Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Ai dùng các hạnh lành, làm xóa mờ nghiệp ác, chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che.Kinh Pháp cú (Kệ số 173)
Hạnh phúc không phải là điều có sẵn. Hạnh phúc đến từ chính những hành vi của bạn. (Happiness is not something ready made. It comes from your own actions.)Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Tôn giáo của tôi rất đơn giản, đó chính là lòng tốt.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Học vấn của một người là những gì còn lại sau khi đã quên đi những gì được học ở trường lớp. (Education is what remains after one has forgotten what one has learned in school.)Albert Einstein
Mục đích của cuộc sống là sống có mục đích.Sưu tầm
Ta sẽ có được sức mạnh của sự cám dỗ mà ta cưỡng lại được. (We gain the strength of the temptation we resist.)Ralph Waldo Emerson
Ngay cả khi ta không tin có thế giới nào khác, không có sự tưởng thưởng hay trừng phạt trong tương lai đối với những hành động tốt hoặc xấu, ta vẫn có thể sống hạnh phúc bằng cách không để mình rơi vào sự thù hận, ác ý và lo lắng. (Even if (one believes) there is no other world, no future reward for good actions or punishment for evil ones, still in this very life one can live happily, by keeping oneself free from hatred, ill will, and anxiety.)Lời Phật dạy (Kinh Kesamutti)
Những chướng ngại không thể làm cho bạn dừng lại. Nếu gặp phải một bức tường, đừng quay lại và bỏ cuộc, hãy tìm cách trèo lên, vượt qua hoặc đi vòng qua nó. (Obstacles don’t have to stop you. If you run into a wall, don’t turn around and give up. Figure out how to climb it, go through it, or work around it. )Michael Jordon
Khi bạn dấn thân hoàn thiện các nhu cầu của tha nhân, các nhu cầu của bạn cũng được hoàn thiện như một hệ quả.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: Vân Nham Tự »»
(高峰顯日, Kennichi, 1241-1316): vị Thiền Tăng của Phái Phật Quang (佛光派) thuộc Lâm Tế Tông, con của Hậu Tha Nga Thiên Hoàng (後嵯峨天皇, Gosaga Tennō), hiệu là Cao Phong (高峰), sinh vào năm thứ 2 niên hiệu Nhân Trị (仁治) ở Ly Cung phía Tây thành. Năm lên 16 tuổi, ông đến bái yết Viên Nhĩ (圓爾) ở Đông Phước Tự (東福寺, Tōfuku-ji), rồi xuống tóc xuất gia thọ Cụ Túc Giới. Đến năm đầu (1260) niên hiệu Văn Vĩnh (文永), khi Ngột Am Phổ Ninh (兀庵普寧) trở về nước và đến sống tại Kiến Trường Tự (建長寺, Kenchō-ji) thì ông đến đó làm thị giả cho vị này. Lâu sau, ông lánh vào sống trong rừng, nên chúng tín đồ mới đến xin ông cho dựng thảo am lấy tên là Vân Nham Tự (雲巖寺). Đến năm thứ 2 (1279) niên hiệu Hoằng An, Vô Học Tổ Nguyên (無學祖元) trở về nước rồi đến sống ở Kiến Trường Tự, mới mời Cao Phong đến Trường Lạc Tự (長樂寺, Chōraku-ji), và khi ấy Cao Phong đến tham kiến Vô Học. Từ đó về sau Cao Phong theo học pháp với Vô Học và cuối cùng thì ngộ được yếu chỉ. Vô Học ấn khả cho ông, rồi truyền trao tín y cũng như pháp ngữ. Sau đó, ông trở về lại Vân Nham Tự ở vùng Na Tu (那須, Nasu, thuộc Tochigi-ken [栃木縣]), rồi đến năm thứ 2 (1300), ông đến ở tại Tịnh Diệu Tự (淨妙寺) ở vùng Tương Mô (相模, Sagami, thuộc Kanagawa-ken [神奈川縣]), và liên tiếp thay chuyển đến sống tại hai chùa Vạn Thọ (萬壽) và Kiến Trường (建長). Đến cuối đời thì ông trở về sống ở Vân Nham Tự, và đến ngày 20 tháng 10 năm thứ 5 niên hiệu Chánh Hòa (正和) thì ông thị tịch, hưởng thọ 76 tuổi đời, 61 hạ lạp. Ông được sắc ban thụy hiệu là Phật Quốc Ứng Cúng Quảng Tế Quốc Sư (佛國應供廣濟國師).
(繼起弘儲, Keiki Kōcho, 1605-1672): vị tăng của Lâm Tế Tông Trung Quốc, tự là Kế Khởi (繼起), hiệu Thối Ông (退翁), xuất thân Thông Châu (通州), Giang Nam (江南, Tỉnh Giang Tô), họ Lý (李). Năm 25 tuổi, ông xuống tóc xuất gia với Hán Nguyệt Pháp Tạng (漢月法藏). Khi Pháp Tạng khai đường giáo hóa ở An Ổn Tự (安穏寺), Hàng Châu (杭州, Tỉnh Triết Giang), ông triệt để khai ngộ được vấn đề muôn kiếp lâu xa vẫn chưa sáng tỏ, nên ở lại hầu thầy được 3 năm và cuối cùng được phó chúc đại pháp. Từ đó trở đi, ông bắt đầu hoạt động giáo hóa tại Tường Phủ Tự (祥府寺), Phu Tiêu (夫椒), Thường Châu (常州, Tỉnh Giang Tô), rồi đến trú trì Thiên Thai Sơn Quốc Thanh Tự (天台山國清寺). Sau đó, ông cũng từng sống qua một số ngôi danh sát khác như Linh Nham Sơn Sùng Báo Tự (靈巖山崇報寺), Nghiêu Phong Bảo Vân Tự (堯封寳雲寺), Hổ Kheo Sơn Vân Nham Tự (虎丘山雲巖寺) ở Tô Châu (蘇州, Tỉnh Giang Tô), Kim Túc Quảng Huệ Tự (金粟廣慧寺) ở Tú Châu (秀州, Tỉnh Triết Giang), Phước Nghiêm Tự (福嚴寺) ở Nam Nhạc (南岳), Hành Châu (衡州, Tỉnh Hồ Nam), Hoa Dược Tự (花藥寺), Cao Phong Lý Sơn Tự (高峰理山寺), Đông Nham Tự (東巖寺) ở Võ Xương (武昌, Tỉnh Hồ Bắc), Đại Biệt Sơn Hưng Quốc Tự (大別山興國寺) ở Hán Dương (漢陽, Tỉnh Hồ Bắc), v.v. Đến ngày 27 tháng 9 năm thứ 11 (1672) niên hiệu Khang Hy (康熙), ông thị tịch, hưởng thọ 68 tuổi. Tháp của ông được an trí tại Nghiêu Phong Sơn (堯峰山) với tên gọi là Đại Quang Minh Tàng (大光明藏). Pháp từ của ông có hơn 70 người và trước tác cũng khá nhiều, đuợc lưu hành trên đời như Thối Ông Hoằng Trữ Thiền Sư Quảng Lục (退翁弘儲禪師廣錄) 60 quyển, Thối Ông Hoằng Trữ Thiền Sư Dư Lục (退翁弘儲禪師餘錄) 30 quyển, Giáp Thìn Lục (甲辰錄), Thọ Tuyền Tập (樹泉集), Báo Từ Lục (報慈錄), mỗi thứ 10 quyển. Hiện tồn có Nam Nhạc Kế Khởi Hòa Thượng Ngữ Lục (南嶽繼起和尚語錄) 10 quyển, Nam Nhạc Đơn Truyền Ký (南嶽單傳記) 5 quyển, Nam Nhạc Lặc Cổ (南嶽勒古) 1 quyển, Linh Nham Ký Lược (靈巖記略) 1 quyển.
(五山十刹, Gozanjussatsu): là tên gọi mà chính phủ sắp theo thứ tự những ngôi tự viện Thiền tiêu biểu, còn vị trú trì sẽ được chọn các vị cao tăng trên toàn quốc đến đảm nhiệm những ngôi chùa này. Các tự viện được liệt vào loại này sẽ được chính phủ công nhận quyền uy của mình, có nghĩa vụ phụng sự cho quốc gia thông qua các lễ như Chúc Thánh, v.v., với tư cách là chùa quan, và thậm chí có khi tình hình tu tập hằng ngày trong chùa còn được giám sát. Tuy nhiên, cũng do vì có liên quan đến việc cầu đảo cho quốc gia, cũng có trường hợp những ngôi chùa quan này được miễn thuế, nhưng mối quan hệ giữa quốc gia và các chùa quan này thì không rõ ràng cho lắm. Ngũ Sơn gồm có 5 chùa lớn là:
(1) Kính Sơn Hưng Thánh Vạn Thọ Tự (徑山興聖萬壽寺, thuộc Phủ Lâm An, Hàng Châu, Tỉnh Triết Giang),
(2) Bắc Sơn Cảnh Đức Linh Ẩn Tự (北山景德靈隱寺, như trên),
(3) Nam Sơn Tịnh Từ Báo Ân Quang Hiếu Tự (南山淨慈報恩光孝寺, như trên),
(4) Thái Bạch Sơn Thiên Đồng Cảnh Đức Tự (太白山天童景德寺, thuộc Phủ Khánh Nguyên, Minh Châu, Tỉnh Triết Giang), và
(5) A Dục Vương Sơn Mậu Phong Quảng Lợi Tự (阿育王山鄮峰廣利寺, như trên).
Thập Sát gồm 10 ngôi chùa là:
(1) Trung Sơn Thiên Ninh Vạn Thọ Vĩnh Tộ Tự (中山天寧萬壽永祚寺, thuộc Phủ Lâm An, Hàng Châu),
(2) Đạo Tràng Sơn Hộ Thánh Vạn Thọ Tự (道塲山護聖萬壽寺, thuộc Huyện Ô Trình, Hồ Châu, Tỉnh Triết Giang),
(3) Tương Sơn Thái Bình Hưng Quốc Tự (蔣山太平興國寺, thuộc Phủ Thượng Nguyên, Kiến Khang, Tỉnh Giang Tô),
(4) Vạn Thọ Sơn Báo Ân Quang Hiếu Tự (萬壽山報恩光孝寺, thuộc Phủ Bình Giang, Tô Châu, Tỉnh Giang Tô),
(5) Tuyết Đậu Sơn Tư Thánh Tự (雪竇山資聖寺, thuộc Phủ Khánh Nguyên, Minh Châu),
(6) Giang Tâm Sơn Long Tường Tự (江心山龍翔寺, thuộc Huyện Vĩnh Gia, Ôn Châu, Tỉnh Triết Giang),
(7) Tuyết Phong Sơn Sùng Thánh Tự (雪峰山崇聖寺, thuộc Huyện Hầu Quan, Phúc Châu, Tỉnh Phúc Kiến),
(8) Vân Hoàng Sơn Bảo Lâm Tự (雲黃山寳林寺, thuộc Huyện Kim Hoa, Vụ Châu, Tỉnh Triết Giang),
(9) Hổ Kheo Sơn Vân Nham Tự (虎丘山雲巖寺, thuộc Phủ Bình Giang, Tô Châu), và
(10) Thiên Thai Sơn Quốc Thanh Kính Trung Tự (天台山國清敬忠寺, thuộc Huyện Thiên Thai, Đài Châu, Tỉnh Triết Giang).
Chế độ này cũng được kế thừa cho đến thời nhà Nguyên, nhưng vào năm 1330 vua Tok Temru (tức Văn Tông, tại vị 1329-1332) đã bỏ ly cung của mình ở ngoại ô Kim Lăng (金陵) mà biến nơi đây thành Đại Long Tường Tập Khánh Tự (大龍翔集慶寺), thỉnh Tiếu Ẩn Đại Hân (笑隱大訢) đến làm tổ khai sơn chùa này và xếp nó lên trên cả Ngũ Sơn. Đến thời nhà Minh, chỉ có ngôi chùa này được đổi tên thành Thiên Giới Thiện Thế Thiền Tự (天界善世禪寺), và thể chế này vẫn được tiếp tục duy trì. Dưới chế độ Ngũ Sơn Thập Sát này còn có các ngôi chùa gọi là Giáp Sát (甲刹, tương đương với những ngôi chùa tổ trung tâm ở Nhật). Sau này ở Nhật người ta cũng mô phỏng theo hình thức này và Ngũ Sơn ở hai vùng kinh đô Kyoto cũng như Liêm Thương đã được liệt vào. Cùng với sự chỉnh bị về chế độ các ngôi chùa quan, nghi thức Bỉnh Phất (秉拂) để trắc nghiệm tư cách trở thành trú trì cũng được quy định rõ rệt, và việc tiến cử trú trì cũng theo thứ tự từ các ngôi chùa Giáp Sát cho đến Thập Sát và Ngũ Sơn.
(雪窻普明, Sessō Fumin, khoảng thế kỷ 13-14): vị tăng sống dưới thời nhà Nguyên, không rõ xuất thân, năm sinh và mất, tự là Tuyết Song (雪窻), đệ tử của Hối Cơ Nguyên Hy (晦機元熙), đồng môn với Tiếu Ẩn Đại Hân (笑隱大訢), chuyên về vẽ hoa lan. Vào năm thứ 2 (1322) niên hiệu Chí Trị (至治) đời vua Anh Tông, tất cả tu sĩ của Phật Giáo và Nho Giáo có năng khiếu về hội họa của vùng Giang Nam (江南) đều tập trung về Bắc Kinh (北京), khi nhà vua hạ lệnh cho ông viết kinh bằng chữ vàng, cũng có vị danh tăng Sở Thạch Phạm Kỳ (楚石梵琦) tham dự. Vào năm thứ 4 (1338) niên hiệu Chí Nguyên (至元) đời vua Thuận Đế, ông làm trú trì Vân Nham Tự (雲巖寺), rồi đến năm thứ 4 (1344) niên hiệu Chí Chánh (至正) làm trú trì Thừa Thiên Tự (承天寺).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.163 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập