có câu: “Đại Huệ đề xướng Viên Ngộ chi đạo ư Kính Sơn, thần cơ diệu dụng, quảng đại vô ngại (大慧提唱圜悟之道於徑山、神機妙用、廣大無礙, Đại Huệ đề xướng, Viên Ngộ truyền đạo ở Kính Sơn, thần cơ mầu nhiệm, rộng lớn không ngăn ngại).” Hoặc trong Ngốc Am Phổ Trang Thiền Sư Ngữ Lục (呆菴普莊禪師語錄, 卍Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1418) quyển 3 có đoạn: “Vạn duyên tịch tức, nhất tánh dung thông, đại dụng toàn chương, thần cơ độc lộ, cổ Phật dữ lộ trụ giao tham (萬緣寢息、一性融通、大用全彰、神機獨露、古佛與露柱交參, vạn duyên lặng dứt, một tánh thông suốt, đại dụng lộ rõ, thần cơ hiện bày, Phật xưa cùng cột trụ tham vấn).”
(消災吉祥陀羅尼). Như tên gọi của nó, tương truyền rằng thần chú nầy có công năng làm cho cát tường, tiêu trừ mọi tai ách, hoạn nạn, và đặc biệt có hiệu lực rất lớn trong việc trấn hộ các thiên tai, địa biến. Tên gọi chính xác của nó là Xí Thạnh Quang Đại Uy Đức Tiêu Tai Cát Tường Đà La Ni (熾盛光大威德消災吉祥陀羅尼), còn gọi là Đại Hỏa Luân Kim Cang Chú (大火輪金剛咒), Xí Thạnh Quang Phật Đảnh Chơn Ngôn (熾盛光佛頂眞言). Ở Nhật Bản, đặc biệt Phái Sơn Môn (山門派) của Tỷ Duệ Sơn (比叡山, Hieizan) thuộc Thiên Thai Tông (天台宗, Tendai-shū) thì rất coi trọng thần chú nầy. Một số tư liệu Hán dịch về thần chú nầy như Phật Thuyết Xí Thạnh Quang Đại Uy Đức Tiêu Tai Cát Tường Đà La Ni Kinh (佛說熾盛光大威德消災吉祥陀羅尼經, Taishō No. 963) do Đường Bất Không (不空) dịch; Phật Thuyết Đại Uy Đức Kim Luân Phật Đảnh Xí Thạnh Quang Như Lai Tiêu Trừ Nhất Thiết Tai Nạn Đà La Ni Kinh (佛說大威德金輪佛頂熾盛光如來消除一切災難陀羅尼經, Taishō No. 964), thất dịch; Đại Diệu Kim Cang Đại Cam Lồ Quân Noa Lợi Diệm Man Xí Thạnh Phật Đảnh Kinh (大妙金剛大甘露軍拏利焰鬘熾盛佛頂經, Taishō No. 965), Đường Đạt Ma Sài Na (達磨栖那) dịch; Đại Thánh Diệu Cát Tường Bồ Tát Thuyết Trừ Tai Giáo Lịnh Pháp Luân (大聖妙吉祥菩薩說除災敎令法輪, Taishō No 966). Nội dung của thần chú này bằng nguyên bản Sanskrit là namaḥ samanta-buddhāṃ, apratihataśāsanānāṃ, tad yathā, Oṃ kha kha khāhi khāhi hūṃ hūṃ jvala jvala prajvala prajvala tiṣṭha tiṣṭha ṣṭri ṣṭri sphuṭ sphuṭ śāntikaśrīye svāhā (Con xin quy y chư Phật mà lời dạy của quý ngài biến mãn vô ngại. Tức là, Oṃ [Án]. Hỡi hư không ! Hỡi hư không ! Hãy tiêu diệt ! Hūṃ [hồng] ! Hūṃ [hồng] ! Hãy tỏa sáng ! Hãy tỏa sáng ! Hãy khéo tỏa sáng ! Hãy khéo tỏa sáng ! Hãy dừng lại ! Hãy dừng lại ! Hỡi các vì sao ! Hỡi các vì sao ! Hãy xuất hiện ngay ! Hãy xuất hiện ngay ! Để tiêu tai cát tường. Svāhā [ta phạ ha] !). Bản dịch âm Hán ngữ (theo bản của Phật Thuyết Xí Thạnh Quang Đại Uy Đức Tiêu Tai Cát Tường Đà La Ni Kinh) là “Nẵng mồ tam mãn đa, một đà nẫm, a bát ra để hạ đa xá ta na nẩm, đát điệt tha. Án, khê khê, khê hế khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, tát phổ tra, tát phổ tra, phiến để ca thất rị duệ, ta phạ hạ (曩謨、三滿跢没駄喃、阿鉢囉底賀哆舍娑娜喃、怛姪他、唵佉佉、佉弖佉弖、吽吽、入嚩攞、入嚩攞、鉢囉入嚩攞、鉢囉入嚩攞、底瑟位、底瑟位、瑟致哩、瑟致哩、薩普吒、薩普吒、扇底迦、室哩曵、娑嚩賀)”. Thần chú này thường được tụng chung với Thập Chú trong thời công phu khuya và được dùng trong các khóa lễ cầu an.
(熾盛光王佛): hay Xí Thạnh Quang Phật Đảnh (s: Prajvaloṣṇīṣaḥ, 熾盛光王佛頂), vị Phật xuất hiện trong Kinh Xí Thạnh Quang Đại Uy Đức Tiêu Tai Cát Tường Đà La Ni (熾盛光大威德消災吉祥陀羅尼經, 1 quyển, còn gọi là Đại Uy Đức Tiêu Tai Cát Tường Đà La Ni [大威德消災吉祥陀羅尼], Tiêu Tai Cát Tường Kinh [消災吉祥經], Bất Không dịch, Taishō 19). Đây là thân giáo lịnh của Phật Thích Ca, do ánh sáng rực rỡ phát ra từ lỗ chân lông, nên có tên gọi như vậy, chủng tử của vị Phật này là bhrūṁ (悖嚕吽, bột rô hồng), hình Tam Muội Da là 12 vòng tròn bánh xe hay 3 cây chày. Vị Phật này có nhiều thân thuyết pháp khác nhau, có thuyết cho rằng vị này đồng nhất với Nhất Tự Kim Luân (一字金輪), hay Kim Luân Phật Đảnh (金輪佛頂) trong 8 vị Phật đảnh, hoặc như Quang Tụ Phật Đảnh (光聚佛頂).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập