Người khôn ngoan học được nhiều hơn từ một câu hỏi ngốc nghếch so với những gì kẻ ngốc nghếch học được từ một câu trả lời khôn ngoan. (A wise man can learn more from a foolish question than a fool can learn from a wise answer.)Bruce Lee
Hoàn cảnh không quyết định nơi bạn đi đến mà chỉ xác định nơi bạn khởi đầu. (Your present circumstances don't determine where you can go; they merely determine where you start.)Nido Qubein
Con tôi, tài sản tôi; người ngu sinh ưu não. Tự ta ta không có, con đâu tài sản đâu?Kinh Pháp Cú (Kệ số 62)
Cuộc đời là một tiến trình học hỏi từ lúc ta sinh ra cho đến chết đi. (The whole of life, from the moment you are born to the moment you die, is a process of learning. )Jiddu Krishnamurti
Một người trở nên ích kỷ không phải vì chạy theo lợi ích riêng, mà chỉ vì không quan tâm đến những người quanh mình. (A man is called selfish not for pursuing his own good, but for neglecting his neighbor's.)Richard Whately
Khi gặp chướng ngại ta có thể thay đổi phương cách để đạt mục tiêu nhưng đừng thay đổi quyết tâm đạt đến mục tiêu ấy. (When obstacles arise, you change your direction to reach your goal, you do not change your decision to get there. )Zig Ziglar
Có những người không nói ra phù hợp với những gì họ nghĩ và không làm theo như những gì họ nói. Vì thế, họ khiến cho người khác phải nói những lời không nên nói và phải làm những điều không nên làm với họ. (There are people who don't say according to what they thought and don't do according to what they say. Beccause of that, they make others have to say what should not be said and do what should not be done to them.)Rộng Mở Tâm Hồn
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Mỗi ngày, hãy mang đến niềm vui cho ít nhất một người. Nếu không thể làm một điều tốt đẹp, hãy nói một lời tử tế. Nếu không nói được một lời tử tế, hãy nghĩ đến một việc tốt lành. (Try to make at least one person happy every day. If you cannot do a kind deed, speak a kind word. If you cannot speak a kind word, think a kind thought.)Lawrence G. Lovasik
Ngủ dậy muộn là hoang phí một ngày;tuổi trẻ không nỗ lực học tập là hoang phí một đời.Sưu tầm
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Tứ Đế »»
(s: Aśoka, p: Asoka, Aikuō, 阿育王, tại vị khoảng 270-230 ttl): âm dịch là A Du Ca (阿輸迦), ý dịch là Vô Ưu (無憂) gọi tắt là Dục Vương (育王), vị vua đời thứ 3 của vương triều Khổng Tước (s: Maurya, 孔雀) vốn lấy thành phố Pāṭaliputra (tức Hoa Thị Thành [華氏城]) của nước Ma Kiệt Đà (s, p: Magadha, 摩掲陀) làm thủ đô. Trong kinh điển Bắc Truyền bằng tiếng Phạn, Hán và Tây Tạng, đại thể ông xuất hiện khoảng hơn 100 năm sau khi đức Phật diệt độ; theo truyền thuyết của thánh điển Pāli thì cho rằng ông tức vị vào năm thứ 128 sau khi đức Phật diệt độ. Niên đại này được suy định từ niên đại của các vị vua Girisha mà có trong bản pháp sắc văn của nhà vua. Khi vua này tại vị, Ấn Độ là quốc gia vĩ đại thống nhất lần đầu tiên và chiếm đại bộ phận nước Ấn Độ dưới thời đại Anh Quốc. Vào thời trai trẻ, ông rất hung bạo đã giết anh em mình để lên làm vua rồi xâm lược các quốc gia lân cận; thế nhưng cuối cùng ông mới phản tỉnh hiểu được rằng bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng bi thảm cũng có nhiều người phải hy sinh, cho nên ông tự trách mình và vô cùng ân hận. Chính sự ân hận ấy đã dẫn dắt ông đến với Phật Giáo, biết rõ rằng chính Phật Giáo có lợi ích cho lí tưởng của nhân sinh và hoà bình của xã hội. Vì vậy ông đã qui y và nỗ lực tuyên xướng giáo lý Phật Giáo. Nhà vua đã đặt tên cho giáo lý này là “pháp”, cho biệt phái các vị Pháp Đại Thần cũng như tăng sĩ để đi truyền giảng pháp trong và ngoài nước. Chính đích thân ông cũng đi tuần du khắp nước, tiến hành thuyết pháp và tham bái các Phật tích. Tương truyền rằng ông đã cho xây dựng đầu tiên là A Dục Vương Viên Tự (阿育王園寺) tại thủ đô và kiến lập 84.000 ngôi tháp xá lợi khắp trong nước. Bên cạnh đó, ông còn chuyên tâm làm Phật sự, cho nên Phật Giáo đã nhất thời đi đến hưng thịnh tột đỉnh của nó. Chính nhờ vị vua này mà Phật Giáo cũng đã được lan truyền sang các quốc gia lân cận tại Ấn Độ. Phía Tây Bắc từ địa phương Gandhāra đến Girisha, rồi thông qua vùng trung ương Châu Á và đến tận Trung Quốc. Về phương Nam, Phật Giáo cũng được truyền sang Tích Lan (Sri Lanka), và nơi đây đã trở thành nguyên lưu của Phật Giáo Pāli (Nam Truyền Phật Giáo) của các nước phương Nam. Nhờ có A Dục Vương, Phật Giáo Ấn Độ đã phát triển rất mạnh với tư cách là Phật Giáo quốc tế, cho nên trong lịch sử Phật Giáo ông đã trở thành người có công lao cống hiến và ủng hộ đắc lực nhất. Với tư cách là trưởng lão của Phật Giáo, trong các truyện bằng tiếng Pāli, có nêu lên nhân vật Mục Kiền Liên Tử Đế Tu (p: Moggaliputta-tissa, 目犍連子帝須), còn Phật Giáo Bắc Truyền có nhân vật Ưu Ba Cúc Đa (s, p: Upagupta, 優波毱多), cũng chính là vị vua này.
(安世高, Anseikō, khoảng giữa thế kỷ thứ 2): vị tăng dịch kinh thuộc thời kỳ đầu của Phật Giáo Trung Quốc, người nước An Tức (安息), tên Thanh (清), tự Thế Cao (世高), con của vị quốc vương trong vùng. Họ An của ông vốn xuất phát từ nơi ông sinh ra (nước An Tức). Lúc còn nhỏ ông rất nổi tiếng có hiếu với song thân, tánh chất thương người, học rộng hiểu sâu. Sau khi phụ thân qua đời, ông xả bỏ ngôi vị quốc vương, quy y cửa Phật, thâm hiểu kinh tạng và tinh thông A Tỳ Đàm cũng như Thiền. Vào năm thứ 2 (148) niên hiệu Kiến Hòa (建和) đời vua Hoàn Đế (桓帝) nhà Đông Hán, ông đi qua các nước Tây Vức, rồi đến Lạc Dương (洛陽), chuyên tâm vào việc phiên dịch kinh điển cho đến năm thứ 3 (170) niên hiệu Kiến Ninh (建寧) đời vua Linh Đế (靈帝), tổng cọng hơn 20 năm. Trong khoảng thời gian này, ông đã dịch được tất cả khoảng 34 bộ, 40 quyển (có thuyết cho là 35 bộ, 41 quyển) như An Ban Thủ Ý Kinh (安般守意經), Ấm Trì Nhập Kinh (陰持入經), A Tỳ Đàm Ngũ Pháp Tứ Đế (阿毘曇五法四諦), Thập Nhị Nhân Duyên (十二因緣), Chuyển Pháp Luân (轉法輪), Bát Chánh Đạo (八正道), Thiền Hành Pháp Tưởng (禪行法想), Tu Hành Đạo Địa Kinh (修行道地經), v.v. Kinh điển ông dịch có nghĩa lý rõ ràng, chữ nghĩa súc tích, chủ yếu truyền bá học thuyết A Tỳ Đàm (阿毘曇) của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ thuộc Phật Giáo Tiểu Thừa và lý luận Thiền định. Chính ông đã hình thành nên cơ sở cho việc lưu truyền Phật học vào thời kỳ đầu của Trung Quốc và là người đầu tiên đem Thiền quán vào nước này.
(s: āryāṣṭāṇga-mārga, āryāṣṭāṇa-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga,八正道 hay 八聖道): là 8 con đường chân chánh, đúng đắn để cầu về cõi Niết Bàn (s: nirvāṇa, p: nibbāna, 涅槃), còn gọi là Bát Thánh Đạo (八聖道), Bát Chi Chánh Đạo (八支正道), Bát Thánh Đạo Phần (八正道分), Bát Đạo Hạnh (八道行), Bát Trực Hạnh (八直行), Bát Chánh (八正), Bát Đạo (八道), Bát Chi (八支), Bát Pháp (八法), Bát Lộ (八路). Đây là pháp môn thật tiễn, tiêu biểu nhất của Phật Giáo, là phương pháp hay con đường tắt chính xác để hướng đến giải thoát, Niết Bàn. Khi đức Phật tuyên thuyết bài pháp đầu tiên, ngài đã dạy nên xa lìa hai thái cực thọ hưởng dục lạc và tu khổ hạnh, nên hướng về con đường Trung Đạo, tức ám chỉ pháp môn Bát Chánh Đạo này, gồm:
(1) Chánh Kiến (s: samyag-dṛṣṭi, p: sammā-diṭṭhi, 正見): hay còn gọi là Đế Kiến (諦見), tức thấy khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo (Tứ Đế), có nghiệp thiện ác thì có quả báo của nghiệp thiện ác ấy, có đời này đời kia, có cha mẹ, trên đời có bậc chân nhân đến chỗ an lành, bỏ điều thiện cũng như hướng đến điều thiện, nơi đời này và đời kia tự giác ngộ và tự chứng thành tựu.
(2) Chánh Tư Duy (s: samyak-saṃkalpa, p: sammā-saṅkappa, 正思惟): hay còn gọi là Chánh Chí (正志) Chánh Phân Biệt (正分別), Chánh Giác (正覺), nghĩa là suy nghĩ đúng đắn, chân chánh. Khi đã thấy được lý của Tứ Đế, hành giả tư duy để làm cho tăng trưởng trí tuệ chân thật. Nó lấy tâm vô lậu làm thể.
(3) Chánh Ngữ (s: samyag-vāc, p: sammā-vācā, 正語): còn gọi là Chánh Ngôn (正言), Đế Ngôn (諦言), tức xa lìa nói dối, nói lời hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời thêu dệt, dùng trí tuệ để sửa đổi khẩu nghiệp, không nói những lời phi lý. Nó lấy giới vô lậu làm thể.
(4) Chánh Nghiệp (s: samyakkarmanta, p: sammā-kammanta, 正業): còn gọi là Chánh Hạnh (正行), Đế Hạnh (諦行), tức xa lìa sát sanh, trộm cắp, tà dâm, v.v., dùng trí tuệ đúng đắn để trừ tất cả những việc làm không đúng của thân và sống với thân trong sạch. Nó lấy giới vô lậu làm thể.
(5) Chánh Mạng (s: samyag-ājīva, p: sammā-ājīva, 正命): còn gọi là Đế Thọ (諦 受), tức xả bỏ cuộc sống không đúng như dùng chú thuật, v.v., và mong cầu đúng pháp những vật dụng trong sinh hoạt hằng ngày như áo quần, thức ăn uống, giường ghế, thuốc men, v.v. Nó lấy giới vô lậu làm thể.
(6) Chánh Tinh Tấn (s: samyag-vyāyāma, p: sammā-vāyāma, 正精進): còn gọi là Chánh Phương Tiện (正方便), Chánh Trị (正治), Đế Pháp (諦法), Đế Trị (諦法), tức phát nguyện đoạn trừ các điều ác mình đã tạo, làm cho không sinh khởi những điều ác mà mình chưa làm, làm cho sinh khởi những điều thiện mà mình chưa làm, và làm cho tăng trưởng những điều thiện mà mình đã từng làm. Nó lấy sự siêng năng vô lậu làm thể.
(7) Chánh Niệm (s: samyak-smṛti, p: sammā-sati, 正念): còn gọi là Đế Ý (諦意), tức quán 4 đối tượng thân, thọ, tâm và pháp, lấy trí tuệ chân chánh nghĩ nhớ đến chánh đạo để dẹp trừ các suy nghĩ không đúng. Nó lấy niệm vô lậu làm thể.
(8) Chánh Định (s: samyak-samādhi, p: sammā-samādhi, 正定): còn gọi là Đế Định (諦定), dùng trí tuệ chân chánh để nhập vào Thiền định thanh tịnh vô lậu, xa lìa các pháp bất thiện, thành tựu từ Sơ Thiền cho đến Tứ Thiền.
Bát Chánh đạo này có công lực làm cho chúng sanh từ bờ bên này của cõi mê sang qua được bờ bên kia của giác ngộ. Cho nên nó lấy thuyền, bè làm lời thệ nguyện. Ngược lại, Tà Kiến (邪見, thấy không đúng), Tà Tư (邪思, suy nghĩ không đúng), Tà Ngữ (邪語, nói lời không đúng), Tà Nghiệp (邪業, làm việc không đúng), Tà Mạng (邪命, sống không đúng), Tà Tinh Tấn (邪精進, tinh tấn không đúng), Tà Niệm (邪念, nghĩ nhớ không đúng), Tà Định (邪定, định không đúng) được gọi là Bát Tà (八邪, tám pháp không đúng).
(s: prajñā, p: paññā, 般若): âm dịch là Ba Nhã (波若), Bát Nhã (鉢若), Bát La Nhã (般羅若); ý dịch là tuệ, trí tuệ. Với tác dụng của tâm, đây là trí tuệ lấy sự liễu đạt làm tánh, biết cảnh của Tứ Đế và đoạn trừ hết thảy phiền não sanh tử. Nó còn là trí tuệ đoạn trừ phiền não chướng, sở tri chướng và biết tất cả các pháp hữu vi cũng như vô vi. Là một trong Sáu Ba La Mật, Bát Nhã được tán thán như là mẹ của chư Phật, là yếu tố quan trọng nhất để đạt được quả vị Phật. Nó còn là một trong những hạnh của vị Bồ Tát, là trí tuệ để tạo nhân thành Phật. Từ thời Huệ Năng (慧能hay惠能, Enō, 638-713) trở đi, nó được xem đồng nghĩa với Thiền định.
(琴瑟): tên hai loại nhạc khí là cây đàn cầm, đàn dài 3 thước, 6 tấc, căng 7 dây; và cây đàn sắt, loại đàn có 25 dây. Khi hai loại này cùng đàn tấu lên, âm sắc của chúng mười phần hòa điệu với nhau. Như trong Thượng Thư (尚書), phần Ích Tắc (益稷) có câu: “Ca kích minh cầu, bác phụ cầm sắt chi vịnh, tổ khảo lai cách (嘎擊鳴球、搏拊琴瑟以詠、祖考來格, đánh cầu kêu lắc cắc, gãy đàn cầm sắt vịnh theo, ông nội đến thán phục).” Từ đó, cầm sắt được dùng để tỷ dụ cho sự hòa hợp tốt đẹp của vợ chồng với nhau, hay tình cảm dung hòa giữa bằng hữu, anh em; như trong Thi Kinh (詩經), phần Quan Thư (關雎) có câu: “Yểu điệu thục nữ, cầm sắt hữu chi (窈窕淑女,琴瑟友之, yểu điệu thục nữ, cầm sắt bạn đôi).” Hay như trong Nghĩ Liên Châu (擬連珠) của Dữu Tín (庾信, 513-581) thời Bắc Chu lại có câu: “Trung tín vi cầm sắt, nhân nghĩa vi bào trù (忠信為琴瑟,仁義為庖廚, trung tín là cầm sắt, nhân nghĩa là bồi bếp).” Trong dân gian vẫn thường dùng một số câu đối từ để chúc mừng tân hôn, vợ chồng song toàn, v.v., như “cầm sắt hữu chi (琴瑟友之, cầm sắt bạn đôi)”, “cầm sắt canh hòa (琴瑟賡和, cầm sắt hòa theo)”, “bách niên cầm sắt (百年琴瑟, trăm năm cầm sắt)”, “như cổ cầm sắt (如鼓琴瑟, như trống hòa âm)”, “cầm sắt hòa minh (琴瑟和鳴, cầm sắt hòa vang)”, “cầm sắt trùng điệu (琴瑟重調, cầm sắt trùng điệu)”, “cầm sắt bách niên (琴瑟百年, cầm sắt trăm năm)”, v.v.
(鼓盆): đánh vào cái bồn rửa mặt, tỷ dụ niềm đau mất vợ. Từ này phát xuất từ trong Trang Tử (莊子), phần Chí Lạc (至樂): “Trang Tử thê tử, Huệ Tử điếu chi; Trang Tử tắc phương ky cứ cổ bồn nhi ca; Huệ Tử viết: 'Dữ nhân cư, trưởng tử, lão, thân tử, bất khốc diệc túc hỉ, hựu cổ bồn nhi ca, bất diệc thậm hồ ?' (莊子妻死、惠子吊之、莊子則方箕踞鼓盆而歌、惠子曰:與人居、長子、老、身死、不哭亦足矣、又鼓盆而歌、不亦甚乎, vợ của Trang Tử mất, Huệ tử đến đi điếu; Trang Tử bèn ngồi xoạc chân ra đánh vào chậu mà hát; Huệ Tử nói: 'Ông cùng bà chung sống, nuôi con khôn lớn, rồi già và chết đi, không khóc là đủ rồi; nhưng lại đánh vào chậu mà hát, không quá đáng lắm sao ?').” Do đó, từ “cổ bồn”, “cổ bồn nhi ca (鼓盆而歌)”, “cổ bồn ca (鼓盆歌)”, “cổ bồn chi thích (鼓盆之戚)”, “cổ bồn chi thán (鼓盆之嘆)”, v.v., đều được dùng để ví cho người vợ qua đời, để tang vợ cũng như nỗi đau mất vợ.
(s, p: Mahāyāna, j: Daijō, 大乘): âm dịch là Ma Ha Diễn (摩訶衍), Ma Ha Diễn Na (摩訶衍那), nghĩa là cỗ xe lớn, thường chỉ cho Bồ Tát Thừa (菩薩乘) và Phật Thừa (佛乘), đối với Tiểu Thừa (小乘) là Thanh Văn Thừa (聲聞乘). Đối với Tiểu Thừa thì tu Bát Chánh Đạo (s: āryāṣṭāṇga-mārga, āryāṣṭāṇgika-mārga, p: ariyāṭṭhaṅgika-magga, 八正道) và Tứ Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦), trở thành A La Hán (s: arhant, p: arahant, 阿羅漢); còn Bồ Tát Thừa của Đại Thừa thì tu Lục Ba La Mật (六波羅蜜) và nhắm mục đích thành Phật. Hơn nữa, ngay từ ban đầu Bồ Tát Thừa của Đại Thừa đã phát thệ nguyện lợi tha, tự mình khởi tâm tự mình chưa độ mà trước hết vào trong các đường ác để độ người khác.
(妙覺): tự giác ngộ chính mình, làm cho người khác giác ngộ, sự giác ngộ và hạnh nguyện tròn đầy, không thể nghĩ bàn, đó gọi là Diệu Giác; tức là quả vị Phật vô thượng chánh giác; là một trong 52 hay 42 giai vị tu hành của Bồ Tát Đại Thừa; còn gọi là Diệu Giác Địa (妙覺地). Hàng Nhị Thừa (Thanh Văn [s: śrāvaka, 聲聞] và Duyên Giác [s: pratyeka-buddha, p: pacceka-buddha, 緣覺]) thì dừng lại ở cấp độ tự giác, không có công năng giác tha. Còn Bồ Tát tuy cùng song hành cả tự giác lẫn giác tha, nhưng chưa viên mãn; chỉ có Phật mới viên mãn cả hai, thể giác ngộ không thể nghĩ bàn. Tam Tạng Pháp Số (三藏法數) quyển 26 định nghĩa rằng: “Tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn, bất khả tư nghì, cố danh Diệu Giác Tánh (自覺覺他、覺行圓滿、不可思議、故名妙覺性, tự mình giác ngộ, làm cho người khác giác ngộ, giác ngộ và hạnh nguyện tròn đầy, không thể nghĩ bàn, nên gọi là Tánh Diệu Giác).” Thiên Thai Tứ Giáo Nghi (天台四敎儀, Taishō Vol. 46, No. 1931) do Sa Môn Đế Quán (諦觀) người Cao Lệ thâu lục, giải thích rõ sự sai khác giữa Diệu Giác của Biệt Giáo và Viên Giáo thế nào. Quả vị Diệu Giác của Biệt Giáo ngồi trên tòa Đại Bảo Hoa Vương (大寶華王), dưới cây bồ đề có bảy báu thuộc thế giới Liên Hoa Tạng (蓮華藏), hiện Viên Mãn Báo Thân (圓滿報身), vì các Bồ Tát độn căn mà chuyển vô lương bánh xe pháp Tứ Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦). Trong khi đó, quả vị Diệu Giác của Viên Giáo thì lấy hư không làm tòa ngồi, thành tựu Thanh Tịnh Pháp Thân (清淨法身), trú tại Thường Tịch Quang Độ (常寂光土). Như trong Ngột Am Phổ Ninh Thiền Sư Ngữ Lục (兀菴普寧禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 71, No. 1404) có giải thích rằng: “Chí thử Diệu Giác vị, vị chi Như Lai địa, thuyết pháp như vân, lợi sanh như vũ, tự lợi lợi tha, độ vị độ dã (至此妙覺位、謂之如來地、說法如雲、利生如雨、自利利他、度未度也, đạt đến quả vị Diệu Giác này, gọi đó là cảnh địa của Như Lai, thuyết pháp như mây, làm lợi ích quần sanh như mưa, tự lợi và lợi tha, độ cho những người chưa được độ).” Hay trong Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy (敕修百丈清規, Taishō Vol. 48, No. 2025) quyển 8, Chương Pháp Khí (法器章) thứ 9, lại có câu: “Vị nhân nhân diệu giác bổn vô phàm thánh, vật vật toàn chân ninh hữu tịnh uế (謂人人妙覺本無凡聖、物物全眞寧有淨穢, bảo rằng người người diệu giác vốn không phàm thánh, vật vật toàn chân sao có sạch nhớp).”
(s: pratyeka-buddha, p: pacceka-buddha, 緣覺): âm dịch là Bích Chi Phật (辟支佛), Bích Chi Ca Phật (辟支迦佛); ý dịch ngày xưa là Duyên Nhất Giác (緣一覺), ý dịch ngày nay là Độc Giác (獨覺). Duyên Giác cùng với Thanh Văn (s: śrāvaka, 聲聞) hình thành Nhị Thừa, và thêm quả vị Phật vào là Tam Thừa. Nhị Thừa được xem là Tiểu Thừa, còn Phật Thừa là Đại Thừa. Duyên Giác là người không ý cứ vào lời dạy của người khác, tự mình quán pháp Duyên Khởi (s: pratītya-samutpāda, p: paticca-samppāda, 緣起) mà khai ngộ. Đối xứng với hàng Thanh Văn thì nghe pháp Tứ Đế (s: catur-ārya-satya, p: catu-ariya-sacca, 四諦) mà khai ngộ; trong khi đó, hàng Duyên Giác lại quán Thập Nhị Nhân Duyên (s: dvādaśāṅga-pratītya-samutpāda, p: dvādasaṅga-paṭicca-samuppāda, 十二因緣) mà chứng ngộ. Duyên Giác có hai loại: loại độc hành như con Tê Giác, và loại tập trung thành nhóm tu tập.
(護法): bảo hộ, hộ trì chánh pháp. Tương truyền đức Phật từng phái 4 vị Đại Thanh Văn, 16 vị A La Hán (阿羅漢) đến để hộ trì Phật pháp. Bên cạnh đó, lại có Phạm Thiên (梵天), Đế Thích Thiên (帝釋天), Tứ Thiên Vương (四天王, 4 Thiên Vương), Thập Nhị Thần Tướng (十二神將, 12 Thần Tướng), 28 bộ chúng, 13 phiên thần, 36 thần vương, 18 thiện thần chốn Già Lam, Long Vương, quỷ thần, v.v., nhân nghe đức Phật thuyết pháp mà thệ nguyện hộ trì Phật pháp. Những vị này được gọi là Thần Hộ Pháp, hay Hộ Pháp Thiện Thần (護法善神). Ngoài ra, các bậc đế vương, đàn việt, Phật tử đều là những người hộ pháp đắc lực. Trong số các Thần Hộ Pháp, có vị là thiện thần, nhưng cũng có vị là hung thần, ác thần. Họ có trách nhiệm bảo hộ chúng sanh, đầy đủ 4 công đức độ đời là làm cho tiêu trừ mọi tai họa, làm tăng trưởng ích lợi, tạo sự kính mến thương yêu, và hàng phục. Đặc biệt, Quan Vũ (關羽, tức Quan Thánh Đế Quân [關聖帝君]) cũng trở thành Thần Hộ Pháp, sau khi được Trí Khải Đại Sư (智顗大師, 538-397) dùng pháp Phật làm cho siêu độ và thoát khỏi thân quỷ.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.66 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập