Hãy thận trọng với những hiểu biết sai lầm. Điều đó còn nguy hiểm hơn cả sự không biết. (Beware of false knowledge; it is more dangerous than ignorance.)George Bernard Shaw
Nếu người nói nhiều kinh, không hành trì, phóng dật; như kẻ chăn bò người, không phần Sa-môn hạnh.Kinh Pháp cú (Kệ số 19)
Mỗi ngày khi thức dậy, hãy nghĩ rằng hôm nay ta may mắn còn được sống. Ta có cuộc sống con người quý giá nên sẽ không phí phạm cuộc sống này.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Nghệ thuật sống chân chính là ý thức được giá trị quý báu của đời sống trong từng khoảnh khắc tươi đẹp của cuộc đời.Tủ sách Rộng Mở Tâm Hồn
Không thể lấy hận thù để diệt trừ thù hận. Kinh Pháp cú
Thành công có nghĩa là đóng góp nhiều hơn cho cuộc đời so với những gì cuộc đời mang đến cho bạn. (To do more for the world than the world does for you, that is success. )Henry Ford
Hãy lặng lẽ quan sát những tư tưởng và hành xử của bạn. Bạn sâu lắng hơn cái tâm thức đang suy nghĩ, bạn là sự tĩnh lặng sâu lắng hơn những ồn náo của tâm thức ấy. Bạn là tình thương và niềm vui còn chìm khuất dưới những nỗi đau. (Be the silent watcher of your thoughts and behavior. You are beneath the thinkers. You are the stillness beneath the mental noise. You are the love and joy beneath the pain.)Eckhart Tolle
Tinh cần giữa phóng dật, tỉnh thức giữa quần mê.Người trí như ngựa phi, bỏ sau con ngựa hèn.Kính Pháp Cú (Kệ số 29)
Từ bi và độ lượng không phải là dấu hiệu của yếu đuối, mà thực sự là biểu hiện của sức mạnh.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Kẻ bi quan than phiền về hướng gió, người lạc quan chờ đợi gió đổi chiều, còn người thực tế thì điều chỉnh cánh buồm. (The pessimist complains about the wind; the optimist expects it to change; the realist adjusts the sails.)William Arthur Ward
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tử Lộ »»
(s: Amogha-siddhi, t: Don-yod-grub-pa, 不空成就佛): hay Bất Không Thành Tựu Như Lai (不空成就如來), gọi tắt là Bất Không Phật (不空佛); còn có các danh hiệu khác như Thiên Cổ Lôi Âm Phật (天鼓雷音佛), Thiên Cổ Âm Phật (天鼓音佛), Lôi Âm Vương Phật (雷音王佛); là tên gọi của một trong 5 vị Phật thuộc Kim Cang Giới (金剛界) của Mật Giáo, ngự ngay trung tâm của vòng Nguyệt Luân ở hướng chánh Bắc. Ngài tượng trưng cho Thành Sở Tác Trí (成所作智) của Ngũ Trí, là Bộ chủ của Nghiệp Bộ (業部). Trong Hội Thành Thân, thân của Ngài thể hiện sắc màu vàng; tay trái bắt ấn, để trên gót chân, tay phải đưa ngang ngực, ngồi xếp bằng trên tòa sen. Tuy nhiên, trong Phật Mẫu Khổng Tước Tôn Kinh Khoa Thức (佛母孔雀尊經科式, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 74, No. 1479) lại giải thích thân Ngài màu đen: “Phụng thỉnh Bắc phương Thành Tựu Phật, kỳ thân hắc sắc phóng quang minh, thủ ấn chấp trì Diệu Hàng Ma, chúng đẳng chí tâm quy mạng lễ (奉請北方成就佛、其身黑色放光明、手印執持妙降魔、眾等志心歸命禮, cung thỉnh Bắc phương Thành Tựu Phật, thân Ngài sắc đen phóng hào quang, tay ấn cầm giữ Diệu Hàng Ma, chúng con chí tâm cung kính lễ).” Mật hiệu của Ngài là Bất Động Kim Cang (不動金剛), chủng tử là aḥ, hình Tam Muội Da là Chày Yết Ma Chữ Thập. Trong Thai Tạng Giới gọi Ngài là Thiên Cổ Lôi Âm Phật. Tác phẩm Phật Danh Thích Điển Truyện Lược (佛名釋典傳略) cho biết rằng Bất Không Thành Tựu Phật đại biểu cho Thành Sở Tác Trí của Tỳ Lô Giá Na Phật (s: Vairocana, 毘盧遮那佛, tức Đại Nhật Như Lai [大日如來]); phần lớn hóa hiện sắc màu xanh lục, vàng kim; thường hiện hình tượng ngự giá trên Đại Bàng Kim Xí Điểu (大鵬金翅鳥) có thể hàng phục ác long, rắn độc. Ngài còn tượng trưng có thể lấy trí tuệ lớn để thành tựu sự nghiệp của tất cả chư Như Lai cũng như của chúng sanh. Hành giả Phật Giáo nếu gặp phải phiền não, lo âu, nên chí thành cầu xin sự gia trì Phật lực của đức Bất Không Thành Tựu, thì có thể được tự lợi và lợi tha, khiến cho hết thảy chúng sanh xa lìa khổ não. Trong Mật Giáo, Uế Tích Kim Cang Vương (穢跡金剛明王), đấng có đức chuyển hóa từ “bất tịnh” thành “thanh tịnh”, chính là hóa thân của Bất Không Thành Tựu Phật. Về ấn quyết của Ngài, trong Phật Thuyết Du Già Đại Giáo Vương Kinh (佛說瑜伽大敎王經, Taishō Vol. 18, No. 890) có đề cập rằng: “Dĩ hữu thủ tác Vô Úy tướng, thử thị Bất Không Thành Tựu Phật căn bản ấn (以右手作無畏相、此是不空成就佛根本印, dùng tay phải làm hình tướng Vô Úy, đây là ấn căn bản của Bất Không Thành Tựu Phật).” Về chư vị Bồ Tát quyến thuộc của Ngài, Tu Thiết Du Già Tập Yếu Thí Thực Đàn Nghi (修設瑜伽集要施食壇儀, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 59, No. 1081) cho biết rằng: “Thành Tựu Phật tứ Bồ Tát giả, nhất Kim Cang Nghiệp Bồ Tát, nhị Kim Cang Ngữ Bồ Tát, tam Kim Cang Dược Xoa Bồ Tát, tứ Kim Cang Quyền Bồ Tát (成就佛四菩薩者、一金剛業菩薩、二金剛語菩薩、三金剛藥叉菩薩、四金剛拳菩薩, bốn vị Bồ Tát của Thành Tựu Phật là, một Kim Cang Nghiệp Bồ Tát, hai Kim Cang Ngữ Bồ Tát, ba Kim Cang Dược Xoa Bồ Tát, bốn Kim Cang Quyền Bồ Tát).” Trong Kim Cang Đảnh Du Già Trung Phát A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề Tâm Luận (金剛頂瑜伽中發阿耨多羅三藐三菩提心論, Taishō Vol. 32, No. 1665) có giải thích rằng: “Bắc phương Bất Không Thành Tựu Phật, do thành Thành Sở Tác Trí, diệc danh Yết Ma Trí dã (北方不空成就佛、由成成所作智、亦名羯磨智也, Bất Không Thành Tựu Phật ở phương Bắc do thành tựu Thành Sở Tác Trí, nên cũng được gọi là Yết Ma Trí).” Phật Thuyết Du Già Đại Giáo Vương Kinh (佛說瑜伽大敎王經, Taishō Vol. 18, No. 890) quyển 5 lại giải thích thêm rằng: “Phục thứ hàng phục pháp, trì tụng giả tiên tưởng Hồng tự, hóa thành Bất Không Thành Tựu Phật, thân tướng lục sắc quảng đại viên mãn (復次降伏法、持誦者先想吽字、化成不空成就佛、身相綠色廣大圓滿, lại nữa về pháp hàng phục, người trì tụng nên trước tưởng tượng chữ Hồng, hóa thành Bất Không Thành Tựu Phật, thân tướng màu xanh lục, to lớn tròn đầy).” Trong Kim Cang Đảnh Du Già Tam Thập Thất Tôn Lễ (金剛頂瑜伽三十七尊禮, Taishō Vol. 18, No. 879) có đảnh lễ danh hiệu của Ngài: “Nam Mộ Tác Biến Hóa Thân Bất Không Thành Tựu Phật (南慕作變化身不空成就佛, Kính Lễ Phật Bất Không Thành Tựu Có Thân Biến Hóa).”
(甘旨): có nhiều nghĩa khác nhau:
(1) ngon ngọt; như trong Luận Quý Túc Sớ (論貴粟疏) của Triều Thác (晁錯, 200-154 trước CN) nhà Hán có câu: “Phù hàn chi ư y, bất đãi khinh noãn, cơ chi ư thực, bất đãi cam chỉ (夫寒之於衣、不待輕煖、飢之於食、不待甘旨, hễ lạnh thì nhờ vào áo mặc, chẳng kể thứ nhẹ ấm; hễ đói thì nhờ vào thức ăn, chẳng đợi đồ ngon ngọt).”
(2) Loại thực vật ngon ngọt. Như trong Kim Lâu Tử (金樓子), Lập Ngôn (立言) của Lương Nguyên Đế (梁元帝, tại vị 552-554) thời Nam Triều có câu: “Cam chỉ bách phẩm, nguyệt tế nhật tự (甘旨百品、月祭日祀, trăm thứ ngon ngọt, tháng cúng ngày thờ).” Hay như trong Liêu Trai Chí Dị (聊齋誌異), chương Cửu Sơn Vương (九山王) của Bồ Tùng Linh (蒲松齡, 1640-1715) nhà Thanh cũng có đoạn rằng: “Nga nhi hành tửu tiến soạn, bị cực cam chỉ (俄而行酒薦饌、僃極甘旨, trong chốt lát thì tiến hành dâng cúng rượu, mâm cỗ, chuẩn bị loại ngon ngọt nhất).”
(3) Chỉ loại thức ăn dùng để nuôi dưỡng song thân. Trong tờ Tấu Trần Tình Trạng (奏陳情狀) của Bạch Cư Dị (白居易, 772-846) nhà Đường có đoạn: “Thần mẫu đa bệnh, thần gia tố bần, cam chỉ hoặc khuy, vô dĩ vi dưỡng, dược bính hoặc khuyết, không trí kỳ ưu (臣母多病、臣家素貧、甘旨或虧、無以爲養、藥餌或闕、空致其憂, mẹ thần nhiều bệnh, nhà thần nghèo cùng, thức ăn ngon ngọt có khi thiếu thốn, chẳng lấy gì nuôi dưỡng song thân, thuốc men khuyết hụt, không có gì làm cho người yên lòng).”
Từ đó, có cụm từ “cúng cam chỉ (供甘旨)” nghĩa là cung phụng cha mẹ hết mực để báo hiếu. Như Trong Nhị Thập Tứ Hiếu (二十四孝), câu chuyện Phụ Mễ Dưỡng Thân (負米養親, vác gạo nuôi song thân) của Tử Lộ (子路) có đoạn thơ rằng: “Phụ mễ cúng cam chỉ, ninh từ bách lí diêu, thân vinh thân dĩ một, do niệm cựu cù lao (負米供甘旨、寧辭百里遙、身榮親已沒、猶念舊劬勞, vác gạo nuôi cha mẹ, chẳng từ trăm dặm xa, giàu sang người đã mất, còn nhớ công ơn xưa).” Hay trong Đại Huệ Phổ Giác Thiền Sư Pháp Ngữ (大慧普覺禪師法語) quyển 20 có đoạn: “Phụ mẫu bất cúng cam chỉ, Lục Thân cố dĩ khí ly, thân cư thanh tịnh già lam, mục đỗ cam dung thánh tướng (父母不供甘旨、六親固以棄離、身居清淨伽藍、目睹紺容聖相, cha mẹ chẳng tròn hiếu đạo, Lục Thân lại phải xa rời, thân sống già lam thanh tịnh, mắt trông thánh tướng dung hiền).” Hoặc trong Quy Sơn Đại Viên Thiền Sư Cảnh Sách (潙山大圓禪師警策) của Quy Sơn Linh Hựu (潙山靈祐) cũng có câu tương tự như vậy: “Phụ mẫu bất cung cam chỉ, Lục Thân cố dĩ khí ly, bất năng an quốc trị bang, gia nghiệp đốn quyên kế tự (父母不供甘旨、六親固以棄離、不能安國治邦、家業頓捐繼嗣, cha mẹ chẳng tròn hiếu đạo, Lục Thân lại phải xa rời, chẳng thể an nhà trị nước, gia nghiệp dứt bỏ kế thừa).”
(朱雀):
(1) Tên của một loại thần điểu, như trong Mộng Khê Bút Đàm (夢溪筆談) quyển 7 có câu: “Tứ phương thủ tượng, Thương Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Quy Xà; duy Châu Tước mạc tri hà vật, đản vị điểu nhi châu giả, vũ tộc xích tường thượng, tập tất phụ mộc, thử hỏa chi tượng dã; hoặc vị chi trường cầm (四方取象、蒼龍、白虎、朱雀、龜蛇、唯朱雀莫知何物、但謂鳥而朱者、羽族赤而翔上、集必附木、此火之象也、或謂之長离, bốn phương có các hình tượng là Thương Long, Bạch Hổ, Châu Tước, Quy Xà; chỉ có Châu Tước không biết thuộc vật nào; có người bảo rằng chim màu đỏ là loại có lông đỏ mà bay liệng trên cao; khi tập trung thì nương vào cây; loại này tượng trưng cho lửa; hoặc bảo nó là loài chim dài).”
(2) Tên gọi chung của bảy ngôi sao ở phương Nam, gồm: Tỉnh (井), Quỷ (鬼), Liễu (柳), Tinh (星), Trương (張), Dực (翼) và Chẩn (軫). Cho nên, trong Thái Thượng Hoàng Lục Trai Nghi (太上黃籙齋儀) quyển 44 của Đạo Giáo gọi Nam Phương Châu Thôi Tinh Quân (南方朱崔星君) là Tỉnh Tú Thiên Tỉnh Tinh Quân, Quỷ Tú Thiên Quỹ Tinh Quân, Liễu Tú Thiên Trù Tinh Quân, Tinh Tú Thiên Khố Tinh Quân, Trương Tú Thiên Bình Tinh Quân, Dực Tú Thiên Đô Tinh Quân, Chẩn Tú Thiên Nhai Tinh Quân (井宿天井星君、鬼宿天匱星君、柳宿天廚星君、星宿天庫星君、張宿天秤星君、翼宿天都星君、軫宿天街星君).
(3) Một trong Tứ Linh (四靈), là vị thần thủ hộ phương Nam trong thần thoại cổ đại Trung Quốc, còn gọi là Châu Điểu (朱鳥), cũng gọi là Phụng Hoàng (鳳凰) hay Huyền Điểu (玄鳥). Châu là màu đỏ, tượng trưng cho lửa, phương Nam thuộc lửa, nên có tên Phụng Hoàng. Châu Tước cũng thuộc một dạng của Bất Tử Điểu (不死鳥) ở phương Tây, vì vậy có tên là Khiếu Hỏa Phụng Hoàng (叫火鳳凰). Trong Bắc Cực Thất Nguyên Tử Diên Bí Quyết (北極七元紫延秘訣) của Đạo Giáo có đề cập đến hiệu của Châu Tước là “Lăng Quang Thần Quân (陵光神君).” Trong Đạo Môn Thông Giáo Tất Dụng Tập (道門通敎必用集) quyển 7 có giải thích rằng: “Nam phương Châu Thôi, tùng cầm chi trưởng, đan huyệt hóa sanh, bích lôi lưu hưởng, kỳ thái ngũ sắc, thần nghi Lục Tượng, lai đạo ngã tiền (南方朱崔、從禽之長、丹穴化生、碧雷流響、奇彩五色、神儀六象、來導吾前, Châu Thôi phương Nam, từ loài chim lớn lên, hóa sanh trong hang đỏ, sấm xanh vang tiếng, năm sắc kỳ diệu, dung nghi vượt Sáu Loài, dẫn đến trước ta).” Đạo Giáo dùng tên Châu Tước làm thuật ngữ luyện đan, như trong Vân Cấp Thất Hy (雲笈七羲) quyển 72 có dẫn bài Cổ Kinh (古經), cho rằng: “Châu Thôi giả, Nam phương Bính Đinh Hỏa Chu Sa dã; bào dịch thành long, kết khi thành điểu; kỳ khí đằng nhi vi thiên, kỳ chất trận nhi vi địa; sở dĩ vi đại đan chi bổn dã; kiến hỏa tức phi, cố đắc Châu Thôi chi xưng dã; Thanh Long đích phương vị thị Đông, đại biểu Xuân quý; Bạch Hổ đích phương vị thị Tây, đại biểu Thu quý; Châu Tước đích phương vị thị Nam, đại biểu Hạ quý; Huyền Võ đích phương vị thị Bắc, đại biểu Đông quý (朱崔者、南方丙丁火朱砂也、刨液成龍、結氣成鳥、其氣騰而爲天、其質陣而爲地、所以爲大丹之本也、見火卽飛、故得朱崔之稱也、青龍的方位是東、代表春季、白虎的方位是西、代表秋季、朱雀的方位是南、代表夏季、玄武的方位是北、代表冬季, Châu Thôi là Chu Sa, Bính Đinh, thuộc Hỏa; biến chất dịch thành rồng, kết khí thành chim; khí của nó bốc lên làm trời, chất của nó dàn trận thành đất, nên được gọi là nguồn gốc của màu đỏ huyết; thấy lửa thì bay, nên có tên gọi Châu Thôi; phương vị của Thanh Long là Đông, đại diện cho mùa Xuân; phương vị của Bạch Hổ là Tây, đại diện cho mùa Thu; phương vị của Châu Tước là Nam, đại diện cho mùa Hạ; phương vị của Huyền Võ là Bắc, đại diện cho mùa Đông).”
(4) Tên gọi của một trong Lục Thú (六獸) hay Lục Thần (六神), gồm: Thanh Long (青龍), Châu Tước (朱雀), Câu Trần (勾陳), Đằng Xà (騰蛇), Bạch Hổ (白虎) và Huyền Võ (玄武).
(5) Tên của một trong 12 vị Thiên Tướng, gồm: Thanh Long (青龍), Bạch Hổ (白虎), Huyền Võ (玄武), Châu Tước (朱雀), Quý Nhân (貴人), Đằng Xà (螣蛇), Lục Hợp (六合), Câu Trần (勾陳), Thiên Không (天空), Thái Thường (太常), Thái Âm (太陰) và Thiên Hậu (天后). (6) Tên gọi của một trong 8 vị thần, gồm: Trực Phù (直符), Đằng Xà (螣蛇), Thái Âm (太陰), Lục Hợp (六合), Câu Trần (勾陳), Châu Tước (朱雀), Cửu Địa (九地) và Cửu Thiên (九天).
(檀家制度, Danka-seido, Đàn Gia Chế Độ): chế độ thắt chặt mối quan hệ giữa chùa chiền với tín đồ Phật tử theo điều kiện do các tự viện tiến hành một cách độc chiếm việc tang tế cúng dường của nhà Đàn Việt (Phật tử tại gia) kể từ thời Giang Hộ trở đi. Nguyên do thành lập nên chế độ này vốn phát xuất từ chính sách đàn áp Thiên Chúa Giáo của chính quyền Mạc Phủ Giang Hộ; và tự viện là trợ lực trong việc thi hành chính sách này. Chế độ này sớm được thành lập vào năm 1634 (Khoan Vĩnh [寛永] 11), và 4 năm sau thì được tiến hành rộng rãi trên toàn quốc. Đối với người không phải là tín đồ Thiên Chúa Giáo thì bắt buộc phải có Bản Chứng Minh Chùa Công Nhận vốn do vị trú trì chùa ấy bảo chứng về thân phận người đó. Với khế cơ đó, các tự viện đã thành công trong việc cố định được những người sống gần chùa trở thành tín đồ của chùa. Việc này gọi là Chế Độ Xin Chùa Công Nhận (寺請制度, Terauke-seido). Sau đó, khi chính sách đàn áp Thiên Chúa Giáo của chính quyền Mạc Phủ càng được tăng cường ráo riết, thì quyền hạn của các tự viện cũng từ từ lớn mạnh thêm lên. Trong hai năm 1659 (Vạn Trị [萬治] 2) và 1662 (Khoan Văn [寛文] 2), theo như pháp chế của chính quyền Mạc Phủ thì Bồ Đề Tự (菩提寺, Bodai-ji) có trách nhiệm trong việc làm cho cải đổi tông môn của tín đồ Thiên Chúa Giáo; vì thế quyền hạn của của chùa lại càng vững mạnh hơn thêm. Đến năm 1687 (Trinh Hưởng [貞享] 4), pháp chế của chính quyền nêu rõ rằng nhà tín đồ phải có nghĩa vụ đến tham bái ngôi chùa mình quy y theo, tổ chức lễ kỵ giỗ cho song thân tại chùa, v.v. Nếu ai không chấp nhận quy chế như vậy thì sẽ bị loại trừ ra khỏi danh sách nhà Đàn Việt, bị dán cho nhãn hiệu là tín đồ Thiên Chúa Giáo và bị xử phạt. Hơn nữa, khoảng vào năm 1730 (Hưởng Bảo [享保] 15), phía các tự viện lại chế ra Luật Tông Môn Đàn Na Thỉnh Hợp, để nói rõ về những nghĩa vụ của người tín đồ đối với ngôi chùa của mình thế nào. Đó là những quy định như hằng ngày đến tham bái, tham dự các buổi lễ kỵ giỗ hằng năm, kỵ Tổ sư, ngày Phật Đản, ngày đức Thích Ca Nhập Niết Bàn, Vu Lan, v.v. Ngoài ra, người tín đồ buộc phải đảm đương về mặt kinh tế với nhiều danh mục như tiền xây dựng cũng như tân trang cùa chiền, tiền cống nạp cho ngôi chùa trung tâm bản sơn, v.v. Đương nhiên, việc tách ly khỏi chùa hay chuyển sang chùa khác thì bị nghiêm khắc cấm chỉ, còn người tín đồ thì không có quyền hạn lựa chọn ngôi chùa mình muốn theo. Nói tóm lại, Chế Độ Nhà Đàn Việt của chính quyền Mạc Phủ Giang Hộ ban ra là chế độ do các tự viện quản lý một cách hoàn toàn các tín đồ tại gia, là tổ chức do tín đồ góp công nuôi sống các tự viện. Từ cuối thời Minh Trị (明治, Meiji, 1868-1911) trở đi, chế độ này vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay dưới hình thức môi giới nghi lễ tống táng. Tuy nhiên, do vì hàng tín đồ di chuyển chỗ ở của họ, rồi những công viên mộ tập thể ra đời, nên cũng có nhiều trường hợp thoát ly khỏi ngôi chùa họ quy y theo. Còn ở vùng nông thôn, trong số những ngôi chùa xưa nay nương nhờ vào sự bảo trợ của Chế Độ Nhà Đàn Việt này để tồn tại, thì cũng có không ít chùa đã trở thành hoang phế. Hơn nữa, ngày nay việc lo tống táng phần nhiều đều do các Công Ty Mai Táng đảm trách; nên nếu nói về mặt tín ngưỡng thì người tín đồ có quyền chọn lựa. Thêm vào đó, các nghi lễ tống táng theo kiểu Thần Đạo, Thiên Chúa Giáo, tân tôn giáo hay vô tôn giáo cũng rất thịnh hành; vì thế Chế Độ Nhà Đàn Việt do vị Trú Trì nắm quyền chủ đạo như dưới thời Giang Hộ, thì nay không còn nữa.
(九泉): chín suối, nơi mai táng người chết, là tên gọi khác của Huỳnh Tuyền (黃泉), Âm Ty (陰司) hay Địa Ngục (地獄). Từ này vốn xuất xứ từ bài thơ Thất Ai (七哀) của Nguyễn Vũ (阮瑀, ?-212) nhà Hán: “Minh minh Cửu Tuyền thất, man man trường dạ đài (冥冥九泉室,漫漫長夜台, mịt mờ nhà Cửu Tuyền, mênh mang đài đêm trường).” Hay như trong Dương Bình Vương Truyện (陽平王傳) của Ngụy Thư (魏書) có câu: “Nhược vi tử quỷ, vĩnh khoáng thiên nhan, Cửu Tuyền chi hạ, thật thâm trùng hận (若爲死鬼、永曠天顏、九泉之下、實深重恨, nếu làm quỷ chết, mãi xa mặt trời, dưới cõi Chín Suối, thật sâu thẳm hận).” Trong Truyện Kiều cũng có câu: “Trên Tam Đảo dưới Cửu Tuyền, tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.” Về con số 9, theo quan niệm của cổ đại Trung Quốc, nó biểu thị ý nghĩa nhiều, cực lớn; như sách y thuật cổ Tố Vấn (素問) có giải thích rằng: “Thiên địa chi chí số, thỉ ư nhất, chung ư cửu yên (天地之至數、始於一、終於九焉, con số tột cùng của trời đất khởi đầu bằng số 1 và kết thúc bằng số 9).” Quan niệm về Cửu Tuyền vốn phát xuất từ kinh nghiệm đào giếng của người xưa. Khi đào sâu xuống lòng đất, người ta phát hiện dòng nước suối, nước chảy ra từ lớp đất vàng, thường có màu vàng; cho nên, cổ nhân thường gọi tầng sâu thẳm của lòng đất là Huỳnh Tuyền (Suối Vàng). Thế giới của người chết thường được xem như là dưới Âm Tào Địa Phủ (陰曹地府), trong lòng đất sâu thẳm; từ đó, người ta thêm số 9 vào chữ tuyền (泉) để chỉ một nơi sâu thẳm như Âm Tào Địa Phủ và cũng là nơi yên nghĩ của người chết.
(妙覺): tự giác ngộ chính mình, làm cho người khác giác ngộ, sự giác ngộ và hạnh nguyện tròn đầy, không thể nghĩ bàn, đó gọi là Diệu Giác; tức là quả vị Phật vô thượng chánh giác; là một trong 52 hay 42 giai vị tu hành của Bồ Tát Đại Thừa; còn gọi là Diệu Giác Địa (妙覺地). Hàng Nhị Thừa (Thanh Văn [s: śrāvaka, 聲聞] và Duyên Giác [s: pratyeka-buddha, p: pacceka-buddha, 緣覺]) thì dừng lại ở cấp độ tự giác, không có công năng giác tha. Còn Bồ Tát tuy cùng song hành cả tự giác lẫn giác tha, nhưng chưa viên mãn; chỉ có Phật mới viên mãn cả hai, thể giác ngộ không thể nghĩ bàn. Tam Tạng Pháp Số (三藏法數) quyển 26 định nghĩa rằng: “Tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn, bất khả tư nghì, cố danh Diệu Giác Tánh (自覺覺他、覺行圓滿、不可思議、故名妙覺性, tự mình giác ngộ, làm cho người khác giác ngộ, giác ngộ và hạnh nguyện tròn đầy, không thể nghĩ bàn, nên gọi là Tánh Diệu Giác).” Thiên Thai Tứ Giáo Nghi (天台四敎儀, Taishō Vol. 46, No. 1931) do Sa Môn Đế Quán (諦觀) người Cao Lệ thâu lục, giải thích rõ sự sai khác giữa Diệu Giác của Biệt Giáo và Viên Giáo thế nào. Quả vị Diệu Giác của Biệt Giáo ngồi trên tòa Đại Bảo Hoa Vương (大寶華王), dưới cây bồ đề có bảy báu thuộc thế giới Liên Hoa Tạng (蓮華藏), hiện Viên Mãn Báo Thân (圓滿報身), vì các Bồ Tát độn căn mà chuyển vô lương bánh xe pháp Tứ Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦). Trong khi đó, quả vị Diệu Giác của Viên Giáo thì lấy hư không làm tòa ngồi, thành tựu Thanh Tịnh Pháp Thân (清淨法身), trú tại Thường Tịch Quang Độ (常寂光土). Như trong Ngột Am Phổ Ninh Thiền Sư Ngữ Lục (兀菴普寧禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1404) có giải thích rằng: “Chí thử Diệu Giác vị, vị chi Như Lai địa, thuyết pháp như vân, lợi sanh như vũ, tự lợi lợi tha, độ vị độ dã (至此妙覺位、謂之如來地、說法如雲、利生如雨、自利利他、度未度也, đạt đến quả vị Diệu Giác này, gọi đó là cảnh địa của Như Lai, thuyết pháp như mây, làm lợi ích quần sanh như mưa, tự lợi và lợi tha, độ cho những người chưa được độ).” Hay trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 8, Chương Pháp Khí (法器章) thứ 9, lại có câu: “Vị nhân nhân diệu giác bổn vô phàm thánh, vật vật toàn chân ninh hữu tịnh uế (謂人人妙覺本無凡聖、物物全眞寧有淨穢, bảo rằng người người diệu giác vốn không phàm thánh, vật vật toàn chân sao có sạch nhớp).”
(德川光圀, Tokugawa Mitsukuni, 1628-1700): Phiên chủ đời thứ 2 của Phiên Thủy Hộ (水戸藩, Mito-han) thuộc tiểu quốc Thường Lục (常陸, Hitachi), sống vào khoảng đầu thời Giang Hộ. Tên lúc nhỏ của ông là Tam Mộc Trường Hoàn (三木長丸), Đức Xuyên Thiên Đại Tùng (德川千代松), Đức Lượng (德亮); tự là Tử Long (子龍), Quán Chi (觀之); hiệu Nhật Tân Trai (日新齋), Thường Sơn Nhân (常山人), Suất Nhiên Tử (率然子), Mai Lí (梅里); biệt danh là Thủy Hộ Quang Quốc (水戸光圀), Thủy Hộ Hoàng Môn (水戸黃門); thụy hiệu là Nghĩa Công (義公); thần hiệu là Cao Nhượng Vị Đạo Căn Chi Mạng (高讓味道根之命); thân phụ là Đức Xuyên Lại Phòng (德川賴房, Tokugawa Yorifusa), mẫu thân là Cốc Cửu Tử (谷久子). Năm 1661 (Khoan Văn [寬文] nguyên niên), ông kế thừa sự nghiệp dòng họ, chỉ huy chính trị của Phiên trong vòng 29 năm trường, đã đóng góp công lao to lớn trong việc xác lập nền chính trị của Phiên thông qua các việc cấm tuẫn tử (殉死, dùng người sống chôn theo người chết), cải cách và chỉnh lý các đền thờ cũng như tự viện, chính sách khuyến nông, nêu cao đạo phong của sĩ phu, v.v. Chính ông đã phê phán lịnh thương xót sinh loại của Tướng Quân Đức Xuyên Cương Cát (德川綱吉, Tokugawa Tsunayoshi); và đến năm 1690 (Nguyên Lộc [元祿] 3), vì tuổi già sức yếu, ông lui về ẩn cư ở Tây Sơn Trang (西山莊), tự xưng là Tây Sơn Ẩn Sĩ (西山隱士); và nhường lại gia nghiệp cho Đức Xuyên Cương Điều (德川綱條, Tokugawa Tsunaeda), con của người anh Lại Trùng (賴重). Ông là người chuyên khuyến khích Nho học, mở ra Chương Khảo Quán (彰考館) để biên tập bộ Đại Nhật Bản Sử (大日本史), dồn hết năng lực chú thích bộ Vạn Diệp Tập (萬葉集) và tạo cơ sở vững chắc cho Thủy Hộ Học. Bên cạnh đó, ông còn kiến lập bia của Nam Công (楠公), ở vùng Thấu Xuyên (湊川), và mời sứ thần nhà Minh là Chu Thuấn Thủy (朱舜水) sang Phiên Thủy Hộ. Chính vì lẽ đó, những dật thoại cũng như truyền ký về Đức Xuyên Quang Quốc được thêu dệt và viết nên rất nhiều; xuất hiện các giảng đàm và sách thật lục về một vị minh quân như Quang Quốc, tạo ảnh hưởng lớn vào thời Cận Đại. Đặc biệt câu chuyện ông đi du hóa ở các tiểu quốc để xem xét dân tình, dẹp trừ bạo loạn, tham ô, v.v., là đề tài được mọi người rất ưa thích bàn luận, được ghi lại trong tác phẩm Đông Hải Đạo Trung Tất Lật Mao (東海道中膝栗毛) của Thập Phản Xá Nhất Cửu (十返舍一九, Jippensha Ikkū) dưới biệt danh là Thủy Hộ Hoàng Môn.
(夏臘, 夏臈): còn gọi là Tăng Lạp (僧臘), Pháp Lạp (法臘), Pháp Tuế (法歲), Pháp Hạ (法夏), Giới Lạp (戒臘), Tọa Lạp (坐臘), Tọa Hạ Pháp Lạp (坐夏法臘); chỉ cho số năm An Cư Kiết Hạ của vị Tỳ Kheo (s: bhikṣu, p: bhikkhu, 比丘) sau khi thọ giới Cụ Túc. Mỗi năm từ ngày 16 tháng 4 cho đến ngày rằm tháng 7 âm lịch, trong vòng 3 tháng, các tòng lâm có tổ chức An Cư Kiết Hạ, lấy ngày cuối cùng của thời gian ấy làm ngày kết thúc của một năm; tức là ngày thọ thêm 1 tuổi. Cho nên, các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni (s: bhikṣuṇī, p: bhikkhunī, 比丘尼), sau khi thọ giới xong, vào dịp kết thúc kỳ An Cư Kiết Hạ, sẽ được tăng thêm 1 tuổi nữa. Tùy theo tuổi Hạ ít nhiều mà phân làm Thượng Lạp (上臘), Trung Lạp (中臘) và Hạ Lạp (下臘), để phân định cao thấp, tôn ty thượng hạ. Người có tuổi Hạ cao nhất được gọi là Nhất Lạp (一臘), Cực Lạp (極臘), Lạp Mãn (臘滿). Trong Hám Sơn Lão Nhân Mộng Du Tập (憨山老人夢遊集, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 73, No. 1456) quyển 21 có đoạn: “Sở trú giả Pháp Lạp, cố cổ chi cao tăng, viết Thế Thọ, hựu viết Pháp Lạp; cái bất câu tuế niên, nhi dĩ sơ nhập thọ trì giới phẩm, tam nguyệt An Cư, giới thể vô khuy vi nhất lạp, do dĩ lạp bất dĩ niên, cố hữu niên cao nhi lạp thiểu giả, hữu đồng niên nhi kì thọ giả (所住者法臘、故古之高僧、曰世壽、又曰法臘、蓋不拘歲年、而以初入受持戒品、三月安居、戒體無虧爲一臘、由以臘不以年、故有年高而臘少者、有童年而耆壽者, Pháp Lạp của người cư trú, chư vị cao tăng xưa gọi là Thế Thọ, hay còn gọi là Pháp Lạp; vì không kể tuổi đời, mà lấy việc mới vào thọ trì giới phẩm, ba tháng An Cư, giới thể không bị thiếu là một Lạp, do vì lấy Hạ Lạp mà không lấy tuổi đời; cho nên có người tuổi đời cao mà Hạ Lạp ít, có người tuổi đời ít mà tuổi thọ cao).” Trong Thích Thị Yếu Lãm (釋氏要覽, Taishō Vol. 54, No. 2127) quyển Hạ lại giải thích rõ rằng: “Hạ Lạp, tức Thích thị Pháp Tuế dã; phàm tự trưởng ấu, tất vấn, Hạ Lạp đa giả vi trưởng (夏臘、卽釋氏法歲也、凡序長幻、必問、夏臘多者爲長, Hạ Lạp là Pháp Tuế nhà Phật; phàm muốn biết thứ tự lớn nhỏ, cần phải hỏi, Hạ Lạp nhiều là lớn).” Hay trong Báo Ân Luận (報恩論, 卍 Xuzangjing Vol. 62, No. 1205) quyển Thượng có đề cập rằng: “Phàm xuất gia nhị chúng, Đông Hạ nhập Lan Nhã giảng học, Xuân Thu quy gia dưỡng phụ mẫu, cố tăng gia tự xỉ xưng Hạ Lạp, bất xưng niên (凡出家二眾、冬夏入蘭若講學、春秋歸家養父母、故僧家序齒稱夏臘、不稱年, phàm hai chúng xuất gia, mùa Đông và Hạ thì vào chùa tu học, đến mùa Xuân và Thu thì về nhà phụng dưỡng cha mẹ; nên tuổi tác của tăng sĩ được gọi là Hạ Lạp, không gọi là năm [tuổi đời]).” Trong Tống Cao Tăng Truyện (宋高僧傳, q.16, Taishō Vol. 50, No. 2061) quyển 16, phần Đường Giang Châu Hưng Quả Tự Thần Thấu Truyện (唐江州興果寺神湊傳) cũng có đoạn: “Nguyên Hòa thập nhị niên cửu nguyệt cấu tật, nhị thập lục nhật nghiễm nhiên tọa chung vu tự, thập nguyệt thập cửu nhật môn nhân phụng toàn thân biếm vu tự Tây đạo Bắc phụ Nhạn Môn phần tả, nhược tăng Thuyên táng cận Quách Văn chi mộ dã, xuân thu thất thập tứ, Hạ lạp ngũ thập nhất (元和十二年九月遘疾、二十六日儼然坐終于寺、十月十九日門人奉全身窆于寺西道北祔雁門墳左、若僧詮葬近郭文之墓也、春秋七十四、夏臘五十一, vào tháng 9 năm thứ 12 [817] niên hiệu Nguyên Hòa, ông nhuốm bệnh, đến ngày 26 thì nghiễm nhiên ngồi thị tịch tại chùa; vào ngày 19 tháng 10, môn nhân đem toàn thân của ông an táng ở phía Tây chùa, sau hợp táng ở bên trái đồi Nhạn Môn, giống như vị tăng Đạo Thuyên an táng gần mộ của Quách Văn vậy; ông hưởng thọ 74 tuổi đời và 51 Hạ lạp).”
(和光同塵): vốn xuất xứ từ lời dạy của Lão Tử trong Đạo Đức Kinh (道德經) rằng: “Hòa kỳ quang, đồng kỳ trần (和其光、同其塵, hòa với ánh sáng ấy, đồng với bụi trần ấy)”; nghĩa là cùng với trần tục hợp lại với nhau, nhưng không tự lập dị. Theo Phật Giáo, từ này chỉ cho chư Phật, Bồ Tát vì cứu độ chúng sanh mà ẩn tàng ánh sáng trí tuệ, lấy phương tiện quyền giả của Ứng Hóa Thân (應化身) mà sanh ra nơi cõi trần thế đầy rẫy phiền não, khổ đau; cùng kết duyên với chúng sanh, dần dần dẫn dắt họ đến với Phật pháp, nhưng vẫn siêu trần thoát tục; như trường hợp Phổ Môn Thị Hiện của Bồ Tát Quan Âm (s: Avalokiteśvara, 觀音), v.v. Như trong Ma Ha Chỉ Quán (摩訶止觀, Taishō Vol. 46, No. 1911) quyển 6 có dạy rằng: “Hòa quang đồng trần, kết duyên chi thỉ; Bát Tướng Thành Đạo, dĩ luận kỳ chung (和光同塵、結緣之始、八相成道、以論其終, hòa quang đồng trần, ban đầu kết duyên; Tám Tướng Thành Đạo, để luận chung cuộc).” Tuy nhiên, Đại Bát Niết Bàn Kinh (大般涅槃經, Taishō Vol. 12, No. 375) quyển 6 lại đưa ra thuyết “hòa quang bất đồng trần (和光不同塵)” với ý nghĩa rằng chư Phật, Bồ Tát vì muốn đạt mục đích cứu độ chúng sanh nên cùng hòa hợp với chúng sanh nơi cõi trần thế, nhưng không bị ô nhiễm. Cho nên, Duy Ma Kinh Lược Sớ Thùy Dụ Ký (維摩經略疏垂裕記, Taishō Vol. 38, No. 1779) quyển 5 có dạy rằng: “Hòa quang bất đồng kỳ trần giả phương tiện hiện tật, cố viết hòa quang; nội vô hoặc nghiệp, cố bất đồng trần (和光不同其塵者方便現疾、故曰和光、內無惑業、故不同塵, hòa cùng ánh sáng mà chẳng đồng với bụi trần ấy, phương tiện hiện ra tật bệnh, nên gọi là hòa quang; trong không có nghiệp mê hoặc, nên không đồng trần).” Trong Quy Sơn Cảnh Sách Chú (溈山警策註, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 63, No. 1239) lại có câu rằng: “Ẩn mai kỳ tích nhi hòa quang đồng trần, thao tàng hư danh nhi khử hoa vụ thật (隱晦其跡而和光同塵、韜藏虛名而去華務實, mai danh ẩn tích mà hòa quang đồng trần, giấu kín hư danh mà bỏ hoa lấy quả).” Hay trong Phạm Võng Kinh Trực Giải (梵網經直解, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 38, No. 697) cũng có đoạn rằng: “Chư Phật Bồ Tát, giáo hóa chúng sanh, tất nhiên ẩn Thánh hiện liệt, hòa quang đồng trần, dĩ đồng chúng sanh thân tướng sự nghiệp, như ảnh tùy hình, cửu hóa phương quy, sử kỳ giải thoát; thị cố giả thọ Tứ Đại huyễn thân, giả thọ Ngũ Uẩn hình mạng, nhi nhập lợi ích Tam Muội (諸佛菩薩、敎化眾生、必然隱聖現劣、和光同塵、以同眾生身相事業、如影隨形、久化方皈、使其解脫、是故假受四大幻身、假受五蘊形命、而入利益三昧, chư Phật Bồ Tát, giáo hóa chúng sanh, tất nhiên giấu sự Thánh thiện mà hiện ra sự yếu kém, hòa quang đồng trần, để cùng với thân tướng sự nghiệp của chúng sanh, như bóng theo hình, hóa độ lâu mới quy phục; cho nên mới giả thọ thân huyễn Bốn Đại, giả thọ hình hài Năm Uẩn, mà nhập vào lợi ích Tam Muội).”
(黃庭堅, 1045-1105): thi nhân và họa sĩ dưới thời Bắc Tống, xuất thân Phân Ninh (分寧), Hồng Châu (洪州), tự Lỗ Trực (魯直), hiệu là Sơn Cốc (山谷). Thơ của ông có thể sánh ngang hàng với Tô Thức (蘇軾) và được gọi là Tô Hoàng (蘇黃). Tranh vẽ của ông được xếp hàng vào một trong 4 nhà danh họa Bắc Tống, đặc biệt ông có tài viết chữ thảo.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.196 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập