Người ta thuận theo sự mong ước tầm thường, cầu lấy danh tiếng. Khi được danh tiếng thì thân không còn nữa.Kinh Bốn mươi hai chương
Kẻ thất bại chỉ sống trong quá khứ. Người chiến thắng là người học hỏi được từ quá khứ, vui thích với công việc trong hiện tại hướng đến tương lai. (Losers live in the past. Winners learn from the past and enjoy working in the present toward the future. )Denis Waitley
Đừng chọn sống an nhàn khi bạn vẫn còn đủ sức vượt qua khó nhọc.Sưu tầm
Nỗ lực mang đến hạnh phúc cho người khác sẽ nâng cao chính bản thân ta. (An effort made for the happiness of others lifts above ourselves.)Lydia M. Child
Như ngôi nhà khéo lợp, mưa không xâm nhập vào. Cũng vậy tâm khéo tu, tham dục không xâm nhập.Kinh Pháp cú (Kệ số 14)
Khó thay được làm người, khó thay được sống còn. Khó thay nghe diệu pháp, khó thay Phật ra đời!Kinh Pháp Cú (Kệ số 182)
Người có trí luôn thận trọng trong cả ý nghĩ, lời nói cũng như việc làm. Kinh Pháp cú
Hãy nhớ rằng, có đôi khi im lặng là câu trả lời tốt nhất.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Mất lòng trước, được lòng sau. (Better the first quarrel than the last.)Tục ngữ
Sự kiên trì là bí quyết của mọi chiến thắng. (Perseverance, secret of all triumphs.)Victor Hugo
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Vạn Thiện Đồng Quy Tập »»
(s: pañca cakṣūṃṣi, p: pañca cakkhūni, 五眼): chỉ cho 5 loại nhãn lực.
(1) Nhục Nhãn (s: māṃsa-cakṣus, 肉眼), là con mắt vốn có đầy đủ nơi nhục nhân này.
(2) Thiên Nhãn (s: divya-cakṣus, 天眼), là con mắt của người trên cõi Trời Sắc Giới (s: rūpa-dhātu, 色界), chứng đắc được nhờ có tu Thiền Định. Mắt này xa gần trước sau, trong ngoài, ban ngày hay ban đêm, trên hay dưới đều có thể thấy được.
(3) Tuệ Nhãn (s: prajñā-cakṣus, 慧眼), là con mắt của hàng Nhị Thừa, có thể biết rõ chân không vô tướng, cũng có thể quán sát các hiện tượng đều là không tướng, định tướng.
(4) Pháp Nhãn (s: dharma-cakṣus, 法眼), là con mắt của chư vị bồ tát có thể quán chiếu thấy tất cả các pháp môn để cứu độ hết thảy chúng sanh.
(5) Phật Nhãn (s: buddha-cakṣus, 佛眼), là con mắt của Phật, có đầy đủ tác dụng của 4 loại nhãn lực vừa nêu trên. Mắt này không có gì không thấy biết, cho đến không việc gì không biết, không nghe; cả nghe và thấy đều dùng hỗ tương lẫn nhau, không có tư duy nào mà không thấy được.
Các nhà Thiên Thai Tông thuyết rằng nhân vị có Nhục Nhãn, Thiên Nhãn, Tuệ Nhãn, Pháp Nhãn; và quả vị có Phật Nhãn. Trong Đại Huệ Độ Kinh Tông Yếu (大慧度經宗要, Taishō Vol. 33, No. 1697) có câu: “Lục Độ vạn hạnh ư chi viên mãn, Ngũ Nhãn vạn đức tùng thị sanh thành, Bồ Tát chi yếu tạng dã, chư Phật chi chơn mẫu dã (六度萬行於之圓滿、五眼萬德從是生成、菩薩之要藏也、諸佛之眞母也, Sáu Độ muôn hạnh nơi đây tròn đầy, Năm Nhãn muôn đức từ đây sanh thành; là kho báu của Bồ Tát, là đức mẹ của chư Phật).” Hay trong Vạn Thiện Đồng Quy Tập (萬善同歸集, Taishō Vol. 48, No. 2017) quyển Trung có đoạn: “Lịch Ngũ Vị Bồ Tát chi đạo, nhập Tam Đức Niết Bàn chi thành, luyện Tam Nghiệp nhi thành Tam Luân, ly Tam Thọ nhi viên Tam Niệm; nhân tùng Tam Quán huân phát, quả cụ Ngũ Nhãn viên minh, phương năng du hí thần thông, xuất nhập bách thiên Tam Muội (歷五位菩提之道、入三德涅槃之城、練三業而成三輪、離三受而圓三念、因從三觀薰發、果具五眼圓明、方能遊戲神通、出入百千三昧, trãi qua con đường Bồ Tát Năm Vị, bước vào thành trì Niết Bàn Ba Đức, luyện Ba Nghiệp trở thành Ba Luân, lìa Ba Thọ tròn đầy Ba Niệm, nhân từ Ba Quán phát khởi, quả đủ Năm Nhãn sáng soi; mới nên dong ruỗi thần thông, ra vào trăm ngàn Tam Muội).” Trong phần Phổ Biến Văn (普變文) của Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Xuzangjing Vol. 65, No. 1277) quyển 2 cũng có câu: “Nghênh thỉnh thiên hiền vạn thánh, quy y Ngũ Nhãn Lục Thông, vọng pháp giá dĩ quang lâm, nhạ hương xa nhi hạ giáng (迎請千賢萬聖、歸依五眼六通、望法駕以光臨、迓香車而下降, nghinh thỉnh ngàn hiền vạn thánh, quy y Năm Nhãn Sáu Thần Thông, mong ngự giá pháp quang lâm, cỡi xe hương mà giáng xuống).”
(s: pañca cakṣūṃṣi, p: pañca cakkhūni, 五眼): chỉ cho 5 loại nhãn lực. (1) Nhục Nhãn (s: māṃsa-cakṣus, 肉眼), là con mắt vốn có đầy đủ nơi nhục nhân này. (2) Thiên Nhãn (s: divya-cakṣus, 天眼), là con mắt của người trên cõi Trời Sắc Giới (s: rūpa-dhātu, 色界), chứng đắc được nhờ có tu Thiền Định. Mắt này xa gần trước sau, trong ngoài, ban ngày hay ban đêm, trên hay dưới đều có thể thấy được. (3) Tuệ Nhãn (s: prajñā-cakṣus, 慧眼), là con mắt của hàng Nhị Thừa, có thể biết rõ chân không vô tướng, cũng có thể quán sát các hiện tượng đều là không tướng, định tướng. (4) Pháp Nhãn (s: dharma-cakṣus, 法眼), là con mắt của chư vị bồ tát có thể quán chiếu thấy tất cả các pháp môn để cứu độ hết thảy chúng sanh. (5) Phật Nhãn (s: buddha-cakṣus, 佛眼), là con mắt của Phật, có đầy đủ tác dụng của 4 loại nhãn lực vừa nêu trên. Mắt này không có gì không thấy biết, cho đến không việc gì không biết, không nghe; cả nghe và thấy đều dùng hỗ tương lẫn nhau, không có tư duy nào mà không thấy được. Các nhà Thiên Thai Tông thuyết rằng nhân vị có Nhục Nhãn, Thiên Nhãn, Tuệ Nhãn, Pháp Nhãn; và quả vị có Phật Nhãn. Trong Đại Huệ Độ Kinh Tông Yếu (大慧度經宗要, Taishō Vol. 33, No. 1697) có câu: “Lục Độ vạn hạnh ư chi viên mãn, Ngũ Nhãn vạn đức tùng thị sanh thành, Bồ Tát chi yếu tạng dã, chư Phật chi chơn mẫu dã (六度萬行於之圓滿、五眼萬德從是生成、菩薩之要藏也、諸佛之眞母也, sáu độ muôn hạnh nơi đây tròn đầy, năm nhãn muôn đức từ đây sanh thành; là kho báu của Bồ Tát, là đức mẹ của chư Phật).” Hay trong Vạn Thiện Đồng Quy Tập (萬善同歸集, Taishō Vol. 48, No. 2017) quyển Trung có đoạn: “Lịch Ngũ Vị Bồ Tát chi đạo, nhập Tam Đức Niết Bàn chi thành, luyện Tam Nghiệp nhi thành Tam Luân, ly Tam Thọ nhi viên Tam Niệm; nhân tùng Tam Quán huân phát, quả cụ Ngũ Nhãn viên minh, phương năng du hí thần thông, xuất nhập bách thiên Tam Muội (歷五位菩提之道、入三德涅槃之城、練三業而成三輪、離三受而圓三念、因從三觀薰發、果具五眼圓明、方能遊戲神通、出入百千三昧, trãi qua con đường Bồ Tát Năm Vị, bước vào thành trì Niết Bàn Ba Đức, luyện Ba Nghiệp trở thành Ba Luân, lìa Ba Thọ tròn đầy Ba Niệm, nhân từ Ba Quán phát khởi, quả đủ Năm Nhãn sáng soi; mới nên dong ruỗi thần thông, ra vào trăm ngàn Tam Muội).” Trong phần Phổ Biến Văn (普變文) của Cao Phong Long Tuyền Viện Nhân Sư Tập Hiền Ngữ Lục (高峰龍泉院因師集賢語錄, 卍 Xuzangjing Vol. 65, No. 1277) quyển 2 cũng có câu: “Nghênh thỉnh thiên hiền vạn thánh, quy y Ngũ Nhãn Lục Thông, vọng pháp giá dĩ quang lâm, nhạ hương xa nhi hạ giáng (迎請千賢萬聖、歸依五眼六通、望法駕以光臨、迓香車而下降, nghinh thỉnh ngàn hiền vạn thánh, quy y năm nhãn sáu thần thông, mong ngự giá pháp quang lâm, cỡi xe hương mà giáng xuống).”
(三德): tức là Pháp Thân Đức (法身德), Bát Nhã Đức (般若德) và Giải Thoát Đức (解脫德). Căn cứ vào Phẩm Tựa của Kinh Đại Bát Niết Bàn, khi Phật sắp nhập diệt, các Phật tử đã chuẩn bị rất nhiều phẩm vật để dâng lên cúng dường đức Phật và chư Tăng một lần sau cuối. Những thực phẩm rất phong phú, đặc biệt có đầy đủ ba đức tính và sáu hương vị. Nghĩa là những thức ăn dâng cúng cho Phật và tăng thì phải đầy đủ 3 đức tính (yếu tố), gồm:
(1) Trong sạch, không nhơ nhớp;
(2) Mềm mại, ngon ngọt;
(3) Như pháp, tùy thời mà chế biến, làm ra đúng pháp.
Tam Đức này tượng trưng cho Ba Thân (Pháp Thân, Báo Thân, Ứng Hóa Thân) của Phật hoặc ba đức tướng (Trí Đức, Đoạn Đức, Ân Đức) của quả vị Phật. Từ sự kiện lịch sử này, đời sau, các chùa thường thiết lễ Cúng Ngọ và đọc câu “Tam Đức, Lục Vị, cúng Phật cập tăng, pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường (三德六味、供佛及僧、法界有情、普同供養, ba đức, sáu vị, cúng Phật cùng tăng, cùng khắp cúng dường).” Trong Tông Kính Lục (宗鏡錄, Taishō Vol. 48, No. 2016) quyển 90 có đoạn rằng: “Tại kính tắc Tam Đế viên dung, tại tâm tắc Tam Quán câu vận, tại nhân tắc Tam Đạo tương tục, tại quả tắc Tam Đức châu viên, như thị bản mạt tương thâu, phương nhập Đại Niết Bàn bí mật chi tạng (在境則三諦圓融、在心則三觀俱運、在因則三道相續、在果則三德周圓、如是本末相收、方入大涅槃祕密之藏, nơi kính thì Ba Đế viên dung, nơi tâm thì Ba Quán vận hành, nơi nhân thì Ba Đường liên tục, nơi quả thì Ba Đức tròn khắp, như vậy gốc ngọn cùng thâu, rồi nhập vào kho tàng bí mật của Đại Niết Bàn).” Hay như trong Thiền Môn Yếu Lược (禪門要略, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 55, No. 908) cũng có câu: “Hựu Tam Quán thành cố tức Tam Đức mãn, Trung Quán thành tức Pháp Thân mãn, Giả Quán thành tức Bát Nhã mãn, Không Quán thành tức giải thoát mãn, Tam Đức mãn cố danh Bí Mật Tạng (又三觀成故卽三德滿、中觀成卽法身滿、假觀成卽般若滿、空觀成卽解脫滿、三德滿故名秘密藏, lại Ba Quán thành nên Ba Đức tròn, Trung Quán thành tức Pháp Thân tròn, Giả Quán thành tức Bát Nhã tròn, Không Quán thành tức giải thoát tròn, vì Ba Đức tròn nên gọi là Kho Tàng Bí Mật).” Hoặc như trong Vạn Thiện Đồng Quy Tập (萬善同歸集, Taishō Vol. 48, No. 2017) quyển Trung lại có câu: “Lịch Ngũ Vị Bồ Đề chi đạo, nhập Tam Đức Niết Bàn chi thành, luyện Tam Nghiệp nhi thành Tam Luân, ly Tam Thọ nhi viên Tam Niệm (歷五位菩提之道、入三德涅槃之城、練三業而成三輪、離三受而圓三念, trãi qua con đường Bồ Đề Năm Vị, vào thành trì Niết Bàn Ba Đức, luyện Ba Nghiệp trở thành Ba Luân, lìa Ba Thọ tròn thành Ba Niệm).”
(s: śrāvaka, p: sāvaka, 聲聞): âm dịch là Xá La Bà Ca (舍羅婆迦), ý dịch là Tác Đệ Tử (作弟子); là một trong Nhị Thừa, Tam Thừa; chỉ cho hàng đệ tử xuất gia lắng nghe giáo pháp của đức Phật mà chứng ngộ. Đại Thừa Nghĩa Chương (大乘義章, Taishō Vol. 44, No. 1851) quyển 17, giải thích danh nghĩa Thanh Văn có 3: (1) Theo nhân duyên đắc đạo mà giải thích, nghĩa là nghe lời dạy của đức Phật mà giải ngộ đắc đạo, nên được gọi là Thanh Văn; (2) Theo pháp môn quán sát mà giải thích, như Thập Địa Kinh Luận (十地經論, Taishō Vol. 26, No. 1522) quyển 4 dạy rằng ngã, chúng sanh, v.v., đều có tên, nên được gọi là thanh (âm thanh, tiếng); nhờ âm thanh mà giải ngộ, nên gọi là Thanh Văn; (3) Nhân sự lợi lạc hóa độ tha nhân mà giải thích, như trong Phẩm Tín Giải của Kinh Pháp Hoa dạy rằng nhờ Phật đạo nghe mà khiến cho tất cả được nghe, nên gọi là Thanh Văn. Trong 3 giải thích trên, hai giải thích đầu là thanh văn của Phật Giáo Nguyên Thủy; loại thứ ba là Bồ Tát, tùy nghi mà gọi là Thanh Văn. Nguyên lai, Thanh Văn chỉ cho các đệ tử của đức Phật khi còn tại thế, về sau đối với Duyên Giác, Bồ Tát mà thành ra Nhị Thừa, Tam Thừa. Thanh Văn là vị quán lý Tứ Đế, tu 37 phẩm trợ đạo, đoạn hai hoặc kiến và tu, rồi dần dần chứng được 4 quả Sa Môn, và nhập vào Vô Dư Niết Bàn (無餘涅槃). Thanh Văn Thừa (聲聞乘) là giáo pháp chuyên thuyết về Thanh Văn. Thanh Văn Tạng (聲聞藏) là kinh điển xiển dương giáo thuyết của Thanh Văn. Trong các kinh luận, Thanh Văn có hai loại, 3 loại, 4 loại, 5 loại. Theo Phẩm Vô Tự Tánh Tướng (無自性相品) của Giải Thâm Mật Kinh (解深密經, Taishō Vol. 16, No. 676) quyển 2, có 2 loại Thanh Văn là Nhất Hướng Thú Tịch Thanh Văn (一向趣寂聲聞) và Hồi Hướng Bồ Đề Thanh Văn (迴向菩提聲聞). Nhập Lăng Già Kinh (入楞伽經, Taishō Vol. 16, No. 671) quyển 4 lại nêu ra 3 loại Thanh Văn khác là Quyết Định Tịch Diệt Thanh Văn (決定寂滅聲聞), Phát Bồ Đề Nguyện Thiện Căn Danh Thiện Căn Thanh Văn (發菩提願善根名善根聲聞), Hóa Ứng Hóa Thanh Văn (化應化聲聞). Du Già Sư Địa Luận (Taishō Vol. 30, No. 1579 瑜伽師地論) quyển 73 lại nêu ra 3 loại khác: Biến Hóa Thanh Văn (變化聲聞), Thệ Nguyện Thanh Văn (誓願聲聞), Pháp Tánh Thanh Văn (法性聲聞). Trong Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Ưu Ba Đề Xá (妙法蓮華經憂波提舍, Taishō Vol. 26, No. 1519) quyển Hạ, Thế Thân (s: Vasubandhu, 世親) chia Thanh Văn làm 4 loại là Quyết Định Thanh Văn (決定聲聞), Tăng Thượng Mạn Thanh Văn (增上慢聲聞), Thối Bồ Đề Tâm Thanh Văn (退菩提心聲聞), Ứng Hóa Thanh Văn (應化聲聞). Bên cạnh đó, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Văn Cú (妙法蓮華經文句, Taishō Vol. 34, No. 1718) quyển 4 chia Thanh Văn thành 5 loại, gồm: (1) Quyết Định Thanh Văn (決定聲聞), nghĩa là tu tập tiểu thừa đã lâu, muôn kiếp đạo chín muồi mà chứng đắc quả nhỏ; (2) Thối Bồ Đề Tâm Thanh Văn (退菩提心聲聞), vị này vốn tu tập Đại Thừa, muôn kiếp tu đạo, tuy nhiên giữa chừng vì chán ghét sanh tử mà thối đạo tâm lớn, chỉ chứng quả nhỏ thôi; (3) Ứng Hóa Thanh Văn (應化聲聞), nghĩa là các Bồ Tát vì hóa độ hai loại Thanh Văn vừa nêu, nên bên trong thì có đủ hạnh của chư Phật Bồ Tát, ngoại hình thì hiện thân Thanh Văn, để khuyến dụ hàng Tiểu Thừa, khiến cho nhập vào Đại Thừa; (4) Tăng Thượng Mạn Thanh Văn (增上慢聲聞), nghĩa là vì chán ghét sanh tử, vui mừng Niết Bàn, tu tập pháp Tiểu Thừa, chứng đắc pháp nhỏ mà đã thấy đầy đủ, chưa đạt mà cho đã đạt, chưa chứng mà bảo đã chứng; (5) Đại Thừa Thanh Văn (大乘聲聞), vị này lấy âm thanh của Phật đạo, khiến cho hết thảy người được nghe không trú vào thành hóa hiện (tỷ dụ cho cõi Niết Bàn của Tiểu Thừa), mà thảy đều quay về với lý của thật tướng Đại Thừa. Ngoài ra, trong các kinh điển của hệ A Hàm thuộc Phật Giáo Nguyên Thủy, từ Thanh Văn đều chỉ chung cho hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia. Về sau, khi giáo đoàn Phật Giáo được xác lập, từ này được dùng chủ yếu chỉ cho các tăng sĩ xuất gia tu hành. Trong Vạn Thiện Đồng Quy Tập (萬善同歸集, Taishō Vol. 48, No. 2017) quyển Trung có đoạn: “Tu Phạm hạnh, đoạn trần tập chi căn nguyên; hiện bệnh hạnh, khế Thanh Văn chi hóa thành (修梵行、斷塵習之根源、現病行、憩聲聞之化城, tu Phạm hạnh, dứt tập khí ấy nguồn căn; hiện bệnh hạnh, nghỉ Thanh Văn ấy hóa thành).”
(永明延壽, Yōmei Enju, 904-975): vị tăng của Pháp Nhãn Tông Trung Quốc, xuất thân Dư Hàng (餘杭), Phủ Lâm An (臨安府, Tỉnh Triết Giang), họ là Vương (王), tự Xung Huyền (冲玄), Bảo Nhất Tử (抱一子). Ngay từ nhỏ ông đã có chí xuất trần nhưng không được toại nguyện, nên làm quan cho nước Ngô Việt. Đến năm 28 tuổi, ông theo xuất gia với Thúy Nham Linh Tham (翠巖令參, thế kỷ thứ 9-10, pháp từ của Tuyết Phong); sau đó theo hầu hạ Thiên Thai Đức Thiều (天台德韶), kế thừa dòng pháp của vị này và trở thành vị tổ thứ 3 của Pháp Nhãn Tông. Vào năm thứ 2 (952) niên hiệu Quảng Thuận (廣順), ông đến trú trì Tuyết Đậu Sơn Tư Thánh Tự (資聖寺). Về sau, thể theo lời thỉnh cầu đặc biệt của Trung Ý Vương (忠懿王), ông nhậm chức trú trì Linh Ẩn Tự (靈隱寺), rồi chuyển sang Vĩnh Minh Tự (永明寺) trong vòng 15 năm và đã độ khoảng 1700 đệ tử. Ông là người kiêm tu cả Thiền lẫn Tịnh Độ, ban đêm thường hành trì pháp môn Niệm Phật. Nhà vua cho xây dựng Tây Phương Quảng Giáo Điện (西方廣敎殿) và cử ông đến đây trú trì. Chính vì lẽ đó, Thạch Chi Tông Hiểu (石芝宗曉) kính ngưỡng ông như là vị tổ đời thứ 7 của Liên Tông. Người đương thời tôn sùng ông là đấng Từ Thị (慈氏, Di Lặc) hạ sanh. Thanh danh ông rất cao, đến nỗi vua Quang Tông (光宗) nước Cao Lệ (高麗) mến mộ đức độ của ông, đã phái 36 vị tăng sang học giáo pháp của ông. Nhờ vậy, Pháp Nhãn Tông được truyền bá sang Cao Lệ và Tông Thiền Tịnh đã phát triển mạnh ở Triều Tiên. Sau khi tiến hành độ tăng, truyền thọ giới pháp và phóng sanh, vào ngày 26 tháng 12 năm thứ 8 (975) niên hiệu Khai Bảo (開寶), ông đốt hương, dặn dò đồ chúng và ngồi kiết già thị tịch, hưởng thọ 72 tuổi đời và 42 hạ lạp. Ông được ban cho thụy hiệu là Trí Giác Thiền Sư (智覺禪師). Ông để lại khá nhiều trước tác như Vạn Thiện Đồng Quy Tập (萬善同歸集) 3 quyển, Huệ Nhật Vĩnh Minh Tự Trí Giác Thiền Sư Tự Hành Lục (慧日永明寺智覺禪師自行錄), Duy Tâm Quyết (唯心訣), v.v. Tác phẩm chính của ông phải kể đến là Tông Kính Lục (宗鏡錄). Đây là tác phẩm gồm 100 quyển, tập trung tất cả các học giả của Duy Thức, Hoa Nghiêm, Thiên Thai để cùng nhau tiến hành giải đáp những nghi vấn, cuối cùng thống nhất lại với nhau thông qua Tâm Tông, là thư tịch dẫn dụng các yếu văn từ những trước tác chính yếu của các tông phái Phật Giáo mà khởi đầu bằng Thiền Tông, và nói về tư tưởng của các phái. Chủ trương nhằm mục đích tổng hợp Phật Giáo như vậy được thể hiện rất rõ qua các tác phẩm như Vạn Thiện Đồng Quy Tập, v.v., và cũng thể hiện lập trường căn bản của Diên Thọ. Đời sau, khi các tư tưởng như Thiền Giáo Song Tu, Giáo Thiền Nhất Trí được thực hiện thành công, dần dần Diên Thọ được mọi người tôn trọng hơn. Với tư tưởng như vậy, đương nhiên Diên Thọ cũng chẳng bài xích Tịnh Độ Giáo.
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.239 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập