Người thực hành ít ham muốn thì lòng được thản nhiên, không phải lo sợ chi cả, cho dù gặp việc thế nào cũng tự thấy đầy đủ.Kinh Lời dạy cuối cùng
Cơ học lượng tử cho biết rằng không một đối tượng quan sát nào không chịu ảnh hưởng bởi người quan sát. Từ góc độ khoa học, điều này hàm chứa một tri kiến lớn lao và có tác động mạnh mẽ. Nó có nghĩa là mỗi người luôn nhận thức một chân lý khác biệt, bởi mỗi người tự tạo ra những gì họ nhận thức. (Quantum physics tells us that nothing that is observed is unaffected by the observer. That statement, from science, holds an enormous and powerful insight. It means that everyone sees a different truth, because everyone is creating what they see.)Neale Donald Walsch
Nhẫn nhục có nhiều sức mạnh vì chẳng mang lòng hung dữ, lại thêm được an lành, khỏe mạnh.Kinh Bốn mươi hai chương
Nếu muốn người khác được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi. Nếu muốn chính mình được hạnh phúc, hãy thực tập từ bi.Đức Đạt-lai Lạt-ma XIV
Ai sống quán bất tịnh, khéo hộ trì các căn, ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần, ma không uy hiếp được, như núi đá, trước gió.Kinh Pháp Cú (Kệ số 8)
Ngu dốt không đáng xấu hổ bằng kẻ không chịu học. (Being ignorant is not so much a shame, as being unwilling to learn.)Benjamin Franklin
Hãy thận trọng với những hiểu biết sai lầm. Điều đó còn nguy hiểm hơn cả sự không biết. (Beware of false knowledge; it is more dangerous than ignorance.)George Bernard Shaw
Kẻ ngu dầu trọn đời được thân cận bậc hiền trí cũng không hiểu lý pháp, như muỗng với vị canh.Kinh Pháp Cú - Kệ số 64
Thành công là khi bạn đứng dậy nhiều hơn số lần vấp ngã. (Success is falling nine times and getting up ten.)Jon Bon Jovi
Ta như thầy thuốc, biết bệnh cho thuốc. Người bệnh chịu uống thuốc ấy hay không, chẳng phải lỗi thầy thuốc. Lại cũng như người khéo chỉ đường, chỉ cho mọi người con đường tốt. Nghe rồi mà chẳng đi theo, thật chẳng phải lỗi người chỉ đường.Kinh Lời dạy cuối cùng
Nếu bạn nghĩ mình làm được, bạn sẽ làm được. Nhưng nếu bạn nghĩ mình không làm được thì điều đó cũng sẽ trở thành sự thật. (If you think you can, you can. And if you think you can't, you're right.)Mary Kay Ash
Trang chủ »» Danh mục »» Từ điển Phật học Tinh tuyển »» Đang xem mục từ: U Minh »»

(北條貞時, Hōjō Sadatoki, 1272-1311): nhà Chấp Quyền của chính quyền Mạc Phủ Liêm Thương; tên lúc nhỏ là Hạnh Thọ (幸壽, Kōju), pháp danh là Sùng Hiểu (崇曉), Sùng Diễn (崇演); cha là Thời Tông (時宗, Tokimune). Năm 1284 (Hoằng An [弘安] thứ 7), ông tựu nhiệm cương vị Chấp Quyền, rồi đến năm sau thì thảo phạt dòng họ An Đạt Thái Thạnh (安達泰盛) và trấn áp thế lực nhóm Ngự Gia Nhân (御家人). Năm 1289 (Ứng Nhân [應仁] thứ 2), ông đẩy lùi tướng quân Duy Khang Thân Vương (惟康新王), rồi ủng lập CửU Minh Thân Vương (久明親王) lên ngôi; tiếp theo năm 1293, ông thảo phạt Nội Quản Lãnh Bình Lại Cương (平賴綱) và đạt đến đỉnh cao sự chuyên chế của dòng họ Bắc Điều. Vào năm 1301 (Chánh An [正安] thứ 3), ông nhường chức Chấp Quyền lại cho Sư Thời (師時, Morotoki) rồi xuất gia, và cho đến khi chết ông vẫn nắm trọn thật quyền trong tay.
(北海): biển phía Bắc, có nhiều nghĩa khác nhau.
(1) Tên gọi một địa phương rất xa xôi, rất ít được dùng đến thời cổ đại. Như trong Tả Truyện (左傳), chương Hy Công Tứ Niên (僖公四年) có câu: “Quân xử Bắc Hải, quả nhân xử Nam Hải, duy thị phong mã ngưu bất tương cập dã (君處北海、寡人處南海、唯是風馬牛不相及也, người ở biển Bắc, quả nhân ở biển Nam, chỉ là gió trâu ngựa không cùng đến được).” Hay trong Tuân Tử (荀子), phần Vương Chế (王制) cũng có đoạn: “Bắc Hải tắc hữu tẩu mãu phệ khuyển yên, nhiên nhi Trung Quốc đắc nhi súc sử chi (北海則有走馬吠犬焉、然而中國得而畜使之, biển Bắc tất có ngựa chạy chó sủa, vì vậy Trung Quốc bắt đem về nuôi và sử dụng chúng).”
(2) Tên gọi khác của Bột Hải (渤海), như trong Trang Tử (莊子), phần Thu Thủy (秋水) có câu: “Thuận lưu nhi Đông hành, chí ư Bắc Hải, Đông diện nhi thị, bất kiến thủy đoan (順流而東行、至於北海、東面而視、不見水端, theo dòng mà đi về phía Đông, đến nơi Bột Hải, xoay mặt về phía đông mà nhìn, chẳng thấy nguồn nước).”
(3) Tên gọi của Quận Bắc Hải (北海郡) dưới thời nhà Hán, hiện ở tại địa phương Huyện Xương Lạc (昌樂縣), Tỉnh Sơn Đông (山東省). Như trong Văn Tâm Điêu Long (文心雕龍), phần Lụy Bi (誄碑) có đoạn rằng: “Phó Nghị chi lụy Bắc Hải, vân 'bạch nhật u quang, phân vụ yểU Minh' (傅毅之誄北海、云'白日幽光、雰霧杳冥', Phó Nghị thuật về Quận Bắc Hải rằng: 'ban ngày tối tăm, sương khói mù mịt).” Vào cuối thời nhà Hán, Khổng Dung (孔融) được bổ nhiệm làm tướng ở Quận Bắc Hải, nên người đời gọi ông là Khổng Bắc Hải (孔北海). Trong bài thơ Thanh Uyển Vọng Lang Sơn Hữu Hoài Chu Khắc Trai (清苑望郎山有懷朱克齋) của Diêu Nãi (姚鼐, 1731-1815) nhà Thanh lại có câu: “Dục tương Bắc Hải đồng tôn tửu, nhiễu tận Tây Sơn đáo Vệ Châu (欲將北海同樽酒、遶盡西山到衛州, muốn đến Bắc Hải cùng nhắp rượu, đi khắp Tây Sơn đến Vệ Châu).”
(4) Bên cạnh đó, đây là tên gọi của Hồ Baikan của Siberia. Trong Tô Võ Truyện (蘇武傳) nhà Hán có đoạn rằng: “Hung Nô tỉ Tô Võ ư Bắc Hải thượng (匈奴徙蘇武於北海上, giặc Hung Nô đuổi Tô Võ lên vùng Hồ Baikan).”
(白巖淨符, Hakugan Jōfu, ?-?): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, hiệu là Vị Trung (位中), pháp từ của Thạch Vũ Minh Phương (石雨明方), sống tại Bạch Nham (白巖), Tiền Đường (錢唐, Tỉnh Triết Giang) và khai đường thuyết pháp tại đây trong vòng 30 năm. Bản Pháp Môn Sừ Quĩ (法門鋤宄) do ông biên soạn vào năm thứ 6 (1667) niên hiệu Khang Hy (康熙) và bản Tổ Đăng Đại Thống (祖燈大統) được biên tập vào năm thứ 11 (1672) cùng niên hiệu trên là các tác phẩm đính chính những sai lầm về thuyết huyết thống chư tổ. Ngoài ra, ông còn có các tác phẩm khác như Nhân Thiên Nhãn Mục Khảo (人天眼目考) 1 quyển, Tụng Thạch Trích Châu (頌石摘珠) 1 quyển, Tông Môn Niêm Cổ Vị Tập (宗門拈古彙集) 4 quyển. Pháp từ của ông có Hương Mộc Trí Đàn (香木智檀) là kiệt xuất nhất.
(寶珠): viên ngọc báu; còn gọi là minh châu (明珠, viên ngọc sáng) Như Ý, là vật do đức Bồ Tát Địa Tạng (s: Kṣitigarbha, 地藏) cầm trên tay trái. Như tại Thánh Phước Tự (聖福寺, Shōfuku-ji) ở Trường Khi (長崎, Nagasaki), Nhật Bản có câu đối rằng: “Chưởng thượng minh châu phá si vân ư Minh Phủ, thủ trung kim tích yết huệ nhật ư u đô (掌上明珠破癡雲於冥府、手中金錫揭慧日於幽都, ngọc sáng trên tay phá mây mê chốn Minh Phủ, tay cầm tích trượng rọi trời tuệ cõi tối tăm).” Hay trong Bạch Vân Thủ Đoan Thiền Sư Ngữ Lục (白雲守端禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 69, No. 1351) quyển Thượng có đoạn: “Ngã hữU Minh châu nhất khỏa, cửu bị trần lao quan tỏa, kim triêu trần tận quang sanh, chiếu phá sơn hà vạn đóa (我有明珠一顆、久被塵勞關鎖、今朝塵盡光生、照破山河萬朵, ta có ngọc sáng một viên, lâu bị bụi trần che lấp, sáng nay bụi sạch tỏa sáng, chiếu khắp núi sông vạn cảnh).”
(寶珠): viên ngọc báu; còn gọi là minh châu (明珠, viên ngọc sáng) Như Ý, là vật do đức Địa Tạng Bồ Tát cầm trên tay trái. Như tại Thánh Phước Tự (聖福寺, Shōfuku-ji) ở Trường Khi (長崎, Nagasaki), Nhật Bản có câu đối rằng: “Chưởng thượng minh châu phá si vân ư Minh Phủ, thủ trung kim tích yết huệ nhật ư u đô (掌上明珠破癡雲於冥府、手中金錫揭慧日於幽都, ngọc sáng trên tay phá mây mê chốn Minh Phủ, tay cầm tích trượng rọi trời tuệ cõi tối tăm).” Hay trong Bạch Vân Thủ Đoan Thiền Sư Ngữ Lục (白雲守端禪師語錄, 卍 Tục Tạng Kinh Vol. 69, No. 1351) quyển Thượng có đoạn: “Ngã hữU Minh châu nhất khỏa, cửu bị trần lao quan tỏa, kim triêu trần tận quang sanh, chiếu phá sơn hà vạn đóa (我有明珠一顆、久被塵勞關鎖、今朝塵盡光生、照破山河萬朵, ta có ngọc sáng một viên, lâu bị bụi trần che lấp, sáng nay bụi sạch tỏa sáng, chiếu khắp núi sông vạn cảnh).”
(s: Prajñā, 般若, 734-?): tức Bát Nhã Tam Tạng (般若三藏), vị cao tăng dịch kinh dưới thời nhà Đường, còn gọi là Bát Lạt Nhã (般剌若); xuất thân người nước Ca Tất Thí (迦畢試, Kế Tân [罽賓]), họ là Kiều Đáp Ma (喬答摩). Năm lên 7 tuổi, ông xuất gia, đến 20 tuổi thì thọ Cụ Túc Giới. Năm 23 tuổi, ông đến Na Lan Đà Tự (娜爛陀寺) ở miền trung Ấn, nương theo ba vị đại luận sư Trí Hộ (智護), Tấn Hữu (進友), Trí Hữu (智友), chuyên nghiên cứu về Duy Thức, Du Già, Trung Quán, Kim Cang Kinh, Ngũ Minh, v.v. Sau đó, ông lên thuyền chu du khắp các nước vùng Nam Hải, vào năm 781 (Kiến Trung [建中] 2) đời vua Đức Tông (德宗, tại vị 779-805) nhà Đường, ông đến Quảng Châu, rồi vào kinh đô Trường An. Vào năm 788 (Trinh Nguyên 4), ông dịch được Đại Thừa Lý Thú Lục Ba La Mật Đa Kinh (大乘理趣六波羅密多經) 10 quyển. Đến tháng 7 năm 790, ông phụng sắc chỉ theo sứ sang nước Ca Thấp Di La (s: Kaśmīra, p: Kasmīra, 迦濕彌羅). Không bao lâu sau, ông được ban cho hiệu Bát Nhã Tam Tạng và Tử Y. Về sau, ông còn dịch thêm một số kinh điển khác như Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh (般若波羅蜜多心經), Tứ Thập Hoa Nghiêm (四十華嚴), Đại Thừa Bản Sanh Tâm Địa Quán Kinh (大乘本生心地觀經), Thủ Hộ Quốc Giới Chủ Đà La Ni Kinh (守護國界主陀羅尼經), v.v.
(平田篤胤, Hirata Atsutane, 1776-1883): nhà Quốc Học, Thần Đạo, tư tưởng gia, y sĩ, sống vào khoảng cuối thời Giang Hộ; xuất thân Phiên Cửu Bảo Điền (久保田藩, Kubota-han), Xuất Vũ (出羽, Dewa); sau khi thành nhân là con nuôi của Bình Điền Đốc Ổn (平田篤穩), nhà binh học của Phiên Tùng Sơn (松山藩, Matsuyama-han), Bị Trung (僃中, Bicchū). Tên lúc nhỏ của ông là Chánh Cát (正吉); thông xưng là Bán Binh Vệ (半兵衛); hiệu Khí Xuy Xá (氣吹舍), Đại Giác (大角), Đại Hác (大壑); gia hiệu là Chơn Quản Nãi Ốc (眞菅乃屋). Với tư cách là nhà y học, ông dùng tên Huyền Trác (玄琢) và sau khi qua đời thì được nhà Bạch Xuyên (白川, Shirakawa) tặng cho danh hiệu là Thần Linh Năng Chơn Trụ Đại Nhân (神靈能眞柱大人). Ông là người hình thành hệ thống gọi là Phục Cổ Thần Đạo (復古神道, tức Cổ Đạo Học), cùng với Hà Điền Xuân Mãn (河田春滿), Hạ Mậu Chơn Châu (加茂眞洲), Bổn Cư Tuyên Trường (本居宣長), được liệt vào Quốc Học Tứ Đại Nhân. (國學四大人). Ông học ở Giang Hộ, rồi sau Bổn Cư Tuyên Trường qua đời, ông tự xưng là “môn nhân sau khi chết” của vị này. Ông cấu tưởng vũ trụ luận mang tính quốc học vốn phát xuất từ Thiên Địa Khai Tị Luận (天地開闢論, luận trời đất mở mang), chỉnh lý trật tự các Thần và hình thành Thần Đạo Thần Học. Trên cơ sở xã hội quan mới mẻ thông qua khái niệm gọi là “sản linh (産靈)”, ông lấy quan niệm U Minh Giới (幽冥界, cõi sau khi chết) để thêm vào tính tôn giáo trong quốc học. Bình Điền Học Phái (平田學派) phát triển rộng rãi trong tầng lớp người nông dân giàu có cũng như Thần Quan, hình thành một học phái lớn ở trung tâm vùng Trung Bộ, Quan Đông và đã đem đến ảnh hưởng không nhỏ cho cuộc vận động Tôn Vương (尊王) vào cuối thời Mạc Phủ. Trước tác của ông có rất nhiều như Cổ Đạo Đại Ý (古道大意), Linh Năng Chơn Trụ (靈能眞柱), Cổ Sử Trưng (古史徴), Quỷ Thần Tân Luận (鬼神新論), Cổ Kim Yêu Mị Khảo (古今妖魅考), Mật Giáo Tu Sự Bộ Loại Cảo (密敎修事部類稿), Cổ Dịch Thành Văn (古易成文), Tiên Cảnh Dị Văn (仙境異聞), Cổ Dịch Đại Tượng Kinh Thành Văn (古易大象經成文), Y Xuy Ư Lữ Chí (伊吹於呂志), Thần Đồng Bằng Đàm Lược Ký (神童憑談略記), Cổ Dịch Đại Tượng Kinh Truyện (古易大象經傳), Đồng Mông Nhập Học Môn (童蒙入學門), Tam Dịch Do Lai Ký (三易由來記), Tam Thần Sơn Dư Khảo (三神山余考), Tượng Dịch Chánh Nghĩa (象易正義), Tục Thần Đạo Đại Ý (俗神道大意), Thái Hạo Cổ Dịch Truyện Thành Văn (太昊古易傳成文), Tây Tịch Khái Luận (西籍概論), Vụ Đảo Sơn U Hương Chơn Ngữ (霧島山幽郷眞語), Xuất Định Tiếu Ngữ (出定笑語), Xích Huyện Thái Cổ Truyện (赤縣太古傳), Khâm Mạng Lục (欽命錄), Ca Đạo Đại Ý (歌道大意), Thiên Trụ Ngũ Nhạc Khảo (天柱五嶽考), Thái Hạo Cổ Lịch Truyện (太昊古曆傳), Khí Xuy Xá Ca Văn Tập (氣吹舍歌文集), Cổ Lịch Nhật Bộ Thức (古曆日歩式), Chí Đô Năng Thạch Ốc (志都能石屋), Ngũ Nhạc Chơn Hình Đồ Thuyết (五嶽眞形圖說), Y Tông Trọng Cảnh Khảo (醫宗仲景考), Cát Tiên Ông Văn Túy (葛仙翁文粋), Xuân Thu Lịch Bổn Thuật Thiên (春秋曆本術篇), Đại Đạo Hoặc Vấn (大道或問), Cát Tiên Ông Truyện (葛仙翁傳), Hoàng Đế Truyện Ký (黃帝傳記), Hoằng Nhân Lịch Vận Ký Khảo (弘仁歷運記考), Ngưu Đầu Thiên Vương Lịch Thần Biện (牛頭天王曆神辨), v.v. Môn đệ của ông có Đại Quốc Long Chánh (大國隆正), Linh Mộc Trùng Dận (鈴木重胤), Lục Nhân Bộ Thị Hương (六人部是香), Sanh Điền Vạn (生田萬), Quyền Điền Trực Trợ (權田直助), v.v.
(s: Bodhidharma, 菩提達磨, ?-495, 346-495, ?-528, ?-536): xưa kia người ta viết chữ Ma là 摩, nhưng về mặt truyền thống thì viết là 磨. Các học giả Cận Đại thì viết là 磨, khi xem Đại Sư như là vị Tổ sư; còn viết là 摩 khi xem như là nhân vật lịch sử. Theo hệ thống truyền đăng của Thiền Tông, Đại Sư là vị Tổ thứ 28 của Tây Thiên (Ấn Độ), và là sơ Tổ của Thiền Tông Trung Hoa. Những truyền ký về Đạt Ma thì xưa nay đều y cứ vào bản Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (景德傳燈錄, năm 1004) cũng như Bồ Đề Đạt Ma Chương (菩提達磨章); nhưng theo những nghiên cứu gần đây, người ta có khuynh hướng cấu thành truyền ký về ông dựa trên những tư liệu xưa hơn hai tư liệu vừa nêu trên. Tư liệu về Đạt Ma Truyện thì có nhiều loại như Lạc Dương Già Lam Ký (洛陽伽藍記, năm 547), Đàm Lâm Nhị Chủng Nhập (曇琳二種入, khoảng năm 600), Tục Cao Tăng Truyện (續高僧傳, năm 645), Truyền Pháp Bảo Ký (傳法寳記, khoảng năm 712), Lăng Già Sư Tư Ký (楞伽師資記, khoảng năm 713, 716), Lịch Đại Pháp Bảo Ký (歷代法寳記, khoảng năm 774), Bảo Lâm Truyện (寳林傳, năm 801), Tổ Đường Tập (祖堂集, năm 952), v.v. Thông qua Bảo Lâm Truyện từ đó các ký lục của Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Truyền Pháp Chánh Tông Ký (傳法正宗記, năm 1061), v.v., được hình thành. Lại nữa, chúng ta cần phải lưu ý đến những văn bản như Nội Chứng Phật Pháp Tương Thừa Huyết Mạch Phổ (內證佛法相承血脈譜, năm 819) của Tối Trừng (最澄, Saichō), Bồ Đề Đạt Ma Nam Tông Định Thị Phi Luận (菩提達摩南宗定是非論, năm 732), Vấn Đáp Tạp Chưng Nghĩa (問答雜徴義) của Thần Hội (神會), rồi Thiền Môn Sư Tư Tương Thừa Đồ (禪門師資相承圖), Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự (禪源諸詮集都序), Viên Giác Kinh Đại Sớ Sao (圓覺經大疏鈔) của Tông Mật (宗密). Từ đó, xét về tiểu sử của Đạt Ma, ta thấy rằng Đại Sư sanh ra ở nước Ba Tư (波斯) hay Nam Thiên Trúc (南天竺). Theo như tài liệu mới thành lập sau này cho thấy rằng ông là người con thứ 3 của quốc vương nước này. Ông kế thừa dòng pháp của Bát Nhã Đa La (s: Prajñātara, 般若多羅), rồi sau đó sang Trung Quốc. Bảo Lâm Truyện thì cho rằng ông đến Quảng Châu (廣州) vào ngày 21 tháng 9 năm thứ 8 (527) niên hiệu Phổ Thông (普通) nhà Lương. Bản ghi rõ ngày tháng thì có Bảo Lâm Truyện này, nhưng đời sau lại có khá nhiều dị thuyết xuất hiện. Sự việc vua Lương Võ Đế (武帝, tại vị 502-549) xuất hiện trong câu chuyện Đạt Ma, lần đầu tiên được tìm thấy trong Nam Tông Định Thị Phi Luận và Vấn Đáp Tạp Chưng Nghĩa; còn các tư liệu trước đó thì không thấy. Câu trả lời “vô công đức (無功德, không có công đức)” của Đạt Ma đối với vua Lương Võ Đế, mãi cho đến bản Tổ Đường Tập mới thấy xuất hiện. Về sau, Đạt Ma đến tại Tung Sơn Thiếu Lâm Tự (嵩山少林寺), ngồi xoay mặt vào vách tường suốt 9 năm trường. Còn câu chuyện Huệ Khả (慧可) tự mình chặt tay giữa lúc tuyết rơi rồi dâng lên cho Đạt Ma để cầu pháp, lần đâu tiên được ghi lại trong Lăng Già Sư Tư Ký; nhưng Tục Cao Tăng Truyện thì lại cho rằng Huệ Khả gặp bọn cướp giữa đường và bị chặt tay. Môn nhân của Đạt Ma có 4 nhân vật nổi tiếng là Đạo Dục (道育), Huệ Khả (慧可), Ni Tổng Trì (尼總持) và Đạo Phó (道副). Đại Sư có trao truyền cho Huệ Khả 4 quyển Kinh Lăng Già, y Ca Sa, và bài kệ phú pháp. Bài này được ghi lại trong Bảo Lâm Truyện. Bản Lạc Dương Già Lam Ký có ghi rằng lúc khoảng 150 tuổi, Đạt Ma tán thán cảnh sắc hoa mỹ của chốn già lam Vĩnh Ninh Tự (永寧寺), rồi xướng danh hiệu Nam Mô, chấp tay mà thị tịch. Còn việc Đạt Ma bị giết chết bằng thuốc độc có ghi lại trong Truyền Pháp Bảo Ký. Trong Lịch Đại Pháp Bảo Ký có đề cập rằng Bồ Đề Lưu Chi (s: Bodhiruci, 菩提流支) và Quang Thống Luật Sư (光統律師, tức Huệ Quang [慧光]) đã trãi qua 6 lần bỏ thuốc độc hại Đạt Ma. Về năm Ngài thị tịch, Bảo Lâm Truyện có ghi là vào ngày mồng 5 tháng 12 năm Bính Thìn (536), đời vua HiếU Minh Đế (孝明帝, tại vị 515-528) nhà Hậu Ngụy. Trong khi đó, bản bia minh của Huệ Khả thì ghi ngày mồng 5 tháng 12 năm thứ 2 (536) niên hiệu Đại Đồng (大同). Bản Tổ Đường Tập thì ghi là năm thứ 19 (495) niên hiệu Thái Hòa (太和); và Cảnh Đức Truyền Đăng Lục thì ghi là ngày mồng 5 tháng 10 cùng năm trên; hưởng thọ 150 tuổi. Ngài được an táng tại Hùng Nhĩ Sơn (熊耳山), nhưng theo vị sứ nhà Đông Ngụy là Tống Vân (宋雲), ông gặp Đạt Ma ở Thông Lãnh (葱嶺) đang quảy một chiếc hài đi về hướng Tây; nên khi trở về nước, ông cho mở quan tài ra để xem hư thực, mới phát hiện bên trong quan tài chỉ còn lại một chiếc hài mà thôi. Tương truyền vua Võ Đế soạn bài bia minh tháp. Vua Đại Tông ban cho Đạt Ma thụy hiệu là Viên Giác Đại Sư (圓覺大師); trong bản văn tế của ChiêU Minh Thái Tử (昭明太子) thì gọi là Thánh Trụ Đại Sư (聖胄大師). Những soạn thuật của Đại Sư được lưu truyền cho đến nay có Nhị Chủng Nhập (二種入), Tâm Kinh Tụng (心經誦), Phá Tướng Luận (破相論), An Tâm Pháp Môn (安心法門), Ngộ Tánh Luận (悟性論), Huyết Mạch Luận (血脈論), được thâu tập thành bản gọi là Thiếu Thất Lục Môn (少室六門). Còn trong Thiền Môn Nhiếp Yếu (禪門攝要) của Triều Tiên có thâu lục Huyết Mạch Luận, Quán Tâm Luận (觀心論), Tứ Hành Luận (四行論). Sau này trong các văn bản được khai quật ở động Đôn Hoàng (敦煌) còn có Nhị Nhập Tứ Hành Luận (二入四行論), Tạp Lục (雜錄), Tuyệt Quán Luận (絕觀論), Vô Tâm Luận (無心論), Chứng Tâm Luận (證心論), Đạt Ma Thiền Sư Quán Môn (達磨禪師觀門), Đạt Ma Thiền Sư Luận (達磨禪師論), v.v. Tuy nhiên, theo các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng phần nhiều đó là những trước tác của chư Tổ sư khác nhưng lại lấy tên Đạt Ma; và người ta cũng công nhận rằng trước tác của Đạt Ma chỉ là Nhị Chủng Nhập mà thôi. Nếu căn cứ vào bản này, ta thấy rằng tư tưởng của Đạt Ma là Tứ Như Thị (四如是, bốn điều như vậy) và Nhị Nhập Tứ Hạnh (二入四行). Tứ Như Thị là Như Thị An Tâm (如是安心), Như Thị Phát Hạnh (如是發行), Như Thị Thuận Vật (如是順物) và Như Thị Phương Tiện (如是方便). Nhị Nhập là Lý Nhập (理入) và Hạnh Nhập (行入). Còn Tứ Hạnh là 4 yếu tố được hình thành từ Hạnh Nhập. Tâm yếu làm cơ sở cho Thiền pháp của Đạt Ma được xem như là y cứ vào 4 quyển Kinh Lăng Già; nhưng đó không phải là văn bản giải thích về mặt học vấn của kinh này, mà nhằm nhấn mạnh việc cần phải lấy trọn tinh thần kinh. Theo Tục Cao Tăng Truyện, giới Phật Giáo đương thời rất chú trọng đến nghiên cứu, giảng diễn kinh luận; trong khi đó, Đạt Ma thì lại cổ xúy Thiền mang tính thật tiễn của cái gọi là “không vô sở đắc (空無所得, không có cái gì đạt được)”; cho nên ông bị học giả lúc bầy giờ phê phán mãnh liệt. Từ đó, các thuật ngữ như giáo ngoại biệt truyền (敎外別傳), bất lập văn tự (不立文字), dĩ tâm truyền tâm (以心傳心), kiến tánh thành Phật (見性成佛), v.v., được thành lập. Thời đại thay đổi cho đến thời Lục Tổ Huệ Năng (慧能) trở về sau, những thuật ngữ này trở nên rất thịnh hành, thông dụng; vậy ta có thể khẳng định rằng manh nha của chúng vốn phát xuất từ thời Đạt Ma.
(高野山, Kōyasan): linh địa của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản, được bao bọc bởi ngọn núi cao trên dưới 1000 mét, nằm phía đông bắc Wakayama-ken (和歌山縣), tọa lạc tại Kōya-chō (高野町), Ito-gun (伊都郡). Vào năm 816 (niên hiệu Hoằng Nhân [弘仁] thứ 7), Không Hải Đại Sư (空海大師, Kūkai Daishi) thọ ân tứ của triều đình, lấy nơi đây làm đất nhập định cho bản thân mình và sáng lập ra ngôi Kim Cang Phong Tự (金剛峰寺, Kongōbō-ji), ngôi chùa trung tâm của Chơn Ngôn Tông Nhật Bản. Cao Dã Sơn còn là tên gọi thông thường của Kim Cang Phong Tự. Không Hải Đại Sư đã nhập diệt tại thánh địa này. Ngôi già lam được hình thành theo dạng thức độc đáo của Mật Giáo, phối trí ở hậu phương đông tây lấy Giảng Đường và Trung Môn làm trục, có ngôi Đại Tháp (tức Căn Bổn Đại Tháp) và Tây Tháp, tượng trưng cho vũ trụ theo hai bộ Thai Tạng Giới (胎藏界, Taizōkai) và Kim Cang Giới (金剛界, Kongōkai). Sau khi Không Hải qua đời, thánh địa này đi đến tình trạng suy vong vì quá cách xa với kinh đô; nhưng từ khoảng giữa thế kỷ thứ 10 trở đi, tín ngưỡng cho rằng Không Hải chỉ nhập định thôi, vẫn còn sống và cứu độ chúng sanh, bắt đầu xuất hiện, cho nên tầng lớp quý tộc cũng như hoàng tộc liên tục lên núi tham bái, nhờ vậy nơi đây hưng thịnh trở lại. Vào khoảng đầu thế ký 15, nhờ sự xuất hiện của các bậc học tượng như Hựu Khoái (宥快, Yūkai), Trường Giác (長覺, Chōkaku), v.v., giáo học của Cao Dã Sơn được hình thành có hệ thống và truyền thống đó vẫn được kế thừa cho đến ngày nay. Vào năm 1872 (niên hiệU Minh Trị [明治] thứ 5), luật cấm không cho người nữ lên núi được giải bỏ, dần dần các cư sĩ tại gia lên núi lập nghiệp. Hiện tại nơi đây hình thành một thị trấn tên Môn Tiền Đinh (門前町, Monzen-machi) có 117 ngôi tự viện, các cơ quan giáo dục như trường Đại Học, Trung Học và rất nhiều hiệu buôn. Mỗi năm có khoảng hơn 1 triệu người đến tham bái thánh địa này.
(高峰原妙禪師語錄, Kōhōgenmyōzenjigoroku): tức Cao Phong Đại Sư Ngữ Lục (高峰大師語錄, Kōhōdaishigoroku), 2 quyển, do Cao Phong Nguyên Diệu (高峰原妙) soạn, nhóm Vương Nhu (王柔) biên, san hành dưới thời nhà Nguyên, tái san hành vào năm thứ 27 (1599) niên hiệu Vạn Lịch (萬曆), là bộ Ngữ Lục của Nguyên Diệu―pháp từ của Tuyết Nham Tổ Khâm (雪巖祖欽). Tác phẩm này thâu lục những bài pháp ngữ thượng đường, dạy chúng, niêm cổ, tụng cổ, kệ tụng, các Phật sự nhỏ, các bài tán chư Phật tổ, bài tự tán, hành trạng, bài minh của tháp, v.v. Sau khi qua đời, môn nhân của Nguyên Diệu đã tiến hành biên tập và cho san hành; vào năm thứ 27 niên hiệu Vạn Lịch, Vân Thê Châu Hoằng (雲棲袾宏) có ghi thêm lời tựa cho nên bộ này lại được tái san hành. Về sau, nó được đưa vào Tục Tạng nhà Minh vào năm thứ 6 (1667) niên hiệu Khang Hy (康熙). Ngoài ra còn có bản san hành năm thứ 25 (1899) niên hiệu Quang Tự (光緒). Tại Nhật Bản, thư tịch này được san hành dưới thời đại Nam Bắc Triều, có bản năm thứ 3 (1657) niên hiệU Minh Lịch (明曆). Vào khoảng niên hiệu Nguyên Lộc (元祿), bộ này được san hành tại Cao Nguyên Tự (高源寺, Kōgen-ji) vùng Đơn Ba (丹波, Tamba, thuộc Hyōgo-ken).
DO NXB LIÊN PHẬT HỘI PHÁT HÀNH
Mua sách qua Amazon sẽ được gửi đến tận nhà - trên toàn nước Mỹ, Canada, Âu châu và Úc châu.
Quý vị đang truy cập từ IP 216.73.216.129 và chưa ghi danh hoặc đăng nhập trên máy tính này. Nếu là thành viên, quý vị chỉ cần đăng nhập một lần duy nhất trên thiết bị truy cập, bằng email và mật khẩu đã chọn.
Chúng tôi khuyến khích việc ghi danh thành viên ,để thuận tiện trong việc chia sẻ thông tin, chia sẻ kinh nghiệm sống giữa các thành viên, đồng thời quý vị cũng sẽ nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật từ Ban Quản Trị trong quá trình sử dụng website này.
Việc ghi danh là hoàn toàn miễn phí và tự nguyện.
Ghi danh hoặc đăng nhập